Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của tổng công ty 789

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN
----------

CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG ĐẤU
THẦU XÂY DỰNG CỦA TỔNG CÔNG TY 789

Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp
Mã sinh viên

: ThS Nguyễn Thị Hoa
: Phạm Kim Dung
: Kế hoạch 54B
: 11120621

Hà Nội, 5 - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi
: Ban giám hiệu trường Đại học Kinh tế quốc dân
Ban chủ nhiệm khoa Kế hoạch và Phát triển
Tên tôi là
: Phạm Kim Dung
Sinh viên lớp : Kế hoạch 54B


Khoa
: Kế hoạch và phát triển
Tôi xin cam đoan nội dung chuyên đề thực tập: “Nâng cao năng lực cạnh
tranh trong đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty 789” là bài chuyên đề nghiên cứu
của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn tận tình của TS Nguyễn Thị Hoa cùng với sự
giúp đỡ của các cán bộ phòng Tổng hợp – Kinh doanh, Tổng Công ty 789.
Trong quá trình thực hiện chuyên đề thực tập của mình tôi có tham khảo một
số tài liệu, một số luận văn tốt nghiệp của sinh viên khóa trên, luận văn thạc sĩ cũng
như luận án tiến sĩ của trường đại học Kinh tế quốc dân cũng như các trường khác
nhưng không sao chép vào chuyên đề thực tập của mình. Nếu có vi phạm tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2016
Sinh viên
Phạm Kim Dung


LỜI CÁM ƠN
Lời đầu tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô của khoa Kế hoạch
và Phát triển trường đại học Kinh tế quốc dân đã tạo cho em một môi trường tốt để
học tập và rèn luyện. Các thầy cô luôn tận tình dạy dỗ và trang bị cho em đầy đủ
kiến thức để hoàn thành chuyên đề thực tập cũng như có những hành trang để bước
đời.
Và đặc biệt em xin gửi lời cám ơn chân thành đến giáo viên hướng dẫn
chuyên đề- TS Nguyễn Thị Hoa đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong
suốt thời gian thực hiện chuyên đề này.
Tiếp đó em xin gửi lời cám ơn đến các cán bộ thuộc phòng Tổng hợp – Kinh
doanh, Tổng Công ty 789 đã tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho em rất nhiều trong
thời gian thực tập tại quý cơ quan.
Em xin chân thành cám ơn!
Sinh viên

Phạm Kim Dung


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ


6

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng cơ bản là một lĩnh vực công nghiệp đặc thù. Khác với các lĩnh vực
khác, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng diễn ra chủ yếu thông qua hình
thức đấu thầu do các chủ đầu tư tổ chức. Trên thế giới hình thức đấu thầu xây dựng
đã được áp dụng từ lâu, ở nước ta, từ khi nhà nước ban hành "Qui chế đấu thầu", thì
đấu thầu xây dựng mới thực sự trở thành một lĩnh vực cạnh tranh hết sức gay gắt
giữa các doanh nghiệp xây dựng. Mặt khác, trong những năm gần đây, đã xuất hiện
nhiều dự án xây dựng có qui mô lớn, sử dựng vốn ngân sách hoặc vốn vay của các
tổ chức tín dụng nước ngoài đòi hỏi phải tổ chức đấu thầu xây dựng trên cơ sở cạnh
tranh. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
luôn giành được sự quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp xây dựng. Một nhà
thầu sẽ có lợi thế lớn nếu họ đã có kinh nghiệm thắng thầu, quy mô vốn lớn, công
nghệ hiện đại cùng mô hình tổ chức quản lý hiệu quả.
Trải qua 26 năm hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, Tổng Công ty 789 là một
doanh nghiệp có quy mô lớn trên địa bàn nhiều tỉnh trong cả nước. Trong những
năm vừa qua Tổng Công ty đã gặt hái được nhiều kinh nghiệm và đạt được nhiều
thành tựu nổi bật, hoàn thành nhiệm vụ được giao, tham gia và thắng thầu một số
công trình lớn, đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt

được, Tổng công ty vẫn còn những tồn tại và hạn chế nhất định, đặc biệt đó là trong
lĩnh vực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng, đó là, những khó khăn về tài chính,
khoa học công nghệ, nhân lực.. Trong bối cảnh hiện nay, trước sự lớn mạnh của
doanh nghiệp xây dựng trong nước, sự xuất hiện của những công ty xây dựng lớn
của nước ngoài, sự phát triển khoa học công nghệ xây dựng… cho thấy rằng cạnh
tranh đấu thầu xây dựng giữa các doanh nghiệp xây dựng diễn ra rất gay gắt. Vì thế
vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu có một vai trò hết sức quan
trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công và phát triển bền vững của doanh
nghiệp xây dựng nói chung và Tổng Công ty 789.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi chọn đề tài “ nâng cao năng lực cạnh tranh
trong đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty 789” là đề tài nghiên cứu của mình.


7

-

-

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng môi trường hoạt động đấu thầu của
Tổng công ty, qua đó đánh giá năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của công ty và đề
xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Tổng
Công ty 789 trong thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Trình bày một cách có hệ thống cơ sở lý thuyết, qua đó làm sáng tỏ những
vấn đề cơ bản của cạnh tranh đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng.
Đánh giá thực trạng, khả năng cạnh tranh đấu thầu xây dựng, qua đó tìm ra
những ưu điểm, thành tựu và những tồn tại trong công tác đấu thầu xây dựng của

Tổng Công ty 789.
Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh đấu thầu
xây dựng của Tổng công ty 789 trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của
Tổng Công ty 789.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: chuyên đề nghiên cứu giới hạn ở những vấn đề về nâng cao năng lực
cạnh tranh trong đấu thầu của Tổng Công ty 789.
Về không gian: chuyên đề nghiên cứu những vấn đề về nâng cao năng lực cạnh
tranh trong đấu thầu của Tổng công ty 789 giới hạn phạm vi trong đấu thầu xây
dựng các công trình cơ bản.
Về thời gian: Chuyên đề khảo sát kết quả hoạt động kinh doanh và đánh giá tình
trạng cạnh tranh của Tổng Công ty 789 từ năm 2011 đến nay và định hướng giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chuyên đề sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu tại bàn: thu thập tư liệu thực tế liên quan đến thực
trạng dự thầu cũng như thực trạng năng lực đấu thầu của Tổng Công ty thông qua
các báo cáo tài chính, báo cáo kinh doanh những năm trước. Từ đó sử dụng phương
pháp phân tích, đánh giá các tư liệu thu thập được, từ đó tìm ra những điểm mạnh
điểm yếu của công ty.


8

Phương pháp trao đổi trực tiếp, tham khảo ý kiến nhân viên trong Tổng Công
ty 789 để hiểu rõ về các nhân tố môi trường bên trong, bên ngoài có ảnh hưởng tới

năng lực cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu tại Tổng Công ty.
Phương pháp duy vật biện chứng, đặt Tổng Công ty trong mối quan hệ với các
công ty khác nhằm thấy được ảnh hưởng của các yếu tố tới năng lực cạnh tranh
trong đấu thầu xây dựng từ đó thấy được cơ hội và thách thức với Tổng Công ty.
5. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của
các doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Tổng
Công ty 789.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
của Tổng Công ty 789.


9

1CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Cơ sở lý luận về đấu thầu xây dựng và năng lực cạnh tranh
1.1.1. Các vấn đề về đấu thầu xây dựng
1.1.1.1. Khái niệm đấu thầu xây dựng
Đấu thầu xây dựng (hay còn gọi là đấu thầu thi công xây lắp) là phương thức
cạnh tranh được áp dụng rộng rãi đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực xây dựng
cơ bản. Đấu thầu xây dựng là cuộc cạnh tranh công khai giữa các nhà thầu với cùng
một điều kiện nhằm giành được công trình (hay dự án) xây dựng do Chủ đầu tư mời
thầu, xét thầu và chọn thầu theo các quy định của nhà nước.
1.1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu xây dựng
Cũng như bất kỳ phương thức kinh doanh nào, đấu thầu cũng có những
nguyên tắc nhất định cần được tuẩn thủ để đảm bảo tính khách quan, công bằng và
hiệu quả. Các nguyên tắc này đều áp dụng chung cho bên mời thầu và bên dự thầu,

đó là những nguyên tắc sau:
a. Nguyên tắc công bằng
Đây là nguyên tắc rất quan trọng đối với các nhà thầu. Theo nguyên tắc này thì
các nhà thầu phải được bình đẳng trong việc cung cấp thông tin từ chủ đầu tư, được
trình bày một cách khách quan các ý kiến của mình trong quá trình chuẩn bị hồ sơ
cũng như trong buổi mở thầu. Các hồ sơ thầu phải được hội đồng xét thầu có đủ
năng lực, phẩm chất đánh giá một cách khách quan, công bằng theo đúng quy định.
Việc tuân thủ thực hiện nguyên tắc này sẽ giúp chủ đầu tư lựa chọn được nhà thầu
đáp ứng được tốt nhất các yêu cầu của mình.
b. Nguyên tắc công khai
Đây là nguyên tắc bắt buộc, chỉ trừ những công trình đặc biệt thuộc bí mật
quốc gia, những công trình còn lại đều phải đảm bảo công khai các thông tin cần
thiết trong giai đoạn mời thầu và mở thầu. Việc thực hiện nguyên tắc ngày sẽ thu
hút được nhiều hơn nhà thầu tham gia, qua đó nâng cao chất lượng công tác đấu
thầu.


10

c. Nguyên tắc bí mật
Nguyên tắc này đòi hỏi chủ đầu tư phải giữ bí mật về các số liệu, thông tin
như mức giá dự kiến của chủ đầu tư, các thông tin trao đổi giữa chủ đầu tư và nhà
thầu trong quá trình chuẩn bị. Các hồ sơ dự thầu phải được niêm phong trước khi
đóng thầu, đến giờ mở thầu trước sự chúng kiến của hội đồng và các nhà thầu tham
gia đấu thầu mới được mở niêm phong. Mục đích của nguyên tắc này là nhằm bảo
đảm tính khách quan và công bằng, tránh thiệt hại cho chủ đầu tư trong trường hợp
giá dự thầu thấp hơn giá dự kiến hoặc gây thiệt hại cho bên dự thầu nào đó do thông
tin bị lộ ra ngoài.
d. Nguyên tắc bảo đảm cơ sở pháp lý
Theo nguyên tắc này thì các nhà thầu khi tham gia đấu thầu phải nguyên tắc

tuân thủ các quy định của nhà nước về đấu thầu như Luật đấu thầu, Luật xây dựng,
Luât cạnh tranh, cũng như các cam kết đã được ghi nhận trong hợp đồng giao nhận
thầu. Cơ quan quản lý chủ đầu tư có quyền yêu cầu hủy bỏ kết quả đấu thầu nếu
nguyên tắc này không được đảm bảo và đồng thời đề nghị các cơ quan chức năng
tiến hành xử lý các nhà thầu vi phạm các quy định, luật
e. Nguyên tắc đảm bảo cạnh tranh độc lập
Nhà thầu khi tham gia đấu thầu phải bảo đảm các yêu cầu về tính cạnh tranh
sau đây:
Nhà thầu tư vấn lập bảo cáo nghiên cứu khả thi không được tham gia đấu thầu
cung cấp dịch vụ tư vấn lập thiết kế kỹ thuật của dự án, nhà thầu tư vấn đã tham gia
thiết kế kỹ thuật của dự án không được tham gia đấu thầu các bước tiếp theo, trừ
trường hợp với gói thầu EPC.
Nhà thầu tham gia đấu thầu phải độc lập về tổ chức, không cùng phụ thuộc
vào một cơ quan quản lý và độc lập về tài chính với nhà thầu tư vấn lập hồ sơ mời
thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu.
Nhà thầu tư vấn giám sát thực hiện hợp đồng phải độc lập về tổ chức, không
cùng phụ thuộc vào một cơ quan quản lý và độc lập về tài chính với nhà thầu thực
hiện hợp đồng.
Nhà thầu tham gia đấu thầu các gói thầu thuộc dự án phải độc lập về tổ chức,
không phụ thuộc vào một cơ quan quản lý và độc lập với chủ đầu tư của dự án.
f. Nguyên tắc có đủ năng lực, trình độ
Nguyên tắc này đòi hỏi chủ đầu tư và các nhà thầu phải có năng lực về kinh tế,
kỹ thuật để đảm bảo thực hiện đầy đủ những cam kết khi đấu thầu. Mục đích của


11

nguyên tắc này là nhằm tránh những thiệt hại do chủ đầu tư hay nhà thầu không có
đủ năng lực để thực hiện những cảm kết của mình sau khi đấu thầu.
1.1.1.3. Các hình thức đấu thầu

a. Đấu thầu rộng rãi
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham
dự. Trước khi phát hành hồ sơ mời thầu, bên mời thầu phải thông báo mời thầu theo
quy định tại điều 5 của Luật đấu thầu để các nhà thầu có thông tin tham gia đấu
thầu. Trong hồ sơ mời thầu không được nêu bất cứ điều kiện nào nhằm hạn chế sự
tham gia của các nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây
ra sự cạnh tranh không bình đẳng.
b. Đấu thầu hạn chế
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu phải mời tối thiểu
năm nhà thầu được xác định là có đủ năng lực và kinh nghiệm tham gia đấu thầu.
Hình thức này được áp dụng trong các trường hợp sau:
- Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn vốn sự dụng cho gói
thầu.
- Gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù; gói thầu
có tính chất nghiên cứu thử nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng
yêu cầu của gói thầu.
Trường hợp thực tế có ít hơn năm nhà thầu tham dự thì chủ đầu tư phải trình
người có thẩm quyền xem xét, quyết định cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu hạn
chế hoặc áp dụng hình thức khác.
c. Chỉ định thầu
Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói
thầu để đàm phán ký kết hợp đồng, đây là trường hợp đặc biệt được áp dụng trong
các trường hợp: sự cố bất khả kháng do thiên tai dịch họa, sự cố cần khắc phục ngay
thì chủ đầu tư hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý công trình, tài sản đó được
chỉ định ngay nhà thầu thực hiện; trong trường hợp này chủ đầu tư được chỉ định
tiến hành thủ tục chỉ định thầu theo quy định trong thời hạn không quá mười lăm
ngày kể từ ngày chỉ định thầu; gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài; gói
thầu thuộc dự án bí mật quốc gia, dự án cấp bách vì lợi ích quốc gia, an ninh an toàn
năng lượng do Thủ tướng quyết định khi thấy cần thiết; gói thầu mua sắm các loại
vật tư, thiết bị để phục hồi, duy tu, mở rộng công suất của thiết bị, dây chuyền công

nghệ mà trước đó đã được mua từ một nhà thầu cung cấp và không thể mua từ các
nhà thầu khác do phải đảm bảo tính tương tính của thiết bị, công nghệ; gói thầu dịch


12

vụ tư vấn có giá trị dưới năm trăm triệu đồng, gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp
có giá trị dưới một tỷ đồng thuộc dự án phát triển; gói thầu mua sắm hàng hóa có
giá trị dưới một trăm triệu đồng thuộc dự án hoặc dự toán mua sắm thường xuyên;
trường hợp thấy cần thiết thì tổ chức đấu thầu.
Khi thực hiện chỉ định thầu, phải lựa chọn được nhà thầu được xác định là có
đủ năng lực và kinh nghiệm đáp ứng các yêu cầu của gói thầu và phải tuân thủ quy
trình thực hiện chỉ định thầu do Chính phủ quy định. Trước khi thực hiện chỉ định
thầu thì dự toán đối với gói thầu đó phải được phê duyện theo quy định.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động xây dựng thì có nhiều trường hợp chủ đầu tư
là cá nhân hay tổ chức không chịu sự điều chỉnh của Luật đấu thầu. Họ có thể lựa
chọn một nhà thầu nào đó thông qua uy tín, thương hiệu hoặc nhà thầu đó đã từng
thi công dự án, công trình của họ trước đó để thực hiện dự án của mình mà không
cần tổ chức đấu thầu. Đây thực chất cũng là một kiểu cạnh tranh trong xây dựng,
mà trong đó nhà thầu giành chiến thắng nhờ sự áp đảo mọi mặt được tích lũy qua
thương hiệu, uy tín của mình.
1.1.2. Các vấn đề về năng lực cạnh tranh
1.1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh, khả năng dành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường, kể cả khả năng dành lại một phần hay toàn bộ thị phần của
đồng nghiệp (theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB từ điển Bách khoa Hà
Nội, trang 349).
1.1.2.2. Các cấp độ năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh có thể phân biệt thành bốn cấp độ: năng lực cạnh tranh
cấp quốc gia, cấp ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp của sản phẩm hàng

hóa. Chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
a. Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia
Đối với một quốc gia, năng lực cạnh tranh là khả năng sản xuất sản phẩm và
dịch vụ, trong điều kiện một thị trường tự do và bình đẳng, phù hợp với yêu cầu của
thị trường quốc tế đồng thời nâng cao thu nhập thực sự cho công dân của quốc gia
đó.
Năng lực cạnh tranh của quốc gia được đánh giá thông qua mức độ và tốc độ
tăng của mức sống, mức độ và tốc độ tăng của năng suất tổng thể, và khả năng thâm
nhập của các doanh nghiệp vào các thị trường quốc tế thông qua xuất khẩu hoặc đầu
tư trực tiếp nước ngoài.


13

Sự gia tăng mức sống của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh là vấn đề sống còn khi doanh nghiệp
muốn có được lợi thế trong việc tiếp cận các cơ hội của thị trường thế giới, nhất là
trong điều kiện mà thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh hơn
nhiều so với tăng trưởng sản lượng của nền kinh tế thế giới những năm vừa qua.
b. Năng lực cạnh tranh cấp ngành
Đối với một ngành, năng lực cạnh tranh là khả năng đạt được những thành tích
bền vững của các doanh nghiệp (của quốc gia) trong ngành so với các đối thủ nước
ngoài, mà không nhờ sự bảo hộ hoặc trợ cấp.
Theo Liên Hiệp Quốc, năng lực cạnh tranh của một ngành có thể được đánh
giá thông qua khả năng sinh lời của các doanh nghiệp trong ngành, cán cân ngoại
thương của ngành, cán cân đầu tư nước ngoài (đầu tư ra nước ngoài và đầu tư từ
nước ngoài vào), và những thước đo trực tiếp về chi phí và chất lượng ở cấp ngành.
Năng lực cạnh tranh cấp ngành thường được xem là đấu hiệu phù hợp về “sức
khỏe” của nền kinh tế đối với ngành liên quan hơn là năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp. Sự thành công của một doanh nghiệp của một quốc gia có thể là nhờ

sở hữu những yếu tố đặc thù của doanh nghiệp mà khó hoặc không thể nhân rộng.
Ngược lại, sự thành công của một số doanh nghiệp trong một ngành thường được
xem là bằng chứng thuyết phục về sự sở hữu những yếu tố đặc thù của quốc gia và
có thể nhân rộng hoặc cải thiện được. Tổng cộng các năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp riêng lẻ không có nghĩa là năng lực cạnh tranh của cả một ngành.
c. Năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp
Năng lực canh tranh của một doanh nghiệp thể hiện khả năng của nó trong dài
hạn. Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh tốt khi nó đạt được các
kết quả tốt hơn mức trung bình. Như vậy, đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh
là khả năng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hiệu quả hơn so với các đối thủ cạnh
tranh.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá thông qua khả năng
cạnh tranh về giá và năng lực cạnh tranh ngoài giá (thị phần, chất lượng sản phẩm,
năng suất, vv).
Đối với doanh nghiệp có tham gia hoạt động ngoại thương, việc đánh giá năng
lực cạnh tranh có thể thông qua tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ xuất khẩu (doanh thu xuất
khẩu so với tổng doanh thu), thị phần cho từng vùng hay thị phần tổng thể.


14

Vị thế trên thị trường quốc tế cũng là một thước đo trực tiếp năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Trong lĩnh vực thương mại, năng lực cạnh tranh có nghĩa là
sự duy trì được thành công trên thị trương quốc tế mà không cần có sự bảo hộ hoặc
trợ cấp. Mặc dù chi phí vận chuyển có thể cho phép các doanh nghiệp cạnh tranh tốt
hơn tại thị trường trong nước, nhưng năng lực cạnh tranh lại thường được tính đến
nhiều hơn thông qua lợi thế có được nhờ năng suất cao hơn.
Trong lĩnh vực phi thương mại, năng lực cạnh tranh là khả năng theo kịp hoặc
vượt qua doanh nghiệp tốt nhất trên thị trường về mặt chi phí và chất lượng của sản
phẩm hay dịch vụ. Đo lường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong lĩnh

vực phi thương mại thường khó khăn hơn và thường bao gồm các thước đo về khả
năng sinh lợi của doanh nghiệp, chi phí và chất lượng. Với các ngành được đầu tư
trực tiếp nước ngoài, thước đo năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể là phần
trăm doanh thu nước ngoài hoặc thị phầm của doanh nghiệp trên thị trường vùng
hoặc thị trường toàn cầu.
d. Năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó trên thị trường
là sự thể hiện ưu thế tương đối của nó về cả định tính và định lượng so với các sản
phẩm, dịch vụ cùng loại khác. Mỗi sản phẩm do từng nhà sản xuất đưa ra thị trường
sẽ được người tiêu dùng đón nhận với các mức độ cao thấp khác nhau. Sự thừa
nhận của người tiêu dùng thể hiện qua việc mua hay không sản phẩm đó, là biểu
hiện cuối cùng về năng lực cạnh tranh của sản phẩm đó. Để được người tiêu dùng
thừa nhận và đánh giá cao, mỗi sản phẩm hoặc dịch vụ cần có lợi thế cạnh tranh so
với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại khác. Các lợi thế này có thể là ưu thế về giá
(giá bán thấp hơn) hoặc ưu thế về giá trị cho khách hàng (tạo sự khác biệt so với các
sản phẩm, dịch vụ cùng loại, mang lại giá trị cao hơn cho khách hàng, và có thể bán
với giá cao hơn).
Năng lực cạnh tranh sản phẩm thường được nhận biết thông qua: (i) đánh giá
trực tiếp từ thị trường (tăng trưởng doanh thu, thị phần), (ii) đánh giá trực tiếp trên
sản phẩm (tính năng, chất lượng, giá cả, tiện ích, mẫu mã,vv) và (iii) đánh giá từ ý
kiến của khách hàng (mức độ thỏa mãn nhu cầu, mức độ nhận biết sản phẩm, mức
độ trung thành với nhãn hiệu, vv).
Đối với sản phẩm xuất khẩu, ngoài các dấu hiệu nhận biết nêu trên, năng lực
cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm còn có thể được đánh giá thông qua Hệ số cạnh
tranh biểu hiện (RCA). Hệ số này phẩn ánh vị trí lợi thế so sánh đạt được của sản


15

phẩm trên thị trường quốc tế trong tương quan với tổng giá trị xuất khẩu của quốc

gia.
1.2. Năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
Năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp là toàn bộ
những năng lực về tài chính, thiết bị công nghệ, marketing, nguồn nhân lực, tổ chức
quản lý… mà doanh nghiệp có thể sự dụng để tạo ra lợi thế của mình so với doanh
nghiệp khác trong quá trình dự thầu.
Khi đánh giá một hồ sơ dự thầu các công trình xây dựng, nhà thầu sẽ căn cứ
vào một số tiêu chí cần thiết để đánh giá về năng lực của doanh nghiệp từ đó đưa ra
những so sánh trong tổng thể các doanh nghiệp dự thầu và đưa đến quyết định chọn
nhà thầu phù hợp và có năng lực thi công xây dựng tốt nhất. Một bộ hồ sơ dự thầu
bao gồm hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và hồ sơ đề xuất về tài chính. Trong hồ sơ đề
xuất kỹ thuật, doanh nghiệp dự thầu phải chứng minh được doanh nghiệp có thể
đảm bảo đủ yêu cầu đặt ra của bên mời thầu, được thể hiện cụ thể qua các mặt sau:
Năng lực và kinh nghiệm thi công: doanh nghiệp dự thầu phải trình bày các
công trình tương tự do nhà thầu đã thực hiện; các dự án, công trình tiêu biểu đã và
đang được thực hiện trong thời gian gần đây; trình bày hệ thống quản lý chất lượng
đồng thời quy trình thi công giám sát thi công của nhà thầu để thực hiện và quản lý
chất lượng thi công xây dựng công trình và đưa vào nghiệm thu công trình
Năng lực tài chính: bao gồm tình hình tài chính trước đây của nhà thầu, doanh
thu bình quân hàng năm từ hoạt động xây dựng, kết quả hoạt động kinh doanh… từ
đó thông qua một số tiêu chí để biết được thực trạng tình hình tài chính của doanh
nghiệp dự thầu có đảm bảo đủ điều kiện tài chính hay không.
Nguồn nhân lực đảm bảo thực hiện gói thầu: doanh nghiệp cần thống kê
nguồn nhân sự để đảm bảo thực hiện gói thầu.
Máy và thiết bị thi công: doanh nghiệp cần kê khai các loại máy móc, thiết bị
thi công cho công trình, từ đó chủ đầu tư sẽ đánh giá được cơ sở vật chất, kĩ thuật
công nghệ thi công có đủ và phù hợp với yêu cầu thi công công trình.
Những yếu tố trên là cơ sở để nhà thầu đánh giá năng lực xây dựng thi công
các công trình của từng doanh nghiệp. Để đảm bảo kết quả trúng thầu, doanh nghiệp

cần nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu theo các tiêu chí như trên.


16

Hiện nay yêu cầu của khách hàng ngày càng cao và đa dạng, sự cạnh tranh của
các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt, khốc liệt vì vậy, để tồn tại và phát triển
bền vững thì doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực của mình nhằm tạo
ra ưu thế về mọi mặt như giá cả, chất lượng công trình, tiến độ thi công, biện pháp
thi công,…
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
1.2.2.1. Kết quả đấu thầu qua các năm của doanh nghiệp
Chỉ tiêu này phản ánh một cách khái quát tình hình dự thầu và kết quả đạt
được của doanh nghiệp bằng cách đánh giá được hiệu quả, chất lượng của việc dự
thầu trong năm, quy mô và giá trị hợp đồng trúng thầu thông qua đó có thể đánh giá
năng lực của doanh nghiệp đó, việc đánh giá được tính bằng công thức sau:
(1) Theo số lượng
Công thức như sau:
TA = x 100%
Trong đó: TA: là tỷ lệ trúng thầu theo số lần tham gia đấu thầu
DAtt: là số lượng dự án (hay số gói thầu) trúng thầu trong năm
DAdt: là số lượng dự án (hay số gói thầu) dự thầu trong năm
Công thức này cho biết số lượng dự án tham gia dự thầu, số lượng dự án trúng
thầu trong một năm cụ thể, đồng thời tính được tỷ lệ trúng thầu theo số lượng các
dự án tham gia đấu thầu.
(2) Theo giá trị dự án (hay gói thầu):
Công thức như sau:
TB = x 100%
Trong đó: TB: là tỷ lệ trúng thầu theo số lần tham gia đấu thầu
Gtt: là giá trị của dự án (hay số gói thầu) trúng thầu trong năm

G dt: là giá trị của dự án (hay số gói thầu) dự thầu trong năm (tính
theo giá bỏ thầu).
Công thức này cho biết tổng giá trị dự án tham gia dự thầu, tổng giá trị dự án
trúng thầu trong năm, đồng thời tính được tỷ lệ trúng thầu theo giá trị các dự án
tham gia đấu thầu.
Từ đó, chủ đầu tư sẽ đánh giá được thực trạng của công tác đấu thầu tại doanh
nghiệp, những kinh nghiệm thi công các công trình xây dựng. Đây là chỉ số đánh
giá trực tiếp về khả năng cạnh tranh đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp trong


17

khoảng thời gian trước cho tới hiện tại và là cơ sở quan trọng để đánh giá mức độ
cạnh tranh của doanh nghiệp so với tổng thể các doanh nghiệp dự thầu.
1.2.2.2. Năng lực tài chính
Một đặc trưng của ngành xây lắp là cần một lượng vốn rất lớn và vốn bị đọng
rất lâu ở các công trình, hay nói cách khác vòng quay của vốn rất chậm. Đặc điểm
này dẫn đến thực tế là các Công ty xây dựng phải là những Công ty có nguồn vốn
rất dồi dào đủ để trang trải chi phí thi công trong thời gian dài trước khi công trình
hoàn thành bàn giao cho bên chủ công trình. Tài chính đủ, vững mạnh là yếu tố
quan trọng giúp doanh nghiệp thắng thầu,nó cho phép công trình được xây dựng kịp
tiến độ, từ đó tránh được thất thoát các chi phí phát sinh khác, ảnh hưởng trực tiếp
đến sức cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp khác trong
ngành. Dựa trên xem xét số liệu về báo cáo tài chính các năm trước của doanh
nghiệp, chủ đầu tư sẽ đánh giá được tiềm lực của doanh nghiệp mạnh yếu như thế
nào, đủ điều kiện thi công công trình dự án hay không. Do vậy, năng lực tài chính
cũng là một yếu tố quyết định lợi thế của nhà thầu trong quá trình tranh thầu và là
một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong lĩnh vực xây
dựng, để đánh giá về năng lực tài chính của nhà thầu chủ đầu tư thường đánh giá
thông qua một số các chỉ tiêu cơ bản sau đây:

(1) Về khả năng thanh toán:
Năng lực thanh toán của doanh nghiệp là năng lực trả được nợ đáo hạn của các
loại tiền nợ của doanh nghiệp, là một tiêu chí quan trọng phản ánh tình hình tài
chính và năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá một mặt quan trọng về
hiệu quả tài chính của doanh nghiệp, thông qua việc đánh giá và phân tích về mặt
này có thể thấy rõ những rủi ro tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính thấp không những chứng tỏ doanh nghiệp bị căng thẳng về
tiền vốn, không có đủ tiền để chi tiêu trong việc kinh doanh hàng ngày, mà còn
chứng tỏ sự quay vòng của đồng vốn không nhanh nhạy, khó có thể thanh toán
được các khoản nợ đến hạn, thậm chí doanh nghiệp có thể đứng trước nguy cơ bị
phá sản. Vì trong quá trình kinh doanh, chỉ cần mức thu lợi của tiền đầu tư lớn hơn
lãi suất vốn vay sẽ có lợi cho cổ đông nhưng vay nợ quá nhiều sẽ làm tăng rủi ro
của doanh nghiệp. Vay vốn để kinh doanh có thể làm tăng lợi nhuận của cổ phiếu từ
đó làm tăng giá trị cổ phần của doanh nghiệp, nhưng rủi ro tăng lên thì trên mức độ
nào đó cũng làm giảm giá trị cổ phần.


18

Hệ số khả năng thanh toán hiện hành (Current Ratio):
Hệ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn
hạn của doanh nghiệp, cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được
trang trải bằng các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một giai đoạn tương
đương với thời hạn của các khoản nợ đó. Công thức như sau:
Hệ số khả năng thanh toán hiện hành (Current Ratio) = Tổng tài sản lưu
động/ Tổng nợ ngăn hạn.
Hệ số này cho biết một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu tài
sản lưu động. Hệ số này quá nhỏ doanh nghiệp có khả năng rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán. Khi giá trị của tỷ số này giảm có nghĩa là khả năng trả nợ của
doanh nghiệp giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tài chính tiềm

tàng. Ngược lại, khi giá trị của tỷ số này cao hơn, có nghĩa là khả năng thanh toán
nợ của doanh nghiệp tăng, là dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, khi giá trị của tỷ số
này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động,
không mang lại hiệu quả. Điều này có thể do sự quản trị tài sản lưu động còn chưa
hiệu quả nên còn quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi hoặc do quá nhìều nợ phải đòi v.v…
làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nói chung, tỷ số luân chuyển tài sản lưu
động hay tỷ số thanh toán hiện hành trong khoảng 1 – 2 là vừa, nhưng trong thực tế
khi phân tích tỷ số này cần kết hợp với đặc điểm ngành nghề khác nhau và các yếu
tố khác như: cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp, năng lực biến động thực tế
của tài sản lưu động. Có ngành có tỷ số này cao, nhưng cũng có ngành nghề có tỷ số
này thấp, không thể nói chung chung được và cũng không thể dựa vào kinh nghiệm
được….
Hệ số khả năng thanh toán nhanh (Quick Ratio):
Tỷ số thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn
không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho). Do đó, có thể thấy tỷ số
thanh toán nhanh phản ánh chính xác hơn, chân thực hơn về khả năng thanh toán
ngắn hạn. Công thức như sau:
Hệ số khả năng thanh toán nhanh (Quick Ratio) = (tổng tài sản lưu động
– Hàng tồn kho)/ Tổng nợ ngắn hạn.
Hệ số này có tính thanh khoản cao, nó cho biết một đồng nợ ngắn hạn được
đảm bảo bằng bao nhiêu tiền hiện có. Hệ số này càng cao càng tốt. Tỷ số thanh toán
nhanh thấp hơn năm trước có nghĩa là những thay đổi về chính sách tín dụng và cơ
cấu tài trợ đã làm khả năng thanh toán của doanh nghiệp yếu đi, và ngược lại. Tuy


19

nhiên, tỷ số này cũng cần tuỳ theo sự cần thiết của ngành: các ngành nghề khác
nhau thì yêu cầu đối với tỷ số thanh toán nhanh cũng khác nhau. Ví dụ, các ngành
dịch vụ thì cần tiêu thụ nhiều tiền mặt, các khoản cần thu lại tương đối ít, do đó cho

phép duy trì tỷ số này thấp hơn 1. Ngoài ra, vì các khoản nợ của doanh nghiệp
không thể tập trung thanh toán vào cùng một thời kỳ, nên tỷ suất thanh toán nhanh
nhỏ hơn 1 không có nghĩa là không an toàn mà chỉ cần lượng tài sản lưu động
nhanh lớn hơn những khoản nợ cần phải trả ngay trong kỳ gần nhất là có thể chứng
tỏ rằng tính an toàn được đảm bảo. Cần phải xem xét kỹ các khoản phải thu (Nợ
khó đòi) có ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Yêu cầu tối thiểu
với doanh nghiệp xây dựng là 0,4.
Hệ số khả năng thanh toán tức thời (Immediate Ratio):
Công thức như sau:
Hệ số khả năng thanh toán tức thời (Immediate Ratio) = Vốn bằng tiền/
tổng nợ ngắn hạn.
Vốn bằng tiền (bao gồm tiền mặt và tiền gửi ngân hàng) là khả năng thanh
toán cao nhất, nó được sử dụng ngay cả khi cần trả nợ. Hệ số này cho thấy khả năng
doanh nghiệp thanh toán được nợ ngắn hạn ngay. Nếu hệ số này càng cao, doanh
nghiệp có khả năng lớn, nhưng cao quá thì không có hiệu quả vì tiền không sinh lời.
(2) Bố trí cơ cấu nguồn vốn:
Tỷ lệ nợ (The Debt Ratio) = Tổng nợ phải trả/ Tổng vốn (%)
Tỷ lệ này càng thấp doanh nghiệp càng ít phụ thuộc, các khoản nợ càng đảm
bảo thanh toán. Tỷ lệ cần duy trì ở mức trung bình hợp lý.
(3) Bố trí cơ cấu tài sản:
Tỷ lệ tài sản dài hạn = Tổng tài sản dài hạn/Tổng tài sản
Tỷ lệ tài sản ngắn hạn = Tổng tài sản ngắn hạn/Tổng tài sản
(4) Tỷ suất sinh lời:
Tỷ suất sinh lời đánh giá năng lực thu lợi, phản ánh hiệu quả từng hoạt động
riêng biệt. Để phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất – kinh doanh và hiệu năng
quản lý, chúng ta cần phải tính toán các tỷ số lợi nhuận. Thông qua các tỷ số lợi
nhuận, các nhà quản lý đánh giá năng lực thu lợi của doanh nghiệp, là khả năng thu
được lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì lợi nhuận là kết quả cuối cùng trong kinh
doanh của doanh nghiệp, thu được lợi nhuận là mục tiêu chủ yếu của sự tồn tại của
doanh nghiệp là một mặt quan trọng trong đánh giá thành tích tài chính của doanh



20

nghiệp. Các đối tượng liên quan: nhà đầu tư, chủ sở hữu, nhà quản lý… đều quan
tâm đến năng lực thu lợi của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu:
Là nguồn gốc chủ yếu của lợi nhuận doanh nghiệp, là lợi nhuận có được thông
qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận kinh doanh là do lợi nhuận của các
nghiệp vụ kinh doanh chính và các lợi nhuận của các doanh nghiệp khác cấu thành.
Lợi nhuận kinh doanh là một chỉ tiêu để đánh giá thành tích kinh doanh của doanh
nghiệp. Công thức như sau:
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Lợi nhuận/ Doanh thu (%)
Chỉ tiêu này phản ánh trong 1 đồng hay 100 đồng doanh thu thì có bao nhiêu
đồng lợi nhuận thu được. Chỉ tính lợi nhuận do hoạt động sản xuất kinh doanh đem
lại, tức là phần lợi nhuận có được tư doanh thu bán hàng. Chỉ số này càng cao
chứng tỏ giá thành sản phảm càng tốt. Sự biến động của tỷ số này phản ánh sự biến
động của về hiệu quả hay ảnh hưởng của các chiến lược tiêu thụ, nâng cao chất
lượng sản phẩm. Nếu tỷ số này giảm thì doanh nghiệp cần phân tích và tìm biện
pháp giảm các khoản chi phí để nâng cao tỷ lệ lợi nhuận, từ đó tăng khả năng thu
lợi của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản:
Tỷ số này phản ánh năng lực thu lợi của doanh nghiệp khi sử dụng toàn bộ các
nguồn kinh tế của mình. Công thức như sau:
Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản= Lợi nhuận ròng/ Tổng tài sản
Tỷ số này lớn hơn 0, thì có nghĩa doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tỷ số càng cao
cho thấy doanh nghiệp làm ăn càng hiệu quả. Còn nếu tỷ số nhỏ hơn 0, thì doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ. Mức lãi hay lỗ được đo bằng phần trăm của giá trị bình quân
tổng tài sản của doanh nghiệp. Tỷ số cho biết hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để
tạo ra thu nhập của doanh nghiệp.

Tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh và ngành
nghề kinh doanh. Do đó, người phân tích tài chính doanh nghiệp chỉ sử dụng tỷ số
này trong so sánh doanh nghiệp với bình quân toàn ngành hoặc với doanh nghiệp
khác cùng ngành và so sánh cùng một thời kỳ.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận/ Tổng vốn chủ sở hữu
(%)


21

Chỉ số này phản ánh 1 đồng hay 100 đồng vốn đem vào đầu tư thi sinh được
bao nhiêu lợi nhuận.
1.2.2.3. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là yếu tố cấu thành quan trọng hàng đầu năng lực cạnh
tranh của sản phẩm, mà năng lực cạnh tranh của sản phẩm là yếu tố cấu thành năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp, bởi chất lượng sản phẩm tạo nên uy tín, thương
hiệu của doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng nó tạo nên niềm tin cho
chủ đầu tư, có tác động rất lớn đến khả năng trúng thầu. Chính vì lẽ đó mà chất
lượng sản phẩm là tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chất
lượng của sản phẩm là tổng hợp các đặc tính của nó theo yêu cầu của sản phẩm, của
quá trình xây dựng hoặc tiện nghi phục vụ, vì vậy chất lượng sản phẩm vừa phải
tuân theo các quy phạm kỹ thuật vừa phải thỏa mãn nhu cầu mong muốn của con
người.
Trong lĩnh vực xây dựng thì chất lượng sản phẩm chính là chất lượng công
trình, nó biểu hiện thông qua tính năng, tuổi thọ, an toàn, bền vững, tính kỹ thuật,
mỹ thuật, kinh tế và bảo vệ môi trường của công trình. Vì sản phẩm của ngành xây
dựng không thể sản xuất ra sẵn để bán cho khách hàng được nên để đánh giá chất
lượng của sản phẩm của nhà thầu thì chủ đầu tư thường căn cứ vào những công
trình nhà thầu đã thi công ( thông qua bảng danh mục những công trình đã thực hiện

mà nhà thầu thống kê theo yêu cầu bắt buộc trong hồ sơ năng lực của mình).
1.2.2.4. Kinh nghiệm và năng lực thi công
Kinh nghiệm và năng lực thi công có tác động không nhỏ tới kết quả đánh giá
chung của bên mời thầu đối với nhà thầu bởi vì tài liệu quá khứ của nhà thầu chính
là bằng chứng thực tế để chủ đầu tư khẳng định khả năng và năng lực thi công của
doanh nghiệp có thể xây lắp và hoàn thành các công trình có tính chất và qui mô
tương tự với công trình đang được đấu thầu với chất lượng đảm bảo. Đây cũng là
một trong những chỉ tiêu xác định điều kiện đảm bảo nhà thầu được tham gia cạnh
tranh đấu thầu trong mỗi dự án, hầu như các chủ đầu tư khi phát hành hồ sơ mời
thầu đều có yêu cầu về tiêu chuẩn này. Đối với những công trình có qui mô lớn, yêu
cầu kỹ thuật phức tạp thì đây là nhân tố được nhà thầu khá coi trọng và sẽ chiếm
một tỉ lệ khá cao trong tổng số điểm đánh giá nhà thầu của bên mời thầu.
Mặt khác, khi doanh nghiệp đã nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, tức là
có điều kiện thi công các công trình và như vậy kinh nghiệm xây lắp của doanh


22

nghiệp được nâng lên. Tiêu chuẩn này được thể hiện năng lực hiện có của nhà thầu
trên các mặt:
Kinh nghiệm đã thực hiện các dự án có yêu cầu kỹ thuật ở vùng địa lý và hiện
trường tương tự. Ví dụ doanh nghiệp có bao nhiêu năm kinh nghiệm trong lĩnh vực
xây dựng dân dụng? Bao nhiêu năm trong lĩnh vực cầu đường, thủy lợi, thủy điện…
hay kinh nghiệm thi công ở miền núi, đồng bằng, nơi có địa chất phức tạp.
Năng lực thi công thể hiện ở các cấp công trình cụ thể cấp Đặc biệt, cấp I, cấp
II…
Số lượng và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công nhân viên trực tiếp
thực hiện dự án.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
1.3.1. Nhân tố bên trong

1.3.1.1. Nguồn lực tài chính
Nguồn lực tài chính có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh trong đấu
thầu xây dựng của doanh nghiệp. Năng lực tài chính thể hiện ở qui mô nguồn vốn tự
có, khả năng huy động vốn, hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh và có
cơ cấu hợp lý giữa vốn cố định và vốn lưu động.
Doanh nghiệp xây dựng có khả năng tài chính cao sẽ có tác động tích cực đến
công tác đấu thầu nói riêng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. Một
mặt, nó giúp cho doanh nghiệp đảm bảo tài chính để thực hiện các dự án kinh
doanh, mặt khác, nó tạo niềm tin cho chủ đầu tư về khả năng hoàn thành dự án và là
yếu tố quan trọng để doanh nghiệp có thể huy động vốn bên ngoài từ ngân hàng và
các nhà đầu tư khác.
Trong đấu thầu xây dựng, năng lực tài chính của nhà thầu là một yếu tố quan
trọng, là tiêu chuẩn để chấm điểm đánh giá năng lực nhà thầu. Mặt khác, với năng
lực tài chính vững mạnh, doanh nghiệp có thể chủ động lựa chọn các phương án bỏ
thầu với giá hợp lý để cạnh tranh với nhà thầu khác.
Ở nước ta hiện nay, qua thực tiễn đấu thầu quốc tế, xét trên phương diện tài
chính, các doanh nghiệp trong nước thường không tỏ rõ được ưu thế của mình trước
các doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, để trúng thầu các doanh nghiệp trong nước
thường phải liên danh với nhà thầu nước ngoài và thường phải chịu nhiều thiệt thòi
trong liên danh này.


23

1.3.1.2. Máy móc thiết bị, công nghệ thi công

-

-


-

-

Năng lực về máy móc thiết bị, công nghệ thi công sẽ được các nhà thầu giới
thiệu trong hồ sơ dự thầu, nó chứng minh cho bên mời thầu biết khả năng huy động
nguồn lực về xe máy thi công công trình đáp ứng yêu câù của chủ đầu tư. Nó là
thước đo trình độ kĩ thuật, là thể hiện năng lực hiện có đồng thời là nhân tố quan
trọng góp phần tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong đấu thầu. Trong
quá trình chấm thầu năng lực về máy móc thiết bị được chủ đầu tư xem xét rất kỹ,
bởi vì nó có tác động rất lớn đến chất lượng và tiến độ thi công. Khi đánh giá năng
lực về máy móc thiết bị và công nghệ chủ đầu tư thường đánh giá những mặt sau:
Nguồn lực về máy móc thiết bị và xe máy thi công của doanh nghiệp thể hiện thông
qua tổng giá trị các tài sản là máy móc thiết bị và xe máy thi công hiện có của
doanh nghiệp về số lượng, chủng loại của các máy móc thiết bị đó. Nếu nguồn lực
này không đảm bảo doanh nghiệp phải đi thuê phục vụ cho thi công sẽ ảnh hưởng
đến khả năng tranh thầu.
Trình độ hiện đại của công nghệ sản xuất, tức là các máy móc thiết bị công nghệ
của doanh nghiệp sử dụng có hiện đại so với trình độ công nghệ hiện tại trong
ngành xây dựng hay không. Trình độ hiện đại của công nghệ được thể hiện qua các
thông số kỹ thuật về đặc tính sử dụng, công suất và phương pháp sản xuất của công
nghệ hoặc có thể đánh giá qua thông số về năm sản xuất, quốc gia sản xuất và giá trị
còn lại của máy móc thiết bị.
Mức độ hợp lý của thiết bị xe máy và công nghệ hiện có, tức là tính đồng bộ trong
sử dụng máy móc thiết bị và công nghệ và sự phù hợp trong điều kiện đặc thù về
địa lý, khí hậu, địa chất, nguyên vật liệu... sự phù hợp giữa giá cả và chất lượng của
sản phẩm do công nghệ đó sản xuất ra.
Tính hiệu quả: thể hiện qua việc sử dụng máy móc thiết bị sẽ tác động như thế nào
đến hiệu quản sản xuất kinh doanh và khả năng huy động và phát huy tối đa nguồn
lực về máy móc thiết bị sẵn có phục vụ cho mục đích cạnh tranh của nhà thầu.

- Tính đổi mới: là khả năng đáp ứng mọi yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh
doanh và đồng thời cũng là yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong quá trình thi công yếu tố này sẽ giúp doanh nghiệp quyết định sự lựa chọn,
tính toán đưa ra các giải pháp hợp lý nhất.
1.3.1.3. Nguồn nhân lực
Trước hết, ảnh hưởng của nguồn nhân lực trong doanh nghiệp tới chất lượng
của công tác dự thầu thể hiện một cách trực tiếp thông qua việc bố trí nhân lực tại


24

hiện trường. Chất lượng của đội ngũ quản trị viên cao cấp trực tiếp quản lý quá
trình thi công cũng như chất lượng và sự phù hợp về cơ cấu ngành nghề của đội ngũ
công nhân tham gia thi công công trình. Đó là lý do tại sao bên mời thầu cũng rất
chú ý tới chỉ tiêu này khi xét thầu. Bên cạnh đó, đối với một doanh nghiệp xây dựng
năng lực và sự nhanh nhạy của các quản trị viên và chiến lược đấu thầu mà cán bộ
lãnh đạo doanh nghiệp theo đuổi quyết định phần lớn khả năng cạnh tranh trong đấu
thầu xây lắp nói riêng và chất lượng cuả công tác dự thầu nói chung.
Với những đòi hỏi đặt ra đối với nguồn nhân lực trong công tác dự thầu như
vậy đã làm cho các doanh nghiệp ngày càng phải nâng cao chất lượng của đội ngũ
cán bộ công nhân viên trong Công ty nhằm đáp ứng những đòi hỏi của bên chủ đầu
tư. Vì vậy, chất lượng đội ngũ công nhân viên ngày càng tăng lên. Khi đánh giá
nguồn nhân lực của doanh nghiệp thì chủ đầu tư thường xem xét dựa trên các cấp
độ sau:
- Nguồn nhân lực cấp cao:
Nguồn nhân lực cấp cao của doanh nghiệp là người hoạch định chính sách và
tổ chức thực hiện chiến lược phát triển của công ty hoặc là những người am hiểu có
trình độ chuyên môn sâu, vai trò của họ rất quan trọng, có tác động lớn đến hiệu quả
kinh doanh. Vai trò này thể hiện qua việc họ là người trực tiếp xây dựng, sử dụng
các công cụ để hiện thực hóa chính sách phát triển doanh nghiệp trong thực tiễn sản

xuất kinh doanh, là người có khả năng đề ra các giải pháp tối ưu về kinh tế và kỹ
thuật có lợi cho doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ cấp cao có trình độ chuyên môn,
trình độ quản lý, năng động, sáng tạo là yếu tố hết sức quan trọng, tác động rất lớn
đến sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả của cạnh tranh trong đấu
thầu nói riêng. Chính vì vậy, xây dựng nguồn nhân lực cấp cao luôn là vấn đề quan
tâm hàng đầu của doanh nghiệp hiện nay.
- Cán bộ cấp trung gian:
Trong các doanh nghiệp xây dựng, họ là các đội trưởng thi công, kỹ sư trưởng,
trưởng các phòng ban. Với cương vị này, họ là người thừa hành kế hoạch, mệnh
lệnh của cấp trên và lãnh đạo cấp dưới thực hiện các kế hoạch, mệnh lệnh đó. Đội
ngũ cán bộ này đóng vai trò rất quan trọng, là nhân tố tác động lớn đến quá trình
thực hiện các dự án đúng tiến độ, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật, an toàn lao động.
- Cán bộ cấp cơ sở:


25

Họ là những nhà quản trị cấp cuối cùng trong cơ cấu tổ chức của doanh
nghiệp, thường đảm nhiệm các chức danh đốc công, tổ trưởng, trưởng ca. Họ có
nhiệm vụ hướng dẫn, đôn đốc, chỉ đạo công nhân thực hiện các công việc cụ thể
nhằm hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ do doanh nghiệp đặt ra. Đội ngũ này đóng vai
trò quan trọng, công việc của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, tiến độ của
công trình, kịp thời đề xuất những kiến nghị, giải pháp hợp lý nhằm đẩy nhanh tiến
độ thi công và tiết kiệm chi phí tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Mặt khác,
là những người có quan hệ trực tiếp với công nhân, vì vậy, họ có thể dễ dàng nắm
bắt được tâm tư, nguyện vọng, động viên và chăm lo đến đời sống của công nhân,
qua đó, tạo ra sự ổn định và đồng thuận trong doanh nghiệp để thực hiện các mục
tiêu chung.
- Người lao động trực tiếp trong doanh nghiệp (công nhân)
Khi đánh giá khả năng của doanh nghiệp, bên mời thầu thường chú ý rất nhiều

đến lực lượng lao động trực tiếp của doanh nghiệp, họ là công nhân kỹ thuật, kỹ
thuật viên trên công trường. Đội ngũ lao động lành nghề, có kinh nghiệm, cơ cấu
hợp lý là một lợi thế của doanh nghiệp trong cạnh tranh đấu thầu. Do đó, công tác
tuyển dụng, đào tạo, sử dụng, chăm lo đến đời sống của người lao động là vấn đề
quan tâm hàng đầu nhằm tạo ra sự ổn định, tăng cường uy tín và năng lực của
doanh nghiệp.
Nhìn chung, khi đề cập tới mối quan hệ này có thể xem xét trên các phương
diện khác nhau nhưng chung quy lại phải thấy rõ vai trò hết sức quan trọng của việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên đối với công tác dự thầu trong
xây dựng và ngược lại
1.3.1.4. Hoạt động Marketing
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, hoạt động marketing là một công việc
quan trọng nhằm xây dựng hình ảnh, quảng bá sản phẩm mà doanh nghiệp chào
bán, là một công cụ cạnh tranh có vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường,
tăng doanh thu, hiệu quả của doanh nghiệp. Đối với một doanh nghiệp xây dựng
đây là một hoạt động thiết yếu có tác động lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trong đấu thầu xây dựng. Một doanh nghiệp xây dựng nếu xây dựng được
chiến lược marketing và biết cách sử dụng nó trong những tình huống, thời điểm
thích hợp thì sẽ giúp doanh nghiệp đó giữ được ưu thế trên thị trường so với các đối
thủ cạnh tranh trong ngành.


×