Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

MỨC độ BIỂU HIỆN STRESS của SINH VIÊN TRƯỜNG đại học sư PHẠM – đại học đà NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.59 KB, 64 trang )

MỤC LỤC

Danh mục từ viết tắt
STT

Từ viết tắt

Ý nghĩa

01

ĐHSP

Đại Học Sư Phạm

02

ĐHĐN

Đại Học Đà Nẵng

03

HĐHT

Hoạt động học tập

04

NXB


Nhà Xuất Bản

05

SL

Số lượng

06

%

Tỷ lệ phần trăm

Danh mục các bảng
STT

Tên bảng

Trang

1

Bảng 3.1: Thực trạng biểu hiện stress

42

2

Bảng 3.2: Mức độ biểu hiện lo âu


43

3

Bảng 3.3: Mức độ biểu hiện trầm cảm

44

4

Bảng 3.4: Biểu hiện stress về mặt cơ thể

46

5

Bảng 3.5: Biểu hiện stress về mặt tâm lý

47

6

Bảng 3.6: Nguyên nhân sinh ra stress

49

7

Bảng 3.7: Cách ứng phó của sinh viên


51



Danh mục biểu đồ
STT

Tên biểu đồ

Trang

1

Biểu đồ 3.1: Thực trạng biểu hiện stress

42

2

Biểu đồ 3.2: Mức độ biểu hiện lo âu

43

3

Biểu đồ 3.3: Mức độ biểu hiện trầm cảm

45


4

Biểu đồ 3.4: Biểu hiện stress về mặt cơ thể

46

5

Biểu đồ 3.5: Biểu hiện stress về mặt tâm lý

48

6

Biểu đồ 3.6: Nguyên nhân sinh ra stress

49

7

Biểu đồ 3.7: Cách ứng phó của sinh viên

52

Phần 1: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Stress là vấn đề của con người ở mọi thời đại. Nó tồn tại cùng với sự phát triển của
con người; bắt nguồn từ những hoạt động nhằm đảm bảo nhu cầu sống còn của con người
như: bị thú giữ tấn công, chiến đấu giành đất đai, những cuộc tìm kiếm thường xuyên để
tìm thức ăn đảm bảo lương thực… Trải dài qua những thời kì tồn tại phát triển lâu dài stress

vẫn đã và đang tồn tại cùng với con người. Nó dường như là một phần tất yếu không thể
tránh được trong cuộc sống. Mỗi người là một phần của xã hội, muốn có được sự phát triển
thì con người cần được sống trong môi trường xã hội. Môi trường xã hội tồn tại và vận
hành không ngừng theo những quy luật của nó, con người sống trong môi trường thì cũng
chịu ảnh hưởng của những sự biến đổi ấy.
Sự phát triển công nghiệp cũng như xã hội cùng môi trường ô nhiễm và những yếu
tố nội tại trong cơ thể con người đã trở thành tác nhân gây nên stress. Con người hằng ngày
đều đang phải đối mặt với nhiều sự kiện, biến cố xảy ra xung quanh họ, phải đương đầu với
nhiều tình huống khó khăn phức tạp khác nhau. Vì vậy, bất cứ ai cũng có thể bị stress. Lứa
tuổi nào cũng có thể bị stress, nó có thể xuất hiện ngay từ khi đứa bé mở mắt chào đời, trải
qua các giai đoạn phát triển của lứa tuổi cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Nói chung nó có thể
xuất hiện ở mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh của con người khi có điều kiện.


Cuộc sống luôn biến động và stress luôn luôn tồn tại trong cuộc sống hằng ngày;
luôn tồn tại bên cạnh mỗi người như “vật bất ly thân” thì liệu điều đó có nguy hiểm đối với
con người không. Như chúng ta vẫn nói cái gì cũng có tính chất hai mặt của nó. Stress có
thể làm phá vỡ sự cân bằng trong cơ thể dẫn đến những rối loạn về tâm lý, từ đó dẫn tới
những rối loạn những chức năng sinh lý, sinh hóa của cơ thể gây nên nhiều căn bệnh dai
dẳng và nguy hiểm như: bệnh tim, mạch, tiểu đường, dạ dày, rối loạn tiêu hóa... điều đó
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động và cuộc sống của con người. Song sự tác động
tiêu cực lên cuộc sống của con người như trên không phải hoàn toàn là tất cả. Theo I. Levi
và H. Selye: cuộc sống không thể thiếu stress, nếu không có nó thì có thể dẫn tới cái chết,
stress là một chất muối làm cho cuộc đời thêm thi vị, thiếu nó không có cuộc sống. Cuộc
sống không có stress sẽ chẳng có thách thức gì, chẳng có trở ngại nào phải vượt qua, chẳng
có địa hạt mới nào để chiếm lĩnh, chẳng có lý do gì để trau dồi trí tuệ hoặc nâng cao năng
lực. Việc hiểu biết về stress và ảnh hưởng của nó đối với cuộc sống của con người là yếu tố
cần thiết.
Stress nhìn chung được hiểu là trạng thái căng thẳng về tâm lý. Stress xuất hiện ở
con người nói chung và trong cuộc sống, trong hoạt động học tập của sinh viên nói riêng,

có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, đến hiệu quả hoạt động học tập của họ. Hiện nay,
chưa có đề tài nào nghiên cứu về thực trạng stress của sinh viên trường Đại Học Sư Phạm
Đà Nẵng. Việc nghiên cứu mức độ biểu hiện, những nguyên nhân gây stress và những cách
thức mà sinh viên đang dùng để ứng phó với stress, để từ đó có những tác động tích cực
làm giảm bớt những tác hại của nó và nâng cao tính tích cực của stress là một vấn đề có ý
nghĩa rất quan trọng. Điều này không chỉ hướng đến việc giúp cho sinh viên có những ứng
xử phù hợp với stress khi ngồi trên ghế nhà trường mà ngay cả khi đã ra trường họ vẫn có
thể tự mình đối mặt với điều đó. Chính từ ý nghĩa đó chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài
“Mức độ biểu hiện stress của sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Đà Nẵng”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng stress của sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Đại Học Đà Nẵng.
- Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp giúp cho các bạn sinh viên có được những ứng
xử phù hợp với stress nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và học tập.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Mức độ biểu hiện stress của sinh viên trường ĐHSP – ĐHĐN.
3.2.

Khách thể nghiên cứu


Sinh viên trường ĐHSP - ĐHĐN.
3.3.

Phạm vi nghiên cứu

3.3.1. Nội dung

- Nghiên cứu mức độ biểu hiện stress ở sinh viên trường ĐHSP - ĐHĐN, sự khác nhau về
mức độ biểu hiện stress giữa các nhóm khách thể.
- Tìm hiểu nguyên nhân sinh ra stress ở sinh viên trường ĐHSP - ĐHĐN.
- Tìm hiểu cách ứng phó với stress của sinh viên trường ĐHSP – ĐHĐN.
3.3.2. Thời gian
Từ tháng 11/2009 đến tháng 4/2010.
3.3.3. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại trường đại học Sư Phạm đóng trên địa bàn phường Hòa
Khánh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
4. Giả thuyết khoa học
- Stress ở sinh viên biểu hiện dưới các mức độ khác nhau, có sự khác nhau giữa nam và
nữ.
- Có nhiều nguyên nhân gây ra stress ở sinh viên, nhưng chủ yếu là do: áp lực học tập
thi cử, vấn đề tiền bạc.
- Khi bị stress mỗi sinh viên có những cách riêng của mình để cư xử với nó, nhưng
nhiều sinh viên vẫn chưa có được cách ứng phó hiệu quả.
- Có một số giải pháp giúp cho sinh viên có được những ứng xử phù hợp để nâng cao
chất lượng cuộc sống và học tập.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài của chúng tôi đi sâu nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề sau:
5.1.

Làm sáng rõ những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.

5.2.

Đề tài nêu ra những mức độ biểu hiện khi bị stress, nguyên nhân gây stress,

những biện pháp mà sinh viên dùng để ứng phó với stress.
5.3.


Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đưa ra một số kêt luận và kiến nghị góp phần

nâng cao nhận thức và khả năng ứng xử với stress cho sinh viên.
Trong số 3 nhiệm vụ của đề tài đặt ra chúng tôi coi nhiêm vụ thứ
5.2. là nhiệm vụ quan trọng nhất.


Phần 2: Nội dung
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Stress tồn tại trong cuộc sống của con người, luôn đi cùng với sự phát triển của con

người cho dù con người không nhận thức được sự tồn tại của nó.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Năm 1920, Walter Cannon - Nhà sinh lý học đầu tiên đã mô tả một cách khoa học
về cách con vật và con người phản ứng với mối hiểm nguy đến từ bên ngoài. Ông nhận
thấy có một trình tự hoạt tính xảy ra trong các dây thần kinh và trong các tuyến nội tiết,
nhằm chuẩn bị để cơ thể chiến đấu chống lại hoặc bỏ chạy để bảo toàn tính mạng. Ông gọi
phản ứng kép này với strees là hội chứng chống hoặc bỏ chạy. Trung tâm của phản ứng kép
với stress là vùng dưới đồi, đôi khi được gọi là trung tâm stress là vì nó kiểm soát hoạt
động của hệ thần kinh và tuyến yên.
Nối tiếp những nghiên cứu của Cannon, người đầu tiên theo phương pháp hiện đại
nghiên cứu các ảnh hưởng của stress nặng tác động liên tục lên cơ thể là Hans Selye, một
nhà nội tiết học người Canada. Vào những năm 30, Selye báo cáo về các biểu hiện phức tạp
của súc vật thực nghiệm với các tác nhân gây thương tổn như các bệnh do vi khuẩn, các
độc tố, chấn thương hoặc sự nóng lạnh... Hết thảy mọi tác nhân gây stress đều đòi hỏi sự
thích ứng, duy trì tính toàn vẹn tổng thể và sự thoải mái bằng cách phục hồi thế cân bằng

còn gọi là cân bằng nội tại. Về mặt lý thuyết stress được quan niệm như một trạng thái bên
trong cơ thể.
Năm 1984 nhóm các nhà khoa học tại Đại học Tổng hợp Los Angeles bang
Caliphonia đã khám phá ra vai trò của các peptids dạng opi trong sự thiếu hụt miễn dịch
liên quan đến stress, nhất là đối với các tế bào tiêu diệt tự nhiên.


Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ xx nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những bằng
chứng thực nghiệm và lâm sàng, cung cấp những lập luận vững chắc về mối tương tác giữa
stress và phản ứng miễn dịch. Plaut và Friedman (1981) đã chứng minh stress làm tăng
nguy cơ tiếp xúc với các bệnh nhiễm trùng, các phản ứng dị ứng ở người. Irwin và Livnat
(1987) cho thấy có vô số tác nhân stress đã làm giảm sự tuần hoàn của tế bào T. Họ cũng
đồng thời chứng minh các yếu tố di truyền có ảnh hưởng đến BH miễn dịch với stress,
nhưng cơ chế đích thực thì chưa rõ ràng. Tiếp đó, Sklar và Anisman (1987) cho rằng những
thay đổi đột ngột trong việc tiếp xúc với bầy đàn đã làm tăng sự phát triển của khối u trong
thực nghiệm chuột nhắt, các quan sát phản ứng với stress ở người nói chung cũng xác nhận
những kết quả tương tự.
Việc nghiên cứu cách stress xuất hiện và ảnh hưởng của nó đến cuộc sống của con
người đã khơi dậy mối quan tâm của các nhà tâm lý học về ảnh hưởng của các quá trình
ứng xử đến cuộc sống thoải mái nói chung. Ở Anh, vào những năm 1990 tính trung bình có
khoảng 15% đến 20% công nhân bị stress đến mức ngã bệnh và phải nghỉ việc trong các
nhà máy. Stress trong môi trường lao động khiến các ông chủ và những giám đốc điều hành
(CEO) mắc bệnh tim nhiều gấp 7 lần, và những cơn đột quỵ khiến người lao động phải
nghỉ việc vì những xáo trộn trong đời sống tâm trí và cảm xúc. Điều này đã khơi dậy mối
quan tâm của giới nghiên cứu nhằm làm giảm thiểu stress trong công việc, đặc biệt trong
những ngành sản xuất vật chất. Tiếp theo đó các nhà nghiên cứu ở các nước thuộc Châu Âu
cũng bắt tay vào nghiên cứu đề tài này.
Ở nước ngoài hiện nay có thể nói rằng tình hình nghiên cứu về stress rất được quan
tâm chú ý với nhiều đề tài nghiên cứu phong phú. Nhiều khoa tâm lý học của nhiều truờng
Đại học trên thế giới hiện nay đã có chương trình giảng dạy, nghiên cứu về stress với

những phương pháp rất khoa học cụ thể. Trước hết, các phản ứng hoặc tình trạng stress có
những biểu hiện rõ nhất trên bình diện sinh lý học, và gần đây người ta bắt đầu nghiên cứu
stress trên bình diện tâm lý. Các vấn đề liên quan đến stress được các nhà nghiên cứu tập
trung nghiên cứu nhiều nhất là:
- Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng tới việc ứng phó stress: Mô tả và phân biệt
giữa stress và tác nhân gây stress, ảnh hưởng của nhận thức cá nhân đối với việc đáp ứng
với các tác nhân gây stress, những nhân tố bên trong và bên ngoài làm giảm nhẹ tác dụng
đáp ứng stress, cơ chế ứng phó làm giảm thiểu stress.
- Phân tích các phản ứng sinh lý đối với stress: Mô tả đáp ứng stress trên các hệ thống
cơ thể (Hệ thần kinh, hệ nội tiết...) mối liên hệ giữa những nhân tố làm giảm stress và đáp
ứng sinh lý, sự khác biệt hệ thống miễn dịch giữa người lớn và trẻ em ...


- Biểu hiện tâm lý khi stress: Nhận biết nguyên nhân gây stress, nguyên nhân và cá
tính của stress hậu sang chấn, tương quan giữa nhân cách và biểu hiện stress, phân tích các
loại kế hoạch đối phó, lựa chọn hệ thống phòng thủ, những hành vi biểu hiện không hiệu
quả.
Hiện nay, có thể nói rằng vấn đề stress đã và đang thu hút sự chú ý rất mạnh mẽ của
nhiều nhà khoa học, họ quan tâm nghiên cứu dưới cả hai góc độ lý thuyết và thực nghiệm.
Giờ đây nghiên cứu về stress không chỉ đơn thuần là nghiên cứu chuyên về y học, sinh học
mà đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu mang tính liên nghành: Y học, sinh học, Tâm lý
học, Xã hội học... Những kết quả nghiên cứu đã góp phần không nhỏ cho việc giảm bớt
stress và những tác hại do nó gây ra.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Ở Việt Nam, từ lâu chịu ảnh hưởng rất sâu sắc bởi tư tưởng văn hóa phương Đông
như thuật dưỡng sinh bảo vệ sức khỏe thuận theo quy luật tự nhiên. Từ thế kỷ XVIII, nhà y
học, nhà khoa học kiệt xuất, nhà tư tưởng lỗi lạc của dân tộc ta là Hải Thượng Lãn Ông tức
Lê Hữu Trác đã khuyên rằng: có thân mà không biết giữ gìn chỉ lo làm sao cho thỏa mãn
dục vọng là trái với phép dưỡng sinh. Ăn uống là lấy vị bồi bổ cho chỗ thiếu, làm việc nghỉ
ngơi phải có chừng mực, ăn uống quá mức thì trường vị tổn thương.

“....nhàn cư ủ rũ tinh thần
Nằm nhiều khí huyết khó phần lưu thông”
Ông cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các yếu tố tâm lý đối với sức khỏe con
người:
“Nội thương bệnh chứng phát sinh
Nguyên do cũng bởi tinh thần gây ra”
Theo lý thuyết y học cổ truyền, trong quá trình chuyển hóa vật chất, cơ thể con người
tồn tại 3 thành phàn cơ bản: phần tinh (thức ăn, huyết tinh sinh dục), khí (năng lượng), thần
(là hình thức cao nhất). Có hai câu thơ rất nổi tiếng của Tuệ Tĩnh đã nối đến nội dung chính
của 3 thành phần trong dưỡng sinh :
“Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần
Tham tâm, quả dục, thủ dâm, luyện hình”
Dưới góc độ sinh lý học và y học là nhà khoa học Tô Như Khuê, với công trình
nghiên cứu “phòng chống trạng thái căng thẳng ( stress) trong đời sống và trong lao động”,
5/1976. Những công trình của ông và cộng sự trong thời chiến tranh (1967-1975) chủ yếu
phục vụ cho việc tuyển dụng, huấn luyện và nâng cao sức chiến đấu cho bộ đội ở các binh
chủng đặc biệt.


Sau Tô Như Khuê nhiều tác giả có uy tín trong nước vào những năm gần đây đã tiếp
nối các nghiên cứu trên bắt tay vào nghiên cứu lý thuyết về stress. Những tác giả tiêu biểu
như: bác sỹ Nguyễn Khắc Viện nhà sáng lập trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em N-T. Ông
đã có công biên soạn và dịch thuật giới thiệu nhiều tài liệu khoa học bổ ích về tâm lý trẻ
em. Trong đó dưới góc độ nghiên cứu về stress, đáng chú ý là cuốn “tâm bệnh học trẻ em”
do nhà xuất bản Y học và trung tâm N-T phối hợp ấn hành. Ngoài ra phải kể đến
GS.BS.Đặng Phương Kiệt, bác sỹ nhi khoa chuyên nghiên cứu và tư vấn về tâm lý lâm
sàng với nhiều tác phẩm như: “stress và đời sống”, “stress và sức khỏe”, “chung sống với
stress”. Hai tác giả Phạm Ngọc Giao và Nguyễn Hữu Nghiêm với tác phẩm “stress trong
thời đại văn minh” NXB Đà Nẵng, 1986 đã cảnh báo với tất cả những người đang sống
trong xã hội văn minh về nguy cơ stress và hậu quả của stress ...Nguyễn Công Khanh, tiến

sĩ tâm lý lâm sàng đã nghiên cứu về các LP trị liệu tâm lý, các công trình nghiên cứu của
các tác giả này mang một giá trị khoa học cao, gắn liền với các hoạt động thực tiễn nghề
nghiệp của họ.
Hiện nay, ngoài những nghiên cứu chính thức tại Việt Nam đã có những công trình
nghiên cứu, tác phẩm, bài viết hoặc bài dịch từ tiếng nước ngoài đăng trên các báo và tạp
chí trong nước, hoặc phổ biến trên các website...giúp ích cho người dân hiểu biết và phòng
chống stress. Luận văn thạc sỹ tâm lý học của tác giả Lại Thế Luyện năm 2007 đã tìm hiểu
về “Biểu hiện stress trong sinh viên trường Đại học sư phạm Kỹ Thuật TPHCM”. Trong
công trình này tác giả Lại Thế Luyện đã đưa ra kết quả: trong 500 khách thể nghiên cứu có
10,8% SV rất căng thẳng, 49,8% SV căng thẳng, 33,8% SV ít căng thẳng, 5,6% SV không
có biểu hiện căng thẳng. Luận văn tốt nghiệp của sinh viên Trần Thị Nhân ĐH Quy Nhơn
“ Bước đầu tìm hiểu thực trạng hiện tượng stress của sinh viên ĐH Quy Nhơn” cũng đã đưa
ra kết quả nghiên cứu trên 300 SV, trong đó 56,7% sinh viên có biểu hiện stress ở các mức
độ khác nhau. Riêng về lứa tuổi học sinh thì đây vẫn là vấn đề mới chưa có nhiều công
trình nghiên cứu.
1.2.

Những vấn đề lý luận chung về stress

1.2.1. Khái niệm về stress
Theo nhận định của Hans Selye (1956), “Stress giống như thuyết tương đối, là một
khái niệm khoa học vừa có may mắn được mọi người biết tới, lại vừa không may mắn vì có
quá ít người am hiểu”. Stress là một khái niệm khoa học khó nắm bắt.
Trước tiên chúng ta cần tìm hiểu về thuật ngữ “Stress”. Stress trong Tiếng Anh có
nghĩa là nhấn mạnh. Ban đầu nó được sử dụng trong vật lý học, để chỉ một sức nén mà một
loại vật liệu nào đó phải chịu đựng. Stress được xuất phát từ tiếng Latinh “stringere”, có


nghĩa là kéo căng hoặc đè nén. Nó được ứng dụng phổ biến từ thế kỉ 17 để mô tả con người
trải qua thử thách gay go, tai họa hoặc nỗi đau buồn. Từ này có ý nghĩa đang phải chịu

đựng những sức mạnh tuyệt đối, đang phải chống cự các hậu quả của sức mạnh ấy với một
sự cố gắng để duy trì sự ổn định, mục đích cuối cùng là để có thể trở về trạng thái ban đầu.
Ngày nay stress là một thuật ngữ được dùng rộng rãi để nói về sự căng thẳng cũng như
những hậu quả và tác động của nó đến sức khỏe con người.
Thuật ngữ stress được W. Cannon sử dụng lần đầu tiên trong sinh lý học vào năm
1914. Ông miêu tả stress dưới hình thức phản ứng “chống hoặc chạy” (fight or flight).
Cannon cho rằng khi một sinh vật đương đầu với một sự đe dọa cho sự sống còn của mình,
thì các biến đổi sinh lý sẽ xảy ra theo một mô hình đã được “cài đặt” sẵn. Có sự gia tăng
nhịp tim, huyết áp và hô hấp. Máu được phân bố đến các bắp cơ lớn và các quá trình tiêu
hóa bị ngưng lại. Những thay đổi này nhằm chuẩn bị cho cơ thể sinh vật ấy thực hiện được
những hành động mạnh mẽ nhằm đáp ứng với sự đe dọa: hoặc chống trả, hoặc “cao chạy xa
bay”. Sự khuấy động ấy là một khả năng hoạt hóa đã được cài đặt sẵn bên trong cơ thể sinh
vật, tạo nên cơ may sống còn của nó dưới những điều kiện đe dọa. Tất cả chúng ta đều từng
trải qua sự kích hoạt này. Ngay sau khi thoát khỏi một tai nạn gần kề, bạn thấy ngay tim
đập thình thịch, cảm giác nôn nao và lòng bàn tay ẩm mồ hôi. Tuy nhiên, người có công
lao lớn trong việc nghiên cứu về stress trong sinh lý học là Hans Selye, người Canada. Năm
1936, thuật ngữ Stress được ông đề cập trong các công trình nghiên cứu của mình để mô tả
hội chứng của quá trình thích nghi với mọi loại bệnh tật. Trong một số công trình của ông,
ông đã nhấn mạnh: “stress có tính chất tổng hợp chứ không phải thể hiện trong một trạng
thái phản ứng không đặc hiệu của cơ thể với bất kỳ tín hiệu nào”. Sau đó, ông lại quan
niệm rằng “stress là nhịp sống luôn luôn có mặt ở bất kỳ thời điểm nào trong sự tồn tại của
chúng ta’’. Một tác động bất kỳ tới một cơ quan nào đó đều gây ra stress. Stress không phải
lúc nào cũng là kết quả của sự tổn thương, ngược lại có hai loại stress khác nhau, đối lập
nhau: stress bình thường khỏe mạnh là Eustress, stress độc hại hay còn gọi là stress tiêu cực
là Dystress. Hans Selye khẳng định rằng: “Stress là phản ứng của cơ thể với mọi tác động
của môi trường, do đó nó là phản ứng không thể thiếu được ở động vật nói chung cũng như
ở con người nói riêng”. Mỗi tác nhân gây stress luôn được phản ứng ở hai mặt: thứ nhất,
phản ứng mang tính đặc hiệu đó là chức năng các nội quan, cơ chế thần kinh, thể dịch. Thứ
hai, phản ứng không đặc hiệu của các quá trình thích nghi tâm lý và sinh lý. Nó được thể
hiện là: khi gặp các tác động như nhau về cường độ, sự kéo dài hoặc tầm quan trọng của tác

động đó đối với chủ thể. Có nghĩa là phản ứng không đặc hiệu chỉ xuất hiện khi có tác nhân
kích thích, tác động tạo nên những biến đổi ở nhịp sinh học: Sự bài tiết, dịch vị và các


hormone trong cơ thể hơn bình thường liên tục, trường diễn sẽ dẫn đến phù đại tuyến
thượng thận, sự co nhỏ của của tuyến ức... ảnh hưởng đến sự biến đổi trạng thái tâm lý của
chủ thể ở mức độ nhất định có thể gây ra rối loạn quá trình tâm, bệnh lý.
Phương pháp tiếp cận về mặt nhận thức - hành vi định nghĩa stress như một quá
trình tương giao giữa con người và môi trường, trong đó đương sự nhận định sự kiện từ
môi trường là có tính chất đe dọa và có hại, và đòi hỏi đương sự phải cố gắng sử dụng các
tiềm năng thích ứng của mình (Lazarus, 1966; Lazarus, Folkman, 1984). Stress không chỉ
trú ngụ trong sự kiện hoặc trong đáp ứng của đương sự, mà tồn tại trong cả hai yếu tố đó.
Theo tác giả Tô Như Khuê, “stress tâm lý chính là những phản ứng không đặc hiệu
xảy ra một cách chung khắp, do các yếu tố có hại về tâm lý xuất hiện trong các tình thế mà
con người chủ quan thấy là bất lợi hoặc rủi ro, ở đây vai trò quyết định không chủ yếu do
tác nhân kích thích, mà do sự đánh giá chủ quan về tác nhân đó”. Định nghĩa này đã nêu
được vai trò của yếu tố nhận thức và thái độ của con người trong stress.
Theo Nguyễn Thành Khải, “Dưới góc độ của tâm lý học, có thể hiểu stress là trạng
thái căng thẳng về tâm lý mà con người cảm nhận được trong quá trình hoạt động cũng như
trong cuộc sống,”
Theo Từ Điển Tâm Lý của Nguyễn Khắc Viện: “stress có hai nghĩa. Thứ nhất,
stress là một mối kích động đánh mạnh vào con người. Và nghĩa thứ hai là, phản ứng tâm
lý và sinh lý của người ấy” Theo Nguyễn Khắc Viện dịch thuật ngữ stress có nghĩa là “kích
-ứng”. Một kích động có thể làm tác nhân vật lý, hóa chất, một vi khuẩn, hoặc một tác nhân
tâm lý xã hội, nói chung là một tình huống căng thẳng đột xuất đòi hỏi con người huy động
tiềm năng thích ứng. Stress là nỗ lực của cơ thể để thích nghi với những đổi thay trong
cuộc sống của mỗi người.
Nhìn chung các tác giả trên phân tích quan niệm của họ về stress dưới những quan
điểm rất khác nhau, cách hiểu khác nhau. Trong đề tài này chúng tôi lấy khái niệm stress
của Hans. Selye làm khái niệm để nghiên cứu chính:” Stress là phản ứng của cơ thể với

mọi tác động của môi trường, do đó nó là phản ứng không thể thiếu được ở động vật nói
chung cũng như ở con người nói riêng”. Chúng ta sẽ xem xét stress ở mức độ đa bình diện
nó bao gồm những đáp ứng thuộc về cảm xúc, hành vi và sinh lý của cơ thể thông qua sự
tương giao với môi trường.
1.2.2. Nguyên nhân sinh ra stress


Có nhiều nguyên nhân dẫn đến stress, các nhà khoa học cho rằng stress có tính chất
tích tụ, diễn tiến trong thời gian dài. Cho nên khi những nguy cơ những biểu hiện stress
xuất hiện thì cần phải xem xét, kiểm soát và giải tỏa chúng nếu không chúng sẽ được dồn
nén đến khi bùng phát nó sẽ gây ra những tác hại không nhỏ. Nhìn vào thực tế chúng ta
cũng có thể thấy rằng, có những người đang bình thường bỗng dưng trở nên “bất thường”
không hẳn là do họ gặp phải những biến cố gì đó lớn lao, hay là bị một sang chấn nào đó
mạnh mẽ mà vì những lý do rất giản đơn. Chính những thứ chuyện có vẻ giản đơn đó cứ
nối tiếp nhau tạo thành một chuỗi những bi kịch nhỏ nhặt, từng ngày từng ngày tác động
vào con người, họ cứ bỏ quên nó hay cố tình gạt nó khỏi tầm kiểm soát của mình từ đó
những sai lầm được nối tiếp những sai lầm trong cách ứng xử của họ đối với những điều
nếu ta nhìn với sự cởi mở hơn thì tưởng chừng như là vô hại, mà cũng có thể là sẽ có lợi
theo một góc độ nào đó. Trong thực tế có rất nhiều nguyên nhân gây ra stress mà mọi
người thường không nhận ra hay cố tình bỏ qua nó và chỉ khi bị suy giảm khả năng hoạt
động, hoặc phát hiện những suy tổn chức năng thực thể nào đó mới biết.
1.2.2.1.


Nguyên nhân từ môi trường bên ngoài
Sự tác động từ môi trường tự nhiên
Con người là một thực thể tồn tại trong môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên là

điều kiện cần cho sự tồn tại và phát triển của con người. Sự biến đổi của môi trường tự
nhiên sẽ có những tác động không nhỏ đến cuộc sống của con người. Stress có thể được

sinh ra khi con người đang tìm cách thích nghi hay thay đổi những sự tác động của môi
trường tự nhiên lên họ.
Hiện nay, biến đổi khí hậu là một trong những yếu tố đang được khá nhiều các nhà
khoa học quan tâm, kể cả các nhà tâm thần học. Bởi vì những hệ quả của sự biến đổi khí
hậu cũng có những tác động đáng kể đến sự phát triển tâm lý của con người. Theo tiến sĩ
Page và tiến sĩ Howard thì biến đổi khí hậu sẽ là tăng thiên tai, hạn hán, lũ lụt điều này
khiến cho con người luôn phải sống trong tình trạng phấp phỏng lo âu, tình trạng này có thể
dẫn đến stress, trầm cảm suy nhược về thể chất và tinh thần. Những tác động có hại của sự
căng thẳng tâm lý sau khi gặp phải những chấn thương hoặc sự mất mát có thể khiến cho
con người rơi vào trạng thái stress, trầm cảm nặng.
Thời tiết chính là tình trạng lý học (nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, gió, mưa…) của khí
quyển ở một nơi trong một thời gian tương đối ngắn và thường không ổn định. Những điều
kiện thời tiết diễn tiến khác nhau, có thể gây nên những biến đổi sinh lý trong cơ thể khác
nhau ở mỗi người. Điều này đã được con người nhận ra từ thời xa xưa và đến nay đã được
khoa học chứng minh. Sự thay đổi thời tiết không chỉ ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe cơ


thể của con người mà còn ảnh hưởng đến tâm trạng của họ. Tại Viện Tâm Thần Quốc Gia
Washington đã có một nhóm các nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề này: có một người
phụ nữ Mỹ, rất hay buồn bã, căng thẳng vào những ngày hè nóng nực, tình trạng này đã
được diễn ra trong suốt 15 năm. Khi các nhà nghiên cứu để cho người phụ nữ này sống
trong những điều kiện thời tiết mát mẻ, thoải mái hơn thì những triệu chứng trên dần dần
mất đi.
Đối với con người, tiếng ồn có cường độ cao hơn 95 đêxiben là đặc biệt có hại
(cường độ 0 đêxiben là ngưỡng âm thanh tối thiểu con người tiếp nhận được). Trong khi
đó, máy bay cất cánh phát ra âm thanh ở mức 98 đêxiben. Do chịu tác động của tiếng ồn
như vậy nên các mạch máu ngoại biên co lại, nhịp tim bị rối loạn, xuất hiện chứng đau đầu,
mặt tái mét, hệ thần kinh tâm lý bị tổn hại. Tệ hại nhất là dạ dày phải "tiêu hóa" những âm
thanh cực lớn. Do đó, việc thường xuyên đến vũ trường hoặc thói quen nghe nhạc mở hết
công suất bằng tai nghe có thể dẫn tới bệnh loét dạ dày. Song sự yên tĩnh hoàn toàn cũng

không kém phần nguy hiểm. Cách đây hàng nghìn năm, thậm chí đã tồn tại cách tra tấn
bằng sự yên tĩnh. Phạm nhân được nhốt vào "tháp im lặng", nơi không một âm thanh nào từ
bên ngoài lọt vào. Và chỉ sau mấy tháng là người tù phát điên rồi chết trong những cơn đau
dữ dội. Sự khiếm khuyết âm thanh một cách hoàn toàn cũng gây nên những rối loạn trong
cơ thể con người. Con người là một bộ phận của thiên nhiên và nó được nuôi dưỡng bởi
thiên nhiên, bởi các âm thanh của thiên nhiên. Nếu không có âm thanh cũng như nếu không
có thức ăn, nước uống và không khí thì con người sẽ không thể cầm cự được lâu. Do đó,
những âm thanh của thiên nhiên cũng rất cần thiết cho chúng ta.


Ảnh hưởng từ xã hội
Nguyên nhân từ môi trường xã hội: Đó là những yếu tố liên quan đến môi trường

sống, học tập và làm việc...và những mối quan hệ, ứng xử xã hội, tâm lý – xã hội, trong đó
chủ thể tham gia hoạt động; hoặc những yếu tố như thay đổi chế độ chính trị, bệnh dịch…
Những tác nhân gây stress từ phía gia đình là tác nhân gây stress nhiều nhất. Đó là
những vấn đề có liên quan đến kinh tế và tình cảm, những kỳ vọng của những người trong
gia đình đối với mỗi thành viên những yếu tố này thường phối hợp với nhau tác động rất
mạnh mẽ đến cuộc sống, sinh hoạt, nhận thức, tình cảm và hành vi của các thành viên trong
cuộc sống gia đình cũng như các hoạt động ngoài xã hội. Mỗi con người đều phải đối mặt
với stress không nhiều thì ít. Những sự đổi thay là một phần gây ra stress không thể tránh
được trong cuộc sống như: những người thân lâm vào tình trạng ốm đau, phải đi xa hoặc
chết, cuộc sống gia đình có nhiều mâu thuẫn.


Ngay cả khi chúng ta bắt đầu những việc làm mới mẻ, bị sa thải hoặc bị đình chỉ
công việc, thì đây đều có thể là nguyên nhân gây ra stress. Theo các thống kê thì những
người thất nghiệp có nhiều triệu chứng stress hơn so với những người có việc làm, chẳng
hạn như sợ hãi và lo lắng cho sức khỏe, song những triệu chứng này sẽ biến mất khi có việc
làm.

Khi xã hội phát triển mạnh mẽ, mau lẹ và liên tục thì những áp lực gây ra cho con
người càng nhiều hơn con người dễ rơi vào trạng thái bị stress hơn. Tốc độ thay đổi quá
nhanh của xã hội và của khoa học kỹ thuật làm mọi người sửng sốt, những thay đổi về khoa
học kỹ thuật làm thay đổi phương thức con người làm việc, học tập và sử dụng thời gian
rảnh rỗi. Với nhiều người, điều chỉnh bản thân cho thích hợp với thực tiễn mới mẻ có thể là
điều dễ dàng nhưng cũng có những người chỉ biết chịu đựng điều đó với tâm trạng căng
thẳng.
1.2.2.2.


Nguyên nhân xuất phát từ chính cá nhân
Yếu tố sức khỏe :
Những rối loạn bệnh lý xuất hiện, những bệnh lý ở giai đoạn cuối hoặc những bệnh

lý mãn tính, sự khiếm khuyết thực thể...là một trong những nguyên nhân có thể gây ra
stress cho con người.


Yếu tố tâm lý:
Đó là trình độ thích nghi của các thuộc tính tâm lý bao gồm năng lực, ý chí, tình

cảm, nhu cầu, trình độ nhận thức, kinh nghiệm của chủ thể. Ngoài ra còn có thể là những
nguyên nhân từ vô thức (giấc mơ, linh cảm...) hoặc những dồn nén từ thời thơ ấu, trong quá
khứ. Cuộc sống luôn tiềm ẩn rất nhiều những nguyên nhân có thể gây stress cho mỗi người
chúng ta. Nhưng không phải mức độ của ai cũng như nhau, điều đó còn tùy thuộc vào cách
ứng phó của chúng ta như thế nào đối với vấn đề đó.
Nhìn chung nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân mỗi người là nguyên nhân quan trọng
và có ảnh hưởng lớn đến mức độ stress. Cùng một sự kiện tác động đến những con người
khác nhau có thể gây ra mức độ stress khác nhau. Sự khác biệt đó xuất hiện chính là do ở
mỗi người khác nhau quá trình nhận thức diễn ra không như nhau. Khi có một sự kiện (kích

thích) tác động đến chúng ta, dựa trên những kinh nghiệm quá khứ và hoàn cảnh hiện tại,
một kích thích có thể được đánh giá là: không đáng kể (một tình trạng không có ý nghĩa
đặc biệt nào); lành tính (một tình trạng tích cực, làm gia tăng lợi ích cá nhân); hoặc tiêu cực
(một tình trạng thực sự tiêu cực, đe dọa đến lợi ích cá nhân) (Lazarus, Launier, 1978).
Stress liên quan đến việc nhận định của cá nhân về một sự kiện là có tính đe dọa, có hại
hoặc thách thức.


1.2.3. Phân loại stress
Trên thực tế có nhiều cách phân loại khác nhau về stress, điều đó phụ thuộc vào
những tiêu chí được dùng để phân loại.
1.2.3.1.

Căn cứ vào mức độ
Đây là cách phân loại theo Hans Selye. Ông phân stress thành hai loại: Stress tích

cực và stress tiêu cực.
- Stress tích cực: là loại stress giúp chủ thể đối phó được, đó là phản ứng stress thích nghi,
kích thích hoạt động của chủ thể, đây là loại stress không thể thiếu trong cuộc sống của con
người. Không có loại stress này tâm lý của con người sẽ không phát triển.
- Stress tiêu cực: là phản ứng không có khả năng bù trừ để lấy lại cân bằng hay nói chính
xác hơn là khả năng thích ứng của chủ thể bị rối loạn.
1.2.3.2.

Dựa trên nguyên nhân gây ra stress
Trên thực tiễn, bất kỳ tác động nào đến cơ thể con người cũng có thể trở thành

nguyên nhân gây ra stress. Con người sống trong môi trường xã hội và môi trường tự nhiên
phải chịu rất nhiều tác động và chính những tác động này là nguyên nhân gây ra stress:
- Stress sinh thái:

Đây là loại stress mà yếu tố gây nên nó có nguồn gốc từ sinh thái, gọi tắt là stress
sinh thái. Stress loại này phát sinh từ mối quan hệ giữa môi trường bên trong và môi trường
bên ngoài cơ thể. Mọi hoạt động sống của con người đều phải tuân theo quy luật nhịp sinh
học của cơ thể. Nhịp sinh học của cơ thể chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ bởi nhịp sinh thái
của môi trường xã hội và môi trường tự nhiên nhằm tạo ra những phản ứng khác nhau với
những tình huống nhất định giúp chủ thể có khả năng thích ứng. Stress sinh thái rất ít bị
ảnh hưởng bởi ý thức con người nên loại stress này rất khó kiểm soát. Tuy nhiên, stress
sinh thái lại là loại stress ảnh hưởng mạnh và trực tiếp đến sức khỏe của con người. Stress
sinh thái lại có nhiều loại:
+ Rối loạn chu kỳ nhịp sinh học:
Là loại stress sinh thái cơ bản nhất. Nguyên nhân cơ bản là do con người không
chịu tuân theo những sắp đặt sẵn của tự nhiên, đôi khi con người cảm thấy lạc lõng với môi
trường xung quanh mà trở nên buồn bã, cáu gắt mà ngã bệnh. Con người đã tổ chức cuộc
sống của mình không tuân theo nhịp điệu của tự nhiên.
+ Rối loạn nhịp ăn và ngủ:
Đây là loại stress cũng đã được nghiên cứu rất nhiều. Các thực nghiệm trên người
lớn, khỏe mạnh đã cho thấy rằng: với chế độ lao động nặng kèm với ít ngủ (<5h/ngày),


hoặc không ngủ kèm theo chế độ ăn giảm calo thì khả năng lao động cũng như trạng thái
tâm lý và sinh lý bị biến đổi, giảm chất lượng do bị stress. Sự nhạy cảm của các giác quan,
phản xạ, thời gian phản ứng, sự phối hợp vận động giảm sút.
Về mặt tâm lý: biểu hiện là hay nhầm lẫn, hay nản chí.
Về mặt thể chất: Mệt lả, chóng mặt, khát nước, ăn mất ngon, giảm sút sinh dục.
Ngoài ra, nghiêm trọng hơn là rối loạn chức năng tiêu hóa, suy giảm khả năng miễn
dịch cơ thể, gây rối loạn nhịp điệu sinh học.
+ Stress do chấn thương và bệnh tật:
Sự nhận thức về những thay đổi theo chiều hướng không tốt của cơ thể là một trong
những nguyên nhân trực tiếp làm tổn hại, suy giảm chức năng hoạt động của cơ thể. Mức
độ nhẹ hay nặng phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tâm lý của chủ thể. Nếu người bệnh được

giải thích và hiểu cặn kẽ về các triệu chứng của bệnh thì các triệu chứng ấy càng ít gây ra
stress và ngược lại. Đặc biệt hơn, sự tự ám thị của chủ thể không có căn cứ là một trong
những nguyên nhân gây ra stress và bệnh tật.
+ Stress do tiếng ồn và các tác động vật lý, sinh hóa:
Đây là một trong những nguyên nhân gây nên stress sinh thái. Nó tác động và gây
trở ngại cho các hoạt động cần thiết của con người. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy sự
tiếp xúc lâu dài với tiếng ồn, có cường độ cao, có thể làm tăng huyết áp, giảm trí nhớ...
- Tâm lý xã hội: tâm lý nhóm xã hội, trình độ tâm lý cá nhân và kiểu loại nhân cách của cá
nhân trong các mối quan hệ và ứng xử xã hội. Đây là những yếu tố quan trọng gây nên
những biến đổi, thậm chí là rối loạn trong đời sống tâm lý - stress tâm lý xã hội.
- Sự thất vọng: Người ta thường thất vọng khi không đạt được điều mong muốn, điều này
có thể do nguyên nhân từ phía khách quan hoặc do chủ quan. Thất vọng bao gồm cả khủng
hoảng lòng tin, sự hẫng hụt, có nguyên nhân cơ bản ở sự mất ổn định chế độ, chính sách
kinh tế - xã hội, những giá trị xã hội, quan hệ, ứng xử.
1.2.3.3.

Cách phân loại stress theo Miller L.H. và Smith A.D
Miller L.H. và Smith A.D. cho rằng: việc kiềm chế stress có thể là phức tạp và lẫn

lộn bởi vì có các loại stress khác nhau - stress cấp, stress cấp từng đợt và stress mãn, mỗi
loại có những đặc tính, các triệu chứng, thời gian kéo dài, và cách tiếp cận điều trị riêng
của mình.


Stress cấp
Stress cấp là dạng phổ biến nhất của stress. Nó bắt đầu từ những yêu cầu và áp lực

của quá khứ, hiện tại và các yêu cầu, áp lực đã được dự đoán trước của tương lai gần.
Stress cấp với mức độ nhỏ gây xúc động và kích thích, nhưng nếu quá nhiều sẽ gây kiệt



sức. Những stress ngắn và quá mức có thể dẫn đến các khó chịu về tâm lý, căng thẳng đầu
óc, đau dạ dày và các triệu chứng khác.
Hầu hết mọi người đều nhận ra các triệu chứng stress cấp. Đó là những thất bại đã
qua trong cuộc đời họ như: tai nạn ô tô, mất một hợp đồng quan trọng, ranh giới giữa cái
sống và cái chết mà họ đã vượt qua, những vấn đề của con cái họ ở trường học..v.v.
Bởi vì xuất hiện ngắn, stress cấp không đủ thời gian để gây tác hại nặng. Các triệu
chứng phổ biến nhất là:
- Các khó chịu về cảm xúc- một số kết hợp với giận giữ hoặc kích thích, lo âu và trầm cảm
- Các vấn đề cơ bắp gồm căng thẳng đầu óc, đau lưng, đau quai hàm, và căng thẳng các cơ
này dẫn đến co giật các cơ, gân và các vấn đề dây chằng.
Các vấn đề dạ dày, ruột và đại tràng như ợ nóng, tăng tiết dịch vị, đầy hơi, phân lỏng, táo
bón,và hội chứng kích thích đại tràng.
- Tăng huyết áp, tăng nhịp tim, ra mồ hôi gan bàn tay, đánh trống ngực, chóng mặt, đau nửa
đầu kiểu Migraine, tay và chân lạnh, thở gấp và đau ngực.
Stress cấp có thể nổi trội lên trong cuộc đời của bất kỳ ai, và ta có thể kiềm chế
được stress cấp.


Stress cấp từng đợt
Có những người bị stress thường xuyên, cuộc sống của họ rối loạn, họ thường sống

trong xáo trộn và khủng hoảng. Họ luôn luôn vội vã nhưng lại luôn luôn bị muộn. Họ đảm
nhiệm quá nhiều, có qúa nhiều việc để làm cùng một lúc, và họ không thể quản lý được rất
nhiều những yêu cầu và áp lực đòi hỏi sự chú ý của họ. Họ dường như không khi nào thoát
khỏi stress cấp.
Phổ biến ở nhiều người có các phản ứng stress cấp là kích thích ngắn - tạm thời, lo
âu và căng thẳng. Công việc trở thành nơi gây stress mạnh cho họ. Các thầy thuốc tim
mạch Meter Friedman và Ray Rosenman đã mô tả loại nhân cách "type A" thiên hướng bị
bệnh tim, tương tự như một trường hợp đặc biệt của stress cấp từng đợt. Type A có một xu

hướng cạnh tranh quá mức, tấn công, không bình tĩnh, và một cảm giác vội vã, khẩn cấp,
luôn luôn thù địch và cảm giác không an toàn. Các đặc điểm nhân cách như thế có thể tạo
nên từng đợt stress cấp đối với các thể type A. Các tác giả này nhận thấy, ở loại nhân cách
type A thường phát triển bệnh mạch vành tim hơn là nhân cách type B - một mẫu đối lập về
hành vi đối với type A.
Một dạng khác của stress cấp từng đợt xuất phát từ lo âu không dứt. "Cái bướu lo
âu" này nhìn thấy điều bất hạnh ở mọi góc nhà, dự đoán thảm hoạ kinh hoàng trong mọi
tình huống. Thế giới là nơi đầy nguy hiểm, ân oán, trừng phạt, nơi mà có gì đó khủng khiếp


luôn luôn xảy ra. Những "điều khủng khiếp" này cũng có khuynh hướng nổi trội và căng
thẳng, nhưng lo âu và trầm cảm nhiều hơn là giận giữ và thù địch.Triệu chứng của stress
cấp từng đợt là các triệu chứng quá kích thích dai dẳng: căng đầu dai dẳng, tăng huyết áp,
đau ngực và đau tim.


Stress mãn tính
Trong khi stress cấp có thể gây xúc động và kích thích, stress mãn tính thì không.

Nó xảy ra ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Stress mãn tính huỷ hoại cơ
thể, trí não và cuộc sống. Đó là stress của sự nghèo khó, của các gia đình không hoàn
chỉnh, của các cuộc hôn nhân bất hạnh hoặc nghề nghiệp, sự nghiệp thất bại. Stress mãn
tính xuất hiện khi mà con người không bao giờ tìm thấy con đường ra khỏi sự đau khổ. Đó
là stress của những yêu cầu và áp lực không bao giờ giảm đi, dường như không bao giờ kết
thúc. Với tâm trạng vô vọng, cá nhân đó từ bỏ việc tìm kiếm các cách giải quyết.
Stress mãn tính gây tác hại qua tự sát, bạo lực, cơn đau tim, đột quị và có lẽ thậm
chí cả ung thư. Cuối cùng, con người kiệt sức dần, suy nhược nặng. Bởi vì các nguồn lực
về thể chất và tâm thần bị cạn kiệt do suy giảm kéo dài, các triệu chứng của stress mãn tính
khó điều trị, có thể đòi hỏi điều trị bằng thuốc cũng như liệu pháp tập tính kéo dài kiềm
chế stress

1.2.3.4.

Cách phân loại khác

- Stress hàng ngày: Là những căng thẳng thường ngày có thể xảy ra trong công việc, trường
học, gia đình, nơi công cộng.
- Stress tích tụ: Là kết quả tích tụ, kéo dài của sự căng thẳng, của các sự kiện đa dạng khác
nhau.
- Stress kiệt sức: Là trạng thái khi một cá nhân bị kiệt sức bởi quá nhiều stress, cá nhân
không thể thực hiện nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả nữa.
- Stress bất ngờ: Xảy ra do một sự kiện bất ngờ như bạo lực, tai nạn mà con người không
thể điều khiển được.
1.2.4. Biểu hiện
1.2.4.1.

Biểu hiện về mặt cơ thể
Việc đo lường biểu hiện của stress dưới góc độ sinh lý thường dễ dàng hơn là

trên góc độ tâm lý. Khi đo lường biểu hiện dưới góc độ tâm lý sẽ rất khó khăn để xác định
những biểu hiện stress khi chủ thể cố tình che dấu; nhưng dưới góc độ sinh lý người ta vẫn
có thể xác định được bằng nhiều cách khác nhau với những biện pháp mang tính kỹ thuật.
Do đó việc định lượng các thay đổi sinh lý là phương pháp nhạy bén, khách quan để nghiên
cứu stress.


Biểu hiện stress về mặt sinh lý được thể hiện :


Thường biểu hiện thông qua sự biến đổi hoạt động của hệ thần kinh thực vật - tủy


thượng thận và tuyến yên hoạt động mạnh, hệ nội tiết hoạt động mạnh hơn đổ vào máu một
lượng Catecholamin bao gồm các Adrenalin và noradrenalin. Các chất này làm cho gan
giải phóng lượng đường dự trữ vào máu, dẫn đến sự thay đổi các quá trình sinh hóa khiến
máu đông nhanh hơn, giúp ngăn cản mất máu khi bị thương. Áp lực máu tăng, mạch nhanh
và không khí qua phổi nhiều hơn đồng tử giãn ra khiến cho ánh sáng chiếu vào nhiều hơn.
Các quá trình đó diễn ra và được biểu hiện ra ngoài cơ thể có thể quan sát được bằng mắt
thường như: tim đập mạnh, nhanh; thở mạnh và gấp hơn bình thường; mồ hôi vã ra khắp cơ
thể; run rẩy; nhiệt độ gia tăng; sắc mặt đỏ, tái hoặc trắng nhợt nhạt. Những tình huống đó
nếu không được chủ thể kiểm soát, làm chủ bằng những đáp ứng tâm lý thích hợp, sẽ làm
tăng hoạt tính của các chức năng nội tiết, tiêu hao năng lượng cơ thể, tái diễn nhiều lần thì
hội chứng này sẽ dẫn đến sự suy sụp về thể chất, gây nên những bệnh tật về thực thể hoặc
tâm thể.


Thay đổi kích ứng đồng tử mắt: Nhiều nghiên cứu đã cho thấy đồng tử của mắt con

người sẽ giãn ra khi gặp kích thích gây một phản ứng thuận lợi và co lại nếu như gặp một
phản ứng bất lợi. Tuy nhiên thực tiễn cũng không phải hoàn toàn như vậy, khi cơ thể suy
kiệt thì đôi khi đồng tử mắt cũng giãn ra không co lại được, đôi khi sự thay đổi của đồng tử
cũng xác định được stress.


Thay đổi huyết áp: Các nghiên cứu sinh lý học đã cho thấy trước các kích thích

huyết áp của con người có thể thay đổi bất thường. Thông thường thì khi có tình huống
căng thẳng đối với con người (có stress) thì huyết áp tăng nhanh, nhiệt độ da cũng tăng
theo và kéo theo nhiều biến đổi tâm - sinh lý khác nữa. Sự thay đổi huyết áp cũng có thể là
chỉ số xác định được mức độ biểu hiện của stress trong một thời điểm nhất định.
1.2.4.2.



Biểu hiện về mặt tâm lý
Đo lường những biểu hiện stress về mặt tâm lý là khó khăn hơn so với việc tìm

hiểu biểu hiện về mặt sinh lý bởi về mặt tâm lý không chỉ đơn thuần là bản năng vô thức
của con người mà thường có sự kiểm soát của ý thức một cách chủ động. Vì thế stress về
mặt tâm lý nó không chỉ thuần túy là những biểu hiện mà đồng thời là sự ứng phó mang
tính chủ quan. Việc xác định những biểu hiện stress về mặt tâm lý cũng đòi hỏi những thủ
pháp, kỹ thuật và những kỹ năng mang tính chuyên môn trên cơ sở năng lực và trình độ
nhất định. Những biến đổi về mặt sinh lý luôn luôn có quan hệ mật thiết và là cơ sở cho


những biến đổi về mặt tâm lý ở con người và ngược lại. Tuy nhiên, mọi biểu hiện tâm lý
không phải lúc nào cũng xuất phát từ những biến đổi sinh lý.


Biểu hiện của stress về mặt tâm lý được nhìn nhận, khai thác trên nhiều góc độ

khác nhau. Có thể nói biểu hiện về mặt tâm lý của stress được thể hiện ở sự thay đổi hoạt
động của các quá trình tâm lý, trạng thái tâm lý, thuộc tính tâm lý. Những thay đổi này thể
hiện ra bên ngoài hay qua các thông số có thể đo được ở nhiều mức độ khác nhau tùy theo
cường độ, nhịp độ các tác nhân gây ra stress, phụ thuộc vào nhận thức, cách biểu hiện của
chủ thể trước tác nhân.


Biểu hiện qua xúc cảm: Để tồn tại và phát triển con người không chỉ thông qua

hoạt động thực tiễn để đáp ứng những nhu cầu của bản thân mà cùng với hoạt động thực
tiễn là sự biểu hiện thái độ của mình đối với thế giới như sự yêu thương căm giận, ghét bỏ
niềm say mê, sự sung sướng, buồn, chán, trầm lặng. Tùy theo tính chất, cường độ, nhịp độ

tác động của những kích thích, tùy vào sức khỏe, tâm trạng, trạng thái tâm lý của mỗi
người và mỗi hoàn cảnh mà con người có những phản ứng cảm xúc nhất định.
Trên cơ sở của những tính chất phản ánh cảm xúc, người ta có thể phân biệt xúc
cảm âm tính, xúc cảm dương tính. Những xúc cảm dương tính thường có ích cho chủ thể,
tuy nhiên nếu quá đột ngột, bất ngờ hay quá mạnh có thể gây ra stress nguy hiểm cho con
người, có thể chuyển sang xúc cảm âm tính. Như vậy những xúc cảm có hại sẽ gây ra stress
có hại. Trong cuộc sống con người luôn luôn tồn tại hai loại cảm xúc dương tính và xúc
cảm âm tính tạo nên sự cân bằng cho đời sống tình cảm của con người: Vui - buồn, yêu ghét đan xen nhau. Việc biểu đạt được những xúc cảm thích hợp là sự giải tỏa cảm xúc của
con người rất hữu ích. Trạng thái căng thẳng cảm xúc cũng tạo nên nhiều bất ổn cho con
người, trầm cảm là một trạng thái căng thẳng cảm xúc, vui sướng quá độ cũng tạo nên
những ngừng trệ hoạt động của các chức năng sinh lý và tâm lý. Theo các chuyên gia y
học, trầm cảm có thể do nhiều nguyên nhân: Yếu tố di truyền, yếu tố mất cân bằng sinh hóa
trong cơ thể hoặc các yếu tố gây bất ổn tâm lý và những biến cố trong cuộc sống. Trầm
cảm hay còn gọi là trầm uất, là trạng thái ức chế về mặt cảm xúc kéo theo ức chế về mặt
vận động, tư duy, người bệnh có cảm giác buồn chán, khép mình. Theo tác giả Võ Văn
Bản, phó giám đốc bệnh viện Việt Pháp, chuyên gia trị liệu tâm lý thì gần đây trầm cảm ở
học sinh, sinh viên có chiều hướng gia tăng. Theo con số thống kê mới đây của Viện sức
khỏe Tâm thần bệnh viện Bạch Mai, hiện nay trên 80% bệnh nhân trầm cảm nhập viên
trong tình trạng bệnh đã nặng, chiếm tỉ lệ cao nhất là bệnh nhân trầm cảm nội sinh, không
rõ nguyên nhân, sau đó đến tỷ lệ các thể khác như: nghiện ngập, sa vào những tệ nạn xã
hội, tự sát hay có ý định tự sát.... Theo tiêu chuẩn chẩn đoán của quốc tế, trầm cảm có 8


triệu chứng phổ biến: Giảm tập trung chú ý; giảm tự trọng tự tin, có ý tưởng bị tội lỗi bi
quan về tương lai của mình, ý tưởng và hành vi tự sát, rối loạn giấc ngủ, ăn mất ngon và sút
cân, giảm hứng thú tình dục.


Về mặt nhận thức: Stress ở mức độ nhất định sẽ tạo ra sự thay đổi có lợi cho tư duy,


trí nhớ, tưởng tượng làm cho quá trình nhận thức diễn ra hiệu quả hơn. Stress sẽ làm tăng
cường tính tích sực tư duy, đó là sự suy ngẫm hoàn chỉnh toàn bộ thông tin mà chủ thể có
thể có, nhằm làm chủ tình huống gây ra stress. Tuy nhiên, nếu trường diễn kéo dài đến một
mức độ nào đó thì lại xuất hiện tình trạng giảm tính tích cực tư duy, giảm hoặc mất trí nhớ.
Stress được biểu hiện qua rối loạn các hoạt động sau:
+ Giảm rõ tư duy phê phán, phân phối chú ý không đầy đủ, giảm sút trí nhớ, quyết định
thiếu chính xác, mất bình tĩnh, cáu gắt hay trơ lì.
+ Cảm giác, tri giác: Kém nhạy bén, tiếp thu thông tin chậm, nhìn nghe không rõ, cảm giác
sai lệch, thiếu sự phối hợp giữa các cảm giác.
+ Rối loạn cảm giác vận động: Tư thế lúng túng, cứng nhắc, rối loạn hiệp đồng động tác.
+ Hành vi: Hành vi có liên quan mật thiết với các trạng thái tâm lý của chủ thể được biểu
hiện thông qua hành vi, cử chỉ, nét mặt, lời nói, chữ viết, thao tác hành động.
+ Biểu hiện ở nét mặt: Vẻ mặt là nơi biểu hiện rõ nhất những trạng thái tâm lý của con
người. Thông qua vẻ mặt, chúng ta có thể biết được diễn biến trạng thái tâm lý của chủ thể
như: căng thẳng, đau khổ, thất vọng, giận giữ, vui mừng, phấn khởi, hài lòng.
1.2.5. Các giai đoạn
1.2.5.1.


Giai đoạn stress ở mức độ tích cực
Stress bình thường: là chương trình thích nghi bình thường đảm bảo hoạt động sống

bình thường, không có biểu hiện rối loạn, cơ thể đảm bảo sự tương ứng đồng bộ giữa các
hệ thống chức năng và trạng thái của các điều kiện môi trường, qua đó các hệ thống chức
năng đạt được chủ đích của nó và cân bằng môi trường trong trạng thái yên tĩnh hoặc có tác
nhân gây sự biến đổi nhẹ hoặc vừa. Ở mức độ này mọi hoạt động tâm sinh lý đều diễn ra
bình thường.


Mức độ stress cao: là chương trình thích nghi xuất hiện những biến đổi tâm - sinh lý


nhất định khi có tác nhân gây stress mức nặng. Cơ thể phải huy động thêm năng lượng, bố
trí lại hoạt động của hệ thống chức năng. Chẳng hạn, nếu nhiệt độ môi trường quá cao, cơ
thể tăng tiết mồ hôi, dãn mạch máu ra. Song song với phản ứng thích nghi đó nếu nhân tố
gây stress quá lớn cơ thể lại huy động thêm một số phản ứng thích nghi chung như hệ
thống chức năng thần kinh thực vật hoạt động mạnh hơn. Tăng hoạt động của hệ thống


dưới đồi, tuyến yên, vỏ thượng thận. Các phản ứng thích nghi đạt đến mức giới hạn nếu sự
biến đổi của quá trình stress diễn ra đạt đến mức tới hạn. Nghĩa là, nếu quá mức này hoặc
mức này kéo dài nhưng vẫn không thích ứng với tác nhân stress sẽ dẫn đến suy kiệt và
chuyển sang trạng thái biểu hiện bệnh lý. Tiêu chuẩn chính để đánh giá mức độ bình
thường của giai đoạn này là hệ thống chức năng vẫn giữ được tính chất mềm dẻo, đồng bộ
đạt được sự bù trừ cân bằng, trạng thái biến đổi của hệ thống chức năng sinh lý và tâm lý
được phục hồi sau sau khi tác nhân ngừng hoạt động. Trường hợp các tác nhân ảnh hưởng
lâu dài với mức cao vừa phải, không gây rối hoạt động của chức năng tâm lý và sinh lý sẽ
có tác dụng dần nâng cao khả năng chịu đựng của cơ thể. Về mặt tâm lý, ở mức này chủ thể
cảm nhận rõ sự căng thẳng .
1.2.5.2.


Giai đoạn stress ở mức độ tiêu cực
Là sự biểu hiện stress xuất hiện khi tác nhân gây stress biến đổi lớn hoặc kéo dài,

các cơ chế phản ứng của cơ thể không còn hiệu quả như mong muốn, các hệ thống chức
năng mất tính mềm dẻo đồng bộ, môi trường bên trong có nhiều rối loạn, thậm chí các hệ
thống cấu trúc chức năng hoạt động của cơ thể bị phá vỡ. Các dấu hiệu biến đổi này không
phục hồi trở lại bình thường khi tác nhân ngừng tác động, có những trường hợp trạng thái
thích nghi bệnh lý xảy ra nhanh cấp tính. Có những trường hợp xảy ra một quá trình phát
triển mãn tính. Tuy nhiên, dù cơ thể lâm vào trạng thái bệnh lý thì cơ chế phản ứng tâm lý

mà chủ thể vận dụng vẫn có tác dụng nhất định, có thể làm tăng sức chống đỡ với yếu tố
bất lợi và bảo vệ cấu trúc chức năng của cơ thể, tạo nên sự phục hồi hiệu quả. Cơ chế này
có thể làm tăng thêm trạng thái bệnh lý, điều này phụ thuộc vào trình độ của mỗi chủ thể
cũng như sự tác động tâm lý của những người xung quanh.


Giai đoạn stress ở mức độ bệnh lý: Đó là những rối loạn chức năng hoạt động của

cả sinh lý lẫn tâm lý đến mức nhất định bệnh lý mới xuất hiện hoặc những bệnh lý ở giai
đoạn cuối, bệnh mãn tính... những rối loạn này cũng ở những mức độ khác nhau: Rối loạn
nhất thời, rối loạn trường diễn, mệt mỏi lo âu... Những rối loạn này thường kèm theo những
rối loạn thực vật: rối loạn giấc ngủ, rối loạn tình dục, tiêu hóa, tim mạch...
1.2.6. Ảnh hưởng của stress
Stress là căn bệnh của thời đại mà xuất phát của nó chủ yếu là từ môi trường, từ
điều kiện, cách thức sinh hoạt và tổ chức cuộc sống của con người. Cũng như nhiều nước
trên thế giới, ở nước ta có sự đan xen nhiều hình thái các lọai bệnh tật khác nhau về thực
thể và tâm thể. Trong khi các bệnh lây nhiễm còn đang là vấn đề nhức nhối, gây những lo
lắng, bất an cho nhiều người thì các bệnh không lây nhiễm lại nổi lên những vấn đề cấp


bách, đặc biệt phải kể đến các bệnh về rối loạn nội tiết chuyển hóa gây nên mà căn nguyên
chủ yếu là từ stress.
Stress có nhiều mức độ khác nhau, sự ảnh hưởng của nó cũng biểu hiện vô cùng đa
dạng và phức tạp tới chất lượng hoạt động sống của con người. Mặc dù hiếm khi stress gây
chết người một cách trực tiếp hay tức thì, hậu quả của nó gây ra không nhìn thấy rõ ngay
như các bệnh lây nhiễm nhưng dưới sự tác động không ngừng nghỉ của nhiều yếu tố từ môi
trường sống của con người, từ những điều kiện, cách thức sinh hoạt và tổ chức cuộc sống
của con người. Nó có thể phá vỡ sự cân bằng cơ thể, dẫn đến những rối loạn về tâm lý dẫn
đến những rối loạn chức năng sinh lý, sinh hóa của cơ thể, gây nên nhiều căn bệnh dai dẳng
và nguy hiểm như bệnh đường máu, bệnh tim mạch, tiểu đường, rối loạn tiêu hóa ảnh

hưởng nghiêm trọng đến hoạt động và chất lượng cuộc sống của con người.
Vì stress là sự biến đổi những biểu hiện tâm sinh lý của nhân cách cho nên một mặt
làm tăng cường hoạt động các chức năng tâm sinh lý giúp con người thích ứng tốt nhất với
hoàn cảnh để tồn tại, phát triển, mặt khác stress tạo nên sự mệt mỏi lão hóa, suy kiệt đúng
như quy luật của dịch lý - âm dương (thành - thịnh – suy - hủy) cả về mặt tâm lý và thực
thể. Trong khi những stress tích cực (Eustress) có tác dụng mang lại những ý nghĩa, giúp
thỏa mãn tích cực cho đời sống của con người thì những stress tiêu cực (Dystress) gây nên
những rối loạn thích nghi hiện thời hoặc sẽ làm rút ngắn quy luật vận động của đời sống
con người một cách nhanh chóng về mặt thể chất và tinh thần bằng những hậu quả mà nó
gây ra. Ngoài ảnh hưởng trực tiếp lên đời sống của chủ thể stress còn làm ảnh hưởng đến
những người xung quanh, ảnh hưởng đến kết quả làm việc, học tập, làm cho bầu không khí
tâm lý ở gia đình trường học, cơ quan căng thẳng nặng nề. Hơn thế khi số lượng người bị
stress nhiều đặc biệt là stress nặng phải nhập viện, thì chi phí cho y tế và các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe sẽ tăng lên đồng nghĩa với việc tốn kém cho xã hội.
Cuộc sống luôn luôn biến động, stress luôn luôn tồn tại trong đời sống hằng ngày
trong suốt quá trình phát triển của mỗi cá thể. Cuộc sống càng văn minh, xã hội càng phát
triển, con người có thể gặp càng nhiều stress hơn. Vì vậy, việc hiểu biết về stress và những
ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe của con người cũng như các biện pháp phòng ngừa
stress để có thể chung sống với nó là việc làm rất cần thiết và hữu ích nhằm mang lại sức
khỏe cho bản thân, cho cộng đồng. Một người có sức khỏe tốt phải là người: “có trạng thái
hoàn toàn thoải mái về cơ thể, tâm thần và xã hội chứ không chỉ là trạng thái không bệnh
hay không tật” đúng như định nghĩa của tổ chức y tế thế giới (Who) về sức khỏe.
1.3.

Cách ứng phó với stress


Khi gặp phải những sự kiện, tình huống bất lợi, con người có thể lựa chọn hoặc là
thay đổi bản thân mình để thích nghi tốt hơn hoặc là thay đổi môi trường, hoàn cảnh (phân
hóa và chế ngự) cho phù hợp với mình.

1.3.1. Khái niệm về ứng phó
Trong tiếng Anh cope (ứng phó) có nghĩa là đương đầu đối mặt với những tình huống bất
thường.
Theo nghĩa rộng, ứng phó bao gồm tất cả các dạng tương tác của chủ thể với những
yêu cầu của thế giới bên ngoài và nội tâm - nắm bắt làm chủ hay làm suy giảm, làm quen
hay lảng tránh khỏi những yêu cầu của hoàn cảnh có vấn đề. Những điều kiện bên ngoài yêu cầu của hoàn cảnh, hay bên trong - đặc điểm tâm lý của chủ thể, tạo nên nội dung của
cách ứng phó, làm chúng hoàn toàn khác biệt với với sự thích ứng đơn giản. Theo khái
niệm trên thì ứng phó bao gồm tất cả các dạng tương tác của chủ thể với những yêu cầu của
thế giới bên ngoài và nội tâm - nắm bắt làm chủ hay làm suy giảm, làm quen hay lảng tránh
khỏi những yêu cầu của hoàn cảnh có vấn đề. Những điều kiện bên ngoài - yêu cầu của
hoàn cảnh, hay bên trong - đặc điểm tâm lý của chủ thể, tạo nên nội dung của cách ứng
phó, làm chúng hoàn toàn khác biệt với với sự thích ứng đơn giản.
Theo Adler A., tương ứng với đường đời của con người, có thể coi ứng phó là
phong cách sống của cá nhân, là sự tổng hợp những mục đích có nghĩa và cách đạt được
chúng, được xác định như sự thống nhất giữa những đặc điểm nhân cách, tâm thế và hoạt
động hàng ngày. Còn tương ứng với hoàn cảnh, như một thời khắc của đường đời thì có thể
coi ứng phó như một sự thay đổi phong cách sống theo hoàn cảnh.
Cùng với khái niệm về ứng phó thì chúng ta có khái niệm hành vi ứng phó. Hành vi
ứng phó được sử dụng để mô tả các cách phản ứng, hành động đặc thù của con người trong
những hoàn cảnh khác nhau. Đầu tiên chúng được sử dụng trong tâm lý học stress của R.
Lazarus và S. Folkman và được định nghĩa là tổng của những nỗ lực nhận thức và hành vi
mà cá nhân bỏ ra để làm suy yếu đi ảnh hưởng của stress. trong cách hiểu về hành vi ứng
phó có thể thấy nổi lên vai trò của hoàn cảnh, của tình huống nhất định cũng như vai trò
của của chính chủ thể của hành vi ứng phó đó. Ở đây, hoàn cảnh cũng có một cách hiểu
nhất định, đó là hoàn cảnh tâm lý của cá nhân, diễn ra có ý nghĩa với cá nhân, mang nghĩa
tương đối đặc thù chứ không phải hoàn cảnh xã hội chung. Hoàn cảnh tâm lý là sự thống
nhất giữa các điều kiện bên ngoài và sự diễn giải chủ quan hạn chế theo thời gian và thúc
đẩy hoạt động có lựa chọn của con người. Chúng có ý nghĩa khác nhau trong toàn bộ
đường đời của chủ thể, bao gồm từ những sự kiện sống (life-event) đến những thói quen
trong sinh hoạt hàng ngày (everyday life). Hoàn cảnh bao gồm một khối phức tạp những



tương tác của chủ thể, nó được xác định bởi bởi hành vi trước đó của chủ thể và đưa ra
những hệ quả tương lai trong đó gồm cả những yêu cầu mới đối với chủ thể cũng như hoàn
cảnh.
Như vậy có thể hiểu hành vi ứng phó là cách mà cá nhân thể hiện sự tương tác của
mình với hoàn cảnh tương ứng với logic của riêng anh ta, với ý nghĩa trong cuộc sống của
con người và với những khả năng tâm lý của họ.
Ý nghĩa tâm lý của ứng phó là ở chỗ làm thế nào để con người thích ứng nhanh
chóng với những yêu cầu của hoàn cảnh, cho phép họ nắm bắt và làm chủ chúng, làm
những yêu cầu của hoàn cảnh trở nên suy yếu, làm cho con người cố gắng thoát khỏi hoặc
làm quen với chúng và bằng cách đó cải hoá được những tác động gây stress của hoàn
cảnh. Nhiệm vụ chủ yếu của ứng phó là cung cấp và ủng hộ sự bền vững của con người,
sức khoẻ thể chất cũng như tâm lý, làm thoả mãn các quan hệ xã hội của cá nhân.
1.3.2. Phân loại chiến lược ứng phó
Chiến lược ứng phó là sự ứng phó một cách chủ động, có dự định trước một tình
huống xảy ra. Cách ứng phó là những phương thức ứng phó cụ thể hơn trước một tình
huống, một hoàn cảnh nhất định. Trong một chiến lược ứng phó có thể có nhiều cách ứng
phó khác nhau. Trong một số trường hợp, chiến lược ứng phó có thể hiểu như cách ứng
phó. Ứng phó là sự đáp lại của con người trước một tình huống nhất định nên nó rất đa
dạng. Với mỗi một đối tượng nhất định có thể có những chiến lược ứng phó và các cách
ứng phó của riêng mình, đặc trưng cho mình. Có thể nêu ra mấy cách phân chia cơ bản như
sau:


Chiến lược ứng phó được chia thành 3 mảng

- Chiến lược ứng phó bằng con đường nhận thức (cognitive coping strategies) gồm việc
thay đổi cách diễn giải những hoàn cảnh khó khăn của con người và vì thế có thể thay đổi
được cách anh ta đáp lại hoàn cảnh. Trên thực tế, việc con người nghĩ như thế nào về vấn

đề vừa xảy ra với mình sẽ phần nào quyết định ảnh hưởng của vấn đề đó lớn đến đâu đối
với cá nhân đó. Chiến lược ứng phó bằng nhận thức giúp con người suy nghĩ một cách bình
tĩnh hơn, hợp lý hơn và có tính xây dựng hơn khi đối mặt với những khó khăn. Một trong
những quá trình nhận thức diễn ra ở đây là cấu trúc lại nhận thức của mình (cognitive
reconstruring), là quá trình "nói chuyện với bản thân" về vấn đề xảy ra. Đây là thuật ngữ do
Lazarus (1971) và Meichenbaum (1977) sử dụng nhằm diễn tả một quá trình thay đổi trong
nhận thức của con người trước hoàn cảnh khó khăn. Việc ứng phó thành công bằng con
đường nhận thức không làm khó khăn trở nên nhỏ đi nhưng nó làm cho chúng đỡ nguy


×