Đề bài: Viết đoạn văn phân tích đoạn thơ thứ 2 trong tác phẩm “Đàn ghita của Lorca”
Số phận của người tài hoa là đề tài khá quen thuộc trong văn học Việt Nam. Xưa có Nguyễn Du
khóc thương nàng Thúy Kiều, nàng Tiểu Thanh xinh đẹp, tài hoa nhưng bạc mệnh thì nay có
Thanh Thảo đau đớn trước cái chết đầy oan khuất và bi phẫn của người nghệ sĩ thiên tài Tây Ban
Nha Phê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lorca. Và từ nguồn cảm hứng ấy, “Đàn ghi ta của Lorca” đã ra đời.
Xuyên suốt cả tác phẩm, hình tượng người nghệ sĩ thiên tài được dựng lên thành công qua sự
ngưỡng mộ về tài năng và lòng động cảm tiếc thương sâu sắc trước cái chết của ông. Đặc biệt
tình cảm ấy còn được thể hiện rõ hơn nữa trong đoạn thơ thứ hai khi Thanh Thảo tái hiện lại giây
phút bi phẫn nhất trong cuộc đời người nghệ sĩ:
“Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghita nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghita lá xanh biết mấy
tiếng ghita tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghita ròng ròng
máu chảy”
Sáu dòng thơ đầu vang lên với âm điệu bi thương đau đớn khi diễn tả giây phút bi phẫn nhất
trong cuộc đời của Lorca: giây phút ông bị bọn độc tài Phrăng cô bắt và sát hại trong thời gian
đầu cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha bởi sức ảnh hưởng rộng rãi không những của thơ ca mà cả
của tư tưởng đấu tranh vì tự do hòa bình của ông. Vẫn lối kết hợp từ phóng túng mà cô đúc,
những hình ảnh thơ hiện lên như từng vết dao sắc nhọn cứa sâu vào lòng người đọc sự chua xót
trước số phận của một người nghệ sĩ tài ba nhưng bất hạnh. Hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” ở đoạn
thơ trước không chỉ gợi lên màu áo choàng của những người võ sĩ đấu bò tót mà còn gợi lên màu
máu, gợi lên bối cảnh chính trị đầy chết chóc và đau thương của một Tây Ban Nha quằn quại
dưới gót sắt của chế độ độc tài. Vậy mà giờ đây màu đỏ của áo choàng lại càng thêm chói mắt
hơn bởi màu đỏ của máu người nghệ sĩ “áo choàng bê bết đỏ”. Nhịp điệu đứt gãy giữa các dòng
thơ kết hợp với biện pháp tương phản giữa tiếng “hát nghêu ngao” yêu đời, yêu cuộc sống của
một chàng nghệ sĩ lãng du đi khắp nơi với cây đàn ghita trên yên ngựa và hiện thực tàn khốc đẫm
máu cũng với ba chữ “bỗng kinh hoàng” như một lời thảnh thốt vang lên đã gây ấn tượng mạnh
mẽ cho người đọc về sự bất ngờ, tàn khốc và bất công của chế độ độc tài. Cuộc sống thanh bình
tan vỡ, những tấm áo choàng của các võ sĩ giờ bê bết máu đỏ, người bị bắt bớ, giết hại một cách
phi lý, vô nhân đạo.
Từ khi bắt đầu cất lên những tiếng ca, viết lên những tác phẩm và hoạt động đấu tranh vì tự do
dân chủ, Lorca đã luôn linh cảm về cái chết của bản thân nhưng chàng vẫn cảm thấy “kinh
hoàng” và “đi như người mộng du” bởi cái chết đến quá đột ngột và phi lý. Điều đó làm dấy lên
trong ta nỗi xót xa cho số phận của người nghệ sĩ, của cái đẹp, làm bùng lên trong ta ngọn lửa
căm phẫn đối với thế lực bạo tàn.
Trong giờ phút đau đớn và bi phẫn ấy của Lorca, chuỗi âm thanh huyền diệu của cây đàn ghita
cũng cùng lúc vang lên. Tuy người nghệ sĩ sáng tạo ra tiếng đàn đã “tử thương dưới năm đầu
kiếm sắc” nhưng kì diệu thay tiếng đàn vẫn ngân vang khắp núi sông với những sắc màu phong
phú, đẹp đẽ và trong sáng bởi lẽ “chẳng thể nào làm cây đàn im tiếng”.
Mở đầu chuỗi âm thanh huyền diệu ấy là một nốt nhạc thật trầm, thật buồn như cất lên từ đáy
lòng người nghệ sĩ:
“tiếng ghita nâu”
“tiếng ghita nâu” – một sắc màu thật giản dị. Đó phải chăng là màu của đất mẹ, màu của những
con đường ngập nắng bụi tung sau những chuyến người qua? Đó phải chăng là màu nâu óng ánh
của thân cây đàn ghi ta được làm từ những cây gỗ tươi xanh trên mảnh đất quê hương Granada
yêu dấu của người nghệ sĩ thiên tài? Hay đó là màu nâu đầy sức sống, màu làn da của những cô
gái Espagna bốc lửa với những vũ điệu phóng khoáng, cuồng nhiệt và rực cháy tâm hồn? Cũng
có thể không phải là màu sắc đại diện riêng biệt cho bất cứ thứ gì cả mà sắc màu của tiếng đàn
chính là sắc màu của quê hương xứ sở, của những cảnh vật, con người nơi cố hương mà Lorca
luôn tha thiết yêu thương và gắn bó.
Tiếp theo nốt nhạc trầm ấy là hình ảnh “bầu trời cô gái ấy” tràn đầy sức sống, sự tươi trẻ và lãng
mạn được mở ra. Cô gái ấy là ai? Liệu đó có phải là nàng An-na Ma-ri-a người yêu của Lorca?
Thanh Thảo không nói rõ ràng. Chính vì vậy ta không nên thu hẹp ý thơ khi cho rằng đó là một
người nhất định nào đó. Hãy cứ để đó là một cô gái xứ sở quê hương Lorca với một bầu trời
xanh biếc đầy hi vọng. Câu thơ khiến ta liên tưởng tới hình ảnh người con của Tây Ban Nha
đang ngước mắt lên nhìn cái màu xanh thăm thẳm sâu hun hút của bầu trời trong giờ phút tiễn
biệt. Sắc xanh hi vọng của bầu trời ấy hay chính là màu xanh mênh mông trong đôi mắt của
người thiếu nữ cũng như màu xanh sâu thẳm trong đôi mắt người nghệ sĩ du ca.
Hết nốt trầm giờ đến nốt cao. Tiếng ngân cao vút của tiếng đàn “tiếng ghita lá xanh biết mấy”
nhờ hàng loạt những thanh trắc giống như từng đợt sóng xô bờ cồn cào tha thiết, như những cái
nhói đau bất chợt trong trái tim mỗi người. Màu xanh của tiếng đàn chính là màu xanh đầy sức
sống của tuổi thanh xuân, của biết bao mơ ước hi vọng của Lorca. Màu xanh ấy thật đẹp, thật
đáng quý. Thế nhưng hai chữ “biết mấy” ở cuối dòng thơ lại khiến cho ta cảm thấy thật xót xa
biết nhường nào! Biết bao những mơ ước còn dang dở chưa thành, biết bao những hoài bão đấu
tranh xây đắp quê hương, cách tân nghệ thuật còn chưa đên đích thì giờ đây đã không còn có cơ
hội hoàn thành nữa. Âm điệu tha thiết day dứt của câu thơ nhưng cứa vào lòng ta niềm đau xót
tiếc nuối cho một cuộc đời tươi trẻ đã bị giết hại, cho hành trình đầu tranh và cách tân nghệ thuật
còn đang dang dở. Có lẽ đó cũng là cảm xúc của chính tác giả Thanh Thảo khi ông viết “Đàn
ghita của Lorca”
Những âm điệu tươi sáng của tiếng đàn cũng chính là biểu tượng cho cuộc đời, vẻ đẹp và tâm
hồn của Lorca. Những cung bậc, sắc điệu của tiếng đàn cũng chính như cuộc đời đầy ngọt ngào,
cay đắng mà nhà thơ đã tự mình trải qua. Từ đó, nhà thơ Thanh Thảo đã thành công trong việc
mở ra thể giới tâm hồn phong phú của người nghệ sĩ Tây Ban Nha thiên tài.
Nhưng một cuộc đời tràn đầy sức sống của tình yêu, của tuổi trẻ và khát vọng như vậy đã bị giết
hại oan khuất. Chính vì vậy, tiếng đàn không chỉ vang lên với những giai điệu trong trẻo đẹp đẽ
mà còn gợi lên nỗi đau mất mát, thân phận bi thương của người nghệ sĩ.
“tiếng ghita tròn bọt nước vỡ tan”
Câu thơ đưa ta trở lại với khúc ghita dạo đầu của thi phẩm “những tiếng đàn bọt nước”. Tiếng
đàn bọt nước biểu tượng cho cái đẹp, cho nghệ thuật hoàn mỹ, trong trẻo, mát lành nhưng cũng
rất mong manh, dễ vỡ. Đó có thể là cuộc đời tài hoa yểu mệnh của Lorca, cũng có thể là cuộc
hành trình cách tân nghệ thuật còn dang dở, là cái dễ vỡ dễ tan của cái đẹp cói chung của cuộc
đời. Nhưng dù là gì đi chăng nữa thì giờ cái đẹp đẽ, tròn đầy cũng đã vỡ tan: cuộc đời ‘vỡ tan’,
tình yêu ‘vỡ tan’, cái đẹp ‘vỡ tan’, khát vọng ‘vỡ tan’....Tất cả đã vỡ tan vào giây phút bàng
hoàng khi tiếng súng độc tài vang lên giữa bầu trời xanh thẳm. Tiếng ghi ta không còn nâu trầm,
không còn xanh biếc hi vọng, cũng không còn trong trẻo, mát lành, hoàn mỹ mà đã đứt vỡ, rơi
vào im lặng. Âm điệu câu thơ dồn cả vào hai chữ “vỡ tan” khiến cho người đọc có cảm giác xót
xa tột độ cho số phận người nghệ sĩ.
Nỗi đau ấy, nỗi xót xa ấy giờ đây được vẽ lên bằng từng dòng máu chảy:
“tiếng ghita ròng ròng
máu chảy”
Lorca đã từng thốt lên trong tác phẩm của mình: “Tôi không muốn nhìn thấy máu!” nhưng giờ
máu đã đổ, người nghệ sĩ thiên tài ấy đã chết dưới sự tàn ác khốc liệt của chế độ độc tài Phrăng
cô. Sự đau đớn ấy khiến tiếng đàn cũng đứt vỡ rỏ máu như thân phận bi thương của người nghệ
sĩ. Ta cũng từng bắt gặp nỗi đau ấy trong những câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du:
“Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.”
Những câu thơ diễn tả nỗi đau của nàng Kiều khi phải hầu rượu Hồ Tôn Hiến khiến cho tiếng
đàn, dây đàn phải nhỏ máu. Nhưng trong “Đàn ghi ta của Lorca”, tiếng đàn không chỉ nhỏ máu
mà còn chảy thành dòng “tiếng ghi ta ròng ròng/máu chảy”. Tính tượng hình của câu thơ thể hiện
rõ nhất qua từ láy “ròng ròng” và hình thức đứt vỡ của câu thơ. Ta tưởng như thấy từng giọt từng
giọt âm thanh là từng giọt máu chảy, từng dòng âm thanh là từng dòng máu tuôn trào. Đến đây,
tiếng đàn, cây đàn không còn là một sự vật vô tri nữa mà nó cũng có “trái tim”, nó cũng “sống”,
cũng đau, cũng tiếc thương cho số phận tài hoa bạc mệnh của người nghệ sĩ. Nó cất lên tiếng van
vỉ cho số phận của người nghệ sĩ thiên tài, của cái đẹp trong bối cảnh hắc ám.
Qua đoạn thơ thứ hai của tác phẩm “Đàn ghita của Lorca”, ta thấy được số phận bi thương của
người nghệ sĩ, số phận mỏng manh của nghệ thuật, của cái đẹp trong bối cảnh hắc ám được diễn
tả qua những dòng thơ tràn đầy cảm xúc, cảm giác, âm nhạc. Điệp từ “tiếng ghita” được điệp lại
bốn lần kết hợp cùng với những câu thơ ấn tượng (“áo choàng bê bết đỏ”, “tiếng ghita tròn bọt
nước vỡ tan”) và những dòng thơ ngắt nhịp đứt vỡ (“tiếng ghita ròng ròng/ máu chảy”) đã mở ra
cho người đọc thế giới nội tâm phong phú đẹp đẽ của Lorca thông qua những sắc màu đa dạng
của tiếng đàn. Từ đó ta thấy được hình tượng Lorca và hình tượng tiếng đàn luôn hòa quyện với
nhau và chuyển hóa cho nhau một cách chặt chẽ. Không chỉ có vậy, sự đau đớn xót xa cho cái
chết bi phẫn và oan ức của nhà thơ thiên tài người Tây Ban Nha còn được thể hiện qua một loạt
những biện pháp tu từ như nhân hóa hình tượng tiếng đàn khiến nó trở thành một sự sống thực
sự, biết khóc than, biết ai oán cho số phận của người nghệ sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh; biện pháp
ẩn dụ “tiếng ghita tròn bọt nước vỡ tan” đã khiến người đọc như cảm nhận được vẻ đẹp tinh tế
của tiếng đàn, của cái đẹp cũng như sự tan vỡ không trọn vẹn của chúng khi người nghệ sĩ đã ra
đi mãi mãi. Bên cạnh đó, lối kết hợp từ ngữ, hình ảnh phóng túng độc đáo cũng đem đến cho
người đọc nhiều liên tưởng phong phú về cuộc đời, con người và số phận của nhà thơ thiên tài
Garxia Lorca.
Tóm lại, bằng việc sử dụng một loạt những biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ kết hợp với lối
sử dụng từ ngữ sáng tạo, độc đáo, nhà thơ Thanh Thảo không chỉ tái hiện lại chân thực cái chết
oan khuất đầy bi phẫn của nhà thơ Tây Ban Nha thiên tài mà còn vẽ nên những nét đẹp tâm hồn
ông thông qua những tiếng đàn đầy màu sắc phong phú. Từ đó Thanh Thảo đã bày tỏ sự kính
trọng về tài năng, lòng tiếc thương sâu sắc trước sự ra đi của người nghệ sĩ thiên tài cũng như
bày tỏ sự phẫn nộ trước một xã hội Tây Ban Nha tàn khốc, bất công đầy hắc ám đã vùi dập cái
đẹp cũng như tài năng nghệ thuật của một thiên tài.
_______________Vương Thu Hằng_________________
Mở bài cho các bài phân tích tác phẩm Tây Tiến – Quang Dũng
Chiến tranh và người lính vốn là một đề tài vô cùng quen thuộc trong văn học Việt Nam thời kì
chống Pháp, chống Mỹ cứu nước: Người lính xuất thân từ những người nông dân đứng lên kháng
chiến trong thơ của Chính Hữu; người lính chân chất, giản dị trong những câu thơ của Nguyên
Hồng; người lính trẻ trung phơi phới đầy nhiệt huyết trong thơ của Phạm Tiến Duật.... Lấy cảm
hứng từ hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, Quang Dũng đã
viết lên tác phẩm thơ “Tây Tiến” tại Phù Lưu Chanh năm 1948. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ da diết
của tác giả về đồng đội gắn liền với khung cảnh miền Tây hùng vĩ, thơ mộng. Theo dòng hồi
tưởng của tác giả, những kí ức về Tây Tiến được tái hiện một cách tự nhiên, chân thực, ào ạt như
từng đợt sóng dâng trào hết đợt này tới đợt khác qua ngòi bút lãng mạn kết hợp hiện thực tài hoa
của nhà thơ Quang Dũng.