TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN LÝ CÔNG NGHIỆP
BỘ MÔN KINH TẾ HỌC ĐẠI CƯƠNG
BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN
Đề tài:
Tình hình nợ công ở Việt Nam và các nước tiêu biểu.
Họ và tên: Nguyễn Khánh Đạt
Khoa: Công Nghệ Vật Liệu
Lớp: VL14NL
MSSV: 1410805
Giảng viên bộ môn: Trần Thị Phương Thảo
Hồ Chí Minh ngày 8 tháng 12 năm 2016
1
Mục lục
Khái niệm:
I.
-
Theo Luật quản lí nợ công ngày 17/06/2009 của Quốc hội khóa 12:
Nợ công gồm 3 nhóm: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa
-
phương.
Được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan Nhà nước có thẩm
-
quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy.
Các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu Chính phủ (trong và ngoài nước),
trái phiếu công trình đô thị hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ
bảo lãnh được xem là công nợ.
Phân loại:
II.
1. Phân loại theo chủ thể vay:
- Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước như phát hành trái
phiếu, vay của Ngân hàng, vay ngoài nước: các thể chế siêu quốc gia, quỹ tiền tệ Quốc tế
- IFM, được kí kết phát hành nhân dân nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản
vay khác do Bộ tài chính kí kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp
luật. Không bao gồm các khoản nợ do Ngân hành Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm
-
thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kì.
Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng
-
vay trong nước, nước ngoài được chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do UBND Tỉnh-TP trực thuộc trung ương kí kết
hoặc ủy quyền phát hành .
2
2. Phân loại theo nguồn vay:
- Vay trong nước: Chính phủ vay thông qua phát hành công cụ nợ. UBND cấp tỉnh vay để
đầu tư phát triển kinh tế xã hội thông qua phát hành, ủy quyền phát hành trái phiếu chính
-
quyền địa phương, vay từ các nguồn tài chính hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Vay ngoài nước: khoản vay ngắn hạn, trung-dài phải trả lãi hoặc không phải trả lãi di
Nhà nước, Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức khác của Việt Nam vay của Chính phủ
nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
3. Phân loại theo thời gian vay:
- Khoản vay ngắn hạn: là khoản vay có kỳ hạn dưới một năm.
- Khoản vay trung-dài hạn: là có khoản vay có kỳ hạn từ một năm trở lên.
Thực trạng nợ công ở các nước tiêu biểu trên thế giới
III.
-
Thực trạng khủng hoảng nợ công tại Mỹ
Tổng quan:
Nợ công hiện tại của Mỹ là $19 ngàn tỷ USD.
Thập kỷ đầu thế kỷ XXI, kinh tế Mỹ sa sút. Dù là quốc gia mạnh về quân sự và kinh tế,
nhưng ngân sách Mỹ dư thừa hàng trăm tỷ USD trở thành quốc gia có mức thâm hụt ngân
sách hằng năm hơn 1.000 tỷ USD, một trong những "con nợ" lớn nhất thế giới (mức nợ
công của Mỹ năm 2012 đã tăng lên hơn 16.000 tỷ USD; tỷ lệ nợ công/GDP của Mỹ tăng
-
với tốc độ khá nhanh, từ 45,6% năm 2001 lên xấp xỉ 100% năm 2011).
Theo Văn phòng Kiểm toán Chính phủ Mỹ (GAO - Government Accountability Office),
quốc gia này đang ở trong tình trạng “không bền vững” về tài chính. Dự kiến, mức nợ
quốc gia năm 2019 của Mỹ sẽ tăng lên đến 23,3 nghìn tỷ USD.
Mức tăng trưởng và dự đoán về mức tăng trưởng nợ công của Mỹ từ 2001 đến 2021
Nguồn: usgovermentspending.com
Nguyên nhân:
Thứ nhất, nguồn thu từ thuế thấp.
3
-
Mỹ duy trì mức thuế thấp, qua đó kích thích kinh tế tăng trưởng để gia tăng thu ngân
sách.Mức thuế huy động so với tổng GDP ở Mỹ chỉ bằng khoảng ¾ so với các nước phát
-
triển khác.
Thứ hai, chi tiêu công gia tăng.
Chi tiêu cho y tế của Chính phủ Mỹ đã tăng hơn 2 lần từ 2001 đến 2010 . Chi tiêu cho
quốc phòng tăng từ xấp xỉ 2,4 lần. Tỷ lệ trong tổng chi tiêu ngân sách tăng từ 20,9% lên
23,6% đối với y tế và tăng từ 19,7% lên 24,3% đối với quốc phòng trong cùng giai đoạn.
Các gói cứu trợ kích thích kinh tế của Mỹ sau khủng hoảng cũng làm cho gánh nặng nợ
-
công của Mỹ gia tăng mạnh.
Thứ ba, môi trường quốc tế thuận lợi cho việc vay nợ.
Sự thuận lợi của Mỹ trong việc vay nợ nước ngoài là do:
Nhu cầu trái phiếu Chính phủ Mỹ gia tăng và các nước đều sẵn sàng mua trái phiếu
-
Chính phủ Mỹ
Lãi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ đang có xu hướng giảm nên áp lực về vấn đề trả lãi vay
-
của Mỹ không quá lớn.
Thực trạng khủng hoảng nợ công ở Châu Âu – Hy Lạp.
Tổng quan:
Khủng hoảng nợ công châu Âu là cuộc khủng hoảng của một số quỹ đầu tư có ý đồ xấu
trên thị trường vốn quốc tế và phương tiện truyền thông.
Mục đích :
• Thứ 1 : chống lại đồng EURO, tạo ra một sự bất ổn kinh tế cho toàn bộ nền kinh
tế Châu Âu.
Thứ 2 : Làm mất giá đồng EURO tạo điều kiện cho đồng USD.
Đồng EURO có ảnh hưởng ngày càng lớn, đe doạ đồng USD trong lĩnh vực tài chính.
•
-
Nếu đồng EURO sụp đổ, sự đe doạ của nó đến đồng USD mất đi, còn ngăn chặn nền kinh
-
tế châu Âu thách thức nền kinh tế Mỹ.
Các quỹ đầu tư và phương tiện truyền thông đã phóng đại cuộc khủng hoảng nợ châu Âu,
tạo tâm lí khủng hoảng và các nhà đầu tư bán tháo đồng Euro, tạo niềm tin cho đồng
-
USD.
Khủng hoảng nợ công châu bùng nổ đầu tiên ở Hy Lạp vào năm 2010 khi chi phí cho các
-
khoản nợ Chính phủ liên tục tăng lên sau đó đã lan sang Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Ý.
Nguyên nhân gây nên nợ công ở Hy Lạp:
Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp xuất phát từ nguyên nhân chính là khả năng quản trị
tài chính công yếu kém cùng với những khoản chi tiêu của chính phủ quá lớn, vượt khả
năng kiểm soát. Phân định rõ 5 nhóm nguyên nhân sau:
4
•
Thứ nhất, tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu
công. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn đến từ
•
bên ngoài
Thứ hai, chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách. Năm 2008, khủng
hoảng tài chính toàn cầu nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công
nghiệp chủ chốt của Hy Lạp. Kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn,
nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà nước bị co hẹp mạnh. Trong khi đó Hy
•
Lạp lại phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế.
Thứ ba, nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân
sách và gia tăng nợ công. Tham nhũng triền miên, trốn thuế và hoạt động kinh tế
•
ngầm.
Thứ tư, sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng
nguồn vốn không hiệu quả, chính phủ Hy Lạp đã chi tiêu quá tay mà hầu như
•
không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ.
Thứ năm, thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư. Đã nhanh chóng
xuất hiện các làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy Lạp.
Tình trạng nợ công ở Việt Nam:
IV.
-
Việc vay nợ trong kinh doanh không phải là xấu nhưng nếu nợ công gia tăng quá nhanh
và không thể kiểm soát được trong dài hạn thì sẽ biến thành một khoản nợ lớn khiến cho
sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng bị chậm lại và còn khiến quốc gia bị tụt hạng tín
-
nhiệm theo đánh giá của các tổ chức quốc tế.
Trong khi đó, nợ công của Việt Nam hiện nay đang ở mức 54,3% GDP với tốc độ tăng
trưởng nợ hàng năm trên 15%. Với tốc độ này, nợ công của Việt Nam sẽ vượt 100%
GDP, một con số đáng báo động đối với một nền kinh tế nhỏ đang phát triển và phụ
thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ.
1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam:
- Năm 2015, nợ công Việt Nam lên đến 110 tỉ USD và chỉ riêng khoản chi trả lãi vay đã
-
lên đến 7,2% tổng chi ngân sách nhà nước.
Đến cuối năm 2014, tổng nợ công của Việt Nam bao gồm nợ của chính phủ, nợ được
chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương ước tính là 2,35 triệu USD, tỷ
trọng tăng nhanh so với GDP, từ 50% năm 2011 lên 59,6% năm 2014. Dự kiến công nợ
-
đến hết năm 2015 khoảng 61,3% GDP, tăng so với con số 59,5% GDP vào năm 2014.
Các chỉ tiêu khác như nợ Chính phủ khoảng 48,9% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia
khoảng 41,5%. Về cân đối ngân sách, bội chi ngân sách năm 2015 ở mức 226 tỷ đồng,
tương đương 5% GDP, trong phạm vi Quốc hội quyết định.
5
-
Dù nợ công trong mức cho phép, tuy nhiên trong thời gian qua, nhiều tổ chức trong và
-
ngoài nước đánh giá, áp lực nợ đã bắt đầu đè nặng lên nợ công Chính Phủ.
Theo Ngân hàng thế giới cho biết toàn bộ dữ liệu về nợ công Việt Nam được thu thập từ
các cơ quan có thẩm quyền của Chính Phủ. Bình quân mỗi người dân Việt Nam “gánh”
gần 1212,7 USD nợ công. Trong khi đó thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tính
-
tới cuối năm ngoái (2015) là khoảng 2000 USD/năm.
Được biết Các khoản nợ công sẽ phải thanh toán nhiều nhất rơi vào thời điểm năm 2022
– 2025.
2. Quy mô nợ công:
Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới là 11,5 tỷ
USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số nợ công xấp xỉ 144 USD.
Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương 54,3%
GDP và hiện tại, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có mức nợ công trên trung bình.
Như vậy, trong vòng 10 năm từ 2001 đến nay, quy mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với
tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm. Nếu tiếp tục với tốc độ này thì chỉ trong vòng 5
năm nữa, đến năm 2016, nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như hai nước
thành viên EU mới lâm vào khủng hoảng nợ công gần đây là Hy Lạp (133,6%), Ailen
(129,2%). Nợ công đạt trên 100% GDP là một con số không nhỏ đối với một nền kinh tế
đang phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô
và công nghiệp nhẹ như Việt Nam.
Tình hình nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2001-2010
Nguồn: The Economist Intelligence Unit.
3. Cơ cấu nợ công:
Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 – 2010 gồm nợ chính phủ chiếm 78,1%, còn lại
là nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong nợ chính phủ, nợ
nước ngoài chiếm 61,9%; nợ trong nước chiếm 38,1%. Trong nợ nước ngoài, ODA
6
chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể, năm 2009, nợ công của Việt Nam gồm nợ chính phủ chiếm
79,2%, nợ được chính phủ bảo lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương chiếm
3,1%; trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 60%,trong đó có 85% là ODA.
Cơ cấu nợ công Việt Nam năm 2006 – 2010:
Bình
Đơn vị
2006
2007
2008
2009
2010
Tỷ USD
23,7
24,1
31,2
37,8
45,3
32,4
phủ
%GDP
39,0
33,8
36,5
40,4
44,6
38,9
Nợ chính
% Nợ
phủ
công
85,0
68,0
76,2
79,2
82,1
78,1
14,6
17,3
18,9
23,9
25,1*
20
71,6
60,7
60,0
55,4%** 61,9
28,3
25,1
29,3
N/A
Nợ
chính
phủ
Nợ chính
quân
Nợ nước
ngoài của
Tỷ
chính phủ
USD
Nợ nước
ngoài của
chính phủ
% Nợ
chính
61,6
phủ
Nợ nước
%
ngoài của
GDP
26,7
7
khu vực
công
Nợ nước
ngoài của
% Nợ
khu vực
công
58,2
56,9
52,4
57,5
N/A
công
Nguồn: Bộ Tài Chính, Bản tin nợ nước ngoài số 6
Chú thích: , *: Số liệu 6 tháng đầu năm 2010
4. Tình hình sử dụng nợ công:
Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được chuyển tải vào các
dự án đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững.
Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam không đạt hiệu quả cao, thể hiện ở hai khía
cạnh sau:
-
Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn: Tình trạng chậm trễ trong giải ngân
nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ diễn ra khá
thường xuyên. Theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước, hết tháng 10/2009, mới giải ngân
được 26.586 trong số 64.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ, bằng 47,5% kế hoạch
năm. Tình trạng dự án, công trình thi công dở dang, chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến độ
vẫn chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công
và trong hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các tập đoàn lớn, dẫn đến
đầu tư dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự
-
án đầu tư.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR (xem Biểu đồ2): Năm 2009,
trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thìtốc độ tăng trưởng lại chỉ
đạt 5,2%. Chỉ số ICOR năm 2009 đã tăng tới mứcquá cao, trên 8 so với 6,6 của năm
2008. Điều này có nghĩa là, nếu năm 2001 Việt Nam cần 5,24 đồng vốn để tạo ra được 1
đồng sản lượng, thì giờ đây cần phải đầu tư thêm gần 3 đồng vốn nữa.
8
-
Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định và hầu như
không có sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng năm Việt Nam dành ra trên 3,5%
GDP để chi trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm dần qua các năm, từ 9,09%
năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2010. Trong khi đó, quy mô của các khoản nợ công
ngày càng tăng lên với tốc độ chóng mặt với gần 20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng
nợ công ở Việt Nam còn đang tồn tại nhiều bất cập như chậm trễ trong giải ngân và sự
kém hiệu quả trong sử dụng vốn vay vào các dự án đầu tư. Điều này tác động tiêu cực tới
khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai.
Tình hình trả nợ và viện trợ của Việt Nam năm 2006 – 2010
Nguồn: Bộ Tài chính
5. Tính công bằng về gánh nặng nợ giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai
Như đã phân tích ở trên, thông qua chỉ số ICOR, ta thấy rằng hiệu quả sử dụng nợ công
và hiệu quả của các dự án đầu tư còn rất thấp. Việt Nam vay nợ để đầu tư và phát triển
9
kinh tế - xã hội, song hiệu quả đầu tư thấp khiến nguồn thu hồi để trả nợ trong tương lai
từ các dự án này thấp và bị hạn chế. Các khoản vay và chi tiêu hiện tại của chính phủ
không tạo nên nguồn thu hiệu quả trong tương lai; chúng làm tăng sức ép lên bội chi mới.
Hậu quả là, thế hệ tương lai sẽ phải chịu gánh nặng nợ cao hơn thế hệ hiện tại. Tóm lại,
tính công bằng liên thế hệ về gánh nặng nợ ở Việt Nam được đánh giá là thấp.
6. Dự báo tình hình nợ công ở Việt Nam trong thời gian tới:
Kinh tế Việt Nam hiện đang có một số đặc điểm giống với PIIGS (các nước châu Âu có
tỷ lệ nợ cao, bao gồm Hy Lạp, Ailen, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý) khi lâm vào khủng
-
hoảng nợ công, đó là:
Tăng trưởng GDP giảm kể từ sau khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2007 đến nay.
Thâm hụt ngân sách và nợ công lớn, tăng mạnh từ năm 2001 đến năm 2010.
Lạm phát luôn có xu hướng tăng mạnh, luôn cao trên 8% kể từ năm 2006 đến nay. Đặc
biệt, năm 2009 là thời kỳ khó khăn của Việt Nam khi tỷ lệ lạm phát đạt mức phi mã
24,4%. Đến năm 2010, dưới một loạt các chính sách thắt chặt tiền tệ, tỷ lệ lạm phát đã
-
được đưa về mức 11,8%, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn ở mức cao.
Ngoài ra còn có hai vấn đề nợ công ở Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đó là:
Cơ cấu nợ nước ngoài trong tổng nợ công của Việt Nam chiếm tỉ trọng lớn và đang tăng
nhanh (Bảng 3), trong khi hiệu quả đầu tư của các dự án sử dụng vốn từ các khoản nợ lại
-
thấp.
Việt Nam sẽ dần dần bị giảm đi các khoản vay ưu đãi do trở thành nước có thu nhập
trung bình; thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn, thời gian ngắn
hơn. Điều này đòi hỏi việc sử dụng vốn phải hiệu quả nhiều hơn nữa, nếu không, áp lực
trả nợ ngày càng lớn hơn và tác động ngay đến ngưỡng an toàn nợ công.
Từ những so sánh trên, ta thấy rằng Việt Nam có thể sẽ lâm vào khủng hoảng nợ công
giống như các nước EU nếu không có những thay đổi cần thiết và tích cực về tình hình
kinh tế và tình hình quản lý nợ công; nhất là sau suy thoái kinh tế toàn cầu.
7. Một số đề xuất nhằm quản lý có hiệu quả nợ công ở Việt Nam:
- Chính phủ cần xây dựng kế hoạch vay nợ công phù hợp. Cần xác định rõ mục đích vay,
mức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn theo từng đối tượng vay với hình thức
-
huy động vốn và lãi suất thích hợp.
Đảm bảo tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ công, có khả năng thanh
-
toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí.
Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay để cho vay lại và các khoản vay được Chính phủ bảo
lãnh.
10
-
Cơ cấu lại nợ công theo hướng tăng tỷ trọng vốn vay dài hạn để giảm áp lực trả nợ trong
ngắn hạn. Đẩy mạnh triển khai các nghiệp vụ quản lý và xử lý rủi ro đối với danh mục
-
nợ, thanh khoản và thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ.
Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình quản lý nợ công. Việc này nhằm tăng
cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình
của các cơ quan quản lý nợ công.
Tài liệu tham khảo
1. Benedict Bingham (IMF, 2010), “Vietnam Fiscal Strategy and Public Debt”.
2. Bộ Tài chính (2011), Bản tin nợ nước ngoài số 6.
3. Earth Trends (2010), Vietnam Economic Indicator 2010.
4. Luật Ngân sách Nhà nước.
5. Sandra Svaljek (1996-1999), “Public debt boundaries: a review of theories and methods of the
assessment of public debt sustainability”,www.hrcak.srce.hr.
6. The Economists Intelligence Unit’s global public debt clock,www.buttonwood.economist.com
7. Tổng cục Thống kê, www.gso.gov.vn
8. World Bank (2005), Policy Research Working Paper No. 3674
11