96
Chương
5
BAO BÌ GIẤY - BAO BÌ VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA
(BAO BÌ ĐƠN VỊ GỞI ĐI)
5.1 GIỚI THIỆU BAO BÌ VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA
5.1.1 Gỗ
Từ cổ xưa, người ta đã dùng gỗ làm vật liệu để đóng kiện với số lượng
hàng hóa lớn để để vận chuyển. Lúc đó, lượng hàng hóa được vận chuyển
thương mại còn thấp, gỗ được tiêu dùng với số lượng không cao, chưa gây thiệt
hại cho rừng và chưa ảnh hưởng lớn đến môi trường. Thương mại hàng hóa càng
ngày càng phát triển, nhu cầu về bao bì vận chuyển càng tăng cao cùng với việc
khai thác rừng vượt mức để dùng cho rất nhiều mục đích như xây dựng... đã
khiến cho nhu cầu về gỗ tăng cao nên không thể có đủ gỗ để đáp ứng nhu cầu,
do đó bắt đầu có những vật liệu khác cạnh tranh với gỗ. Đây là điều nổi bật
đáng quan tâm của giấy bìa gợn sóng vì tính nhẹ hơn gỗ rất nhiều, giúp cho chi
phí vận chuyển giảm thấp. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số ít trường hợp
hàng hóa vẫn được đóng kiện bằng thùng gỗ do tính chất cơ lý của gỗ cao.
Những đặc tính của thùng bằng gỗ chứa hàng hóa chuyên chở phân phối
tùy thuộc vào loại gỗ được dùng. Đặc tính quan trọng yêu cầu đối với thùng
gỗ là chòu được tải trọng và chòu va chạm cơ học. Gỗ của những cây tùng,
bách hay gỗ thân mềm thì có tính chòu của áp lực cao nhưng chòu tải trọng
thấp hơn loại gỗ cứng; so với gỗ cứng thì gỗ thân mềm có thể bò vỡ ra khi
đóng đinh.
Việc khai thác gỗ để sản xuất thùng chứa đựng hàng hóa càng lúc càng
tốn chi phí quá cao và càng tiến sâu vào sự phá hoại môi trường. Trung bình
chỉ có 65% thân cây được tạo thành thùng gỗ. Với khuynh hướng tăng sự hữu
dụng của vật liệu gỗ cho việc đóng thùng chứa hàng đã hình thành công nghệ
sản xuất gỗ ghép và gỗ dán. Gỗ dán được dùng nhiều để sản xuất các thùng
bằng gỗ hình tròn đựng chất lỏng mà ngày nay vẫn còn dùng để chứa rượu
vang. Phương pháp ghép nối những tấm ván thành những thùng chứa đựng
97
được cho thấy ở hình 5.1.
Hình 5.1: Thùng chứa đựng được cấu tạo bởi gỗ ghép
5.1.2 Bao bì vận chuyển bằng plastic
Hiện nay bao bì vận chuyển hay bao bì ngoài bằng vật liệu HDPE như
các két được dùng để chứa đựng chai thủy tinh, chứa bia hoặc nước ngọt có
gas đang rất phổ biến và tiện lợi có khối lượng nhỏ hơn gỗ rất nhiều và tính
tái sử dụng cao.
98
Hình 5.2: Két bằng HDPE chứa chai nước ngọt hoặc chai bia để vận chuyển
phân phối
Nguyên liệu HDPE chế tạo két được phối trộn HDPE phế thải với tỷ lệ
cao khoảng 80÷90% và HDPE mới khoảng 10÷20% trên tổng nguyên liệu sử
dụng; với điều kiện là nguyên liệu tái sinh không bò nhiễm bẩn làm giảm tính
bền cơ của bao bì.
Bên cạnh đó tính chất cơ học của két càng thấp khi được sản xuất từ
nhựa tái sinh nhiều lần, sẽ chóng lão hóa, dễ vỡ hơn theo thời gian sử dụng,
không thể cải thiện bằng các phụ gia ổn đònh.
Cần chú ý rằng két có thể bò nứt vỡ trên bề mặt do sự oxy hóa, sự nhanh
chóng lão hóa vật liệu bởi sự tiếp cận tia cực tím. Tùy thuộc vào thời gian
phơi dưới ánh nắng mặt trời có thể ảnh hưởng đáng kể đến tính bền cơ học
của két. Thời gian sử dụng két bằng HDPE có thể là 10 năm hoặc 15 năm,
hoặc có thể hơn tùy theo điều kiện áp dụng.
5.2 CẤU TẠO BAO BÌ GIẤY - ỨNG DỤNG
5.2.1 Đặc tính
Ngày nay giấy chiếm hơn phân nửa trong tổng số nguyên liệu để làm bao
bì. Nhờ tiến bộ của khoa học kỹ thuật, giấy các loại được sản xuất đại trà với
giá thành thấp.
Giấy được sử dụng phổ biến bởi một số tính chất đặc trưng như:
- Tính bền cơ học (tuy không cao như các loại vật liệu khác)
- Nhẹ.
- Dễ hủy, không gây ô nhiễm môi trường.
- Tái sinh dễ dàng.
Bên cạnh đó giấy có những khuyết điểm như:
- Dễ rách, thấm nước, thấm khí, tính dễ xé rách càng cao khi hàm ẩm
càng cao.
- Độ ẩm cho phép đảm bảo tính bền của giấy là 6-7%.
- Quy cách được quy đònh bởi trọng lượng trên một đơn vò diện tích giấy:
g/m2.
Để tăng độ bền cơ cho giấy, người ta thường ghép nhiều lớp giấy lại với
nhau. Các loại giấy có chất lượng khác nhau là do sự kết hợp với những loại
nguyên liệu khác nhau. Giấy là vật liệu bao bì lâu đời không gây hại môi
trường, đã được xử lí để có thể tăng cường tính kháng hơi ẩm, chống oxy hóa,
99
kháng vi khuẩn, chống dính, khó cháy, chống thấm nước, bề mặt có độ trượt
cao, độ bóng cao, chống thấm chất béo. Giấy hiện nay có thể có hàng loạt các
tính chất quang học và độ xốp mong muốn, và bằng cách sử dụng các lớp
tráng kép trên một mặt; có thể tái tạo hình ảnh chính xác khi in ống đồng.
Ngoài ra, độ bền cơ học đã khiến cho giấy có khả năng chạy trên máy căng
dãn theo chiều dọc của giấy mà không bò đứt hay xé rách.
Giấy có thể làm từ nguyên liệu rơm rạ, gỗ vụn, vỏ cây, bột gỗ, giấy thải,
gỗ thân mềm, gỗ thân cứng.
Cấu tạo của nguyên liệu gỗ:
Chất lượng thành phẩm được quyết đònh bởi nguyên liệu cellulose ban
đầu hơn là các hóa chất phụ gia, đó chính là chiều dài của cellulose. Sự khác
nhau giữa gỗ tỷ trọng cao và tỷ trọng thấp ảnh hưởng lớn đến cấu tạo của
giấy.
Thành phần chính của các tế bào gỗ
Cellulose: Cellulose là một polyme gồm 8000-10000 gốc glucose. Tính
chất của sợi cellulose phụ thuộc độ dài mạch polyme, mức độ thẳng, sự sắp xếp
song song bởi các mạch polyme. Nó không bò hòa tan bởi kiềm, clorin, do đó
giấy tẩy trắng chỉ có thể loại được lượng lignin mà không tổn thất cellulose,
nhưng gây giảm đặc tính bền chắc của sợi cellulose.
Hemicellulose: phân tử lượng thấp gồm 100-200 gốc monomer của xylose,
mannose arabinose, galactose và axit uronic. Hemicellulose tan trong dung dòch
kiềm, có khả năng bò thủy phân và có thể liên kết với các hóa chất phụ gia.
Lignin: là polyme nhiệt dẻo, có nhánh, nhân thơm alkyl, có kích thước
cũng như khối lượng phân tử không ổn đònh, gồm các monomer là phenyl
propane tan trong kiềm và dung dòch nước clor cho dẫn xuất màu nâu đen và
trở nên mềm dẻo ở 160oC pH 4.
Gỗ thân mềm: loại gỗ này gồm 40-50% cellulose, 15-25%
hemicellulose, 26-30% lignin. Thân gỗ mềm có sợi cellulose dài gấp 2,5 lần
so với thân gỗ cứng. Thân gỗ cứng dùng để sản xuất ván, tấm phẳng mòn hơn
nhưng kém bền cơ học hơn so với gỗ mềm. Như vậy phải cắt gỗ sao cho
không phá vỡ sợi cellulose để làm giấy được tốt, bên cạnh đó lignin phải được
loại bỏ đi để có thể thu được sợi cellulose và giúp chúng sắp xếp song
songkhi làm giấy. Sợi cellulose có thể bò gãy nát tùy các công đoạn chế biến giấy.
Trong quá trình chế tạo giấy, các sợi cellulose được sắp xếp lại vò trí
bằng áp suất rất lớn ép lên bề mặt để tạo dạng tấm, có thể dùng phụ gia như
casein và protein đậu nành hoặc tinh bột để tạo lớp áo bên ngoài tấm giấy.
100
- Chất màu vô cơ thường chiếm 70-90% chất khô của lớp áo giấy để tạo
bề mặt khác biệt cho giấy bên trong, giúp lớp áo nâng cao tính phẳng, dễ in
ấn, chất lượng in cao, tạo những tính chất đặc biệt theo yêu cầu, các chất
tráng để áo giấy được dùng như kaolin, CaCO3, được dùng kết hợp với các
khoáng chất khác để tạo nên độ bóng bề mặt giấy.
Nhờ tiến bộ kỹ thuật mà vật liệu giấy được xử lý để tăng cường tính
kháng hơi ẩm, khó cháy, ngăn được nước, độ trượt cao, độ bóng cao và có các
lớp tráng chống thấm dầu. Giấy hiện nay có thể có hàng loạt các tính chất
quang học và độ xốp mong muốn và bằng cách sử dụng các lớp tráng thích
hợp, có khả năng in ấn cao (như giấy của các tạp chí đắt tiền), ngoài ra độ
bền cơ học cao và khả năng chòu lực kéo (theo chiều dọc) khi chạy trên máy
khiến giấy không bò đứt hoặc rách.
Bảng 5.1: Phân loại nguồn nguyên liệu làm giấy
(theo sự phân loại của Cộng hòa Liên bang Đức)
Loại
Nguồn nguyên liệu
I
Cellulose từ sợi cotton phế thải
II
Cotton phế thải cộng với 50% cellulose từ gỗ hoặc rơm rạ
III
Cellulose từ rơm rạ, bã mía (không có cellulose từ gỗ)
IV
Cellulose từ gỗ ≤ 50%
V
Cellulose từ gỗ > 50%
Loại
Nguồn nguyên liệu tráng bề mặt giấy để chống thấm
Các loại vật liệu khác nhau được dùng để nâng cao chất lượng giấy cũng
được đề cập dưới đây
1
Dầu hỏa được sản xuất từ dầu mỏ thô hoặc từ than nâu. Dầu này có độ thấm
cao và điểm nóng chảy nằm giữa 52-56oC. Nó được thấm vào giấy bằng cách
ngâm giấy vào dầu dạng lỏng, hoặc phun nó lên bề mặt giấy. (H.5.3)
2
Sáp hay parafin rắn là nguyên liệu có nguồn gốc từ công nghệ tinh lọc
dầu hỏa được đun đến điểm nóng chảy trên 80oC và thẩm thấu vào giấy
hoặc phun lên giấy (H.5.3).
Màng polyethylen hay polypropylen phủ lên bề mặt giấy hoặc thẩm thấu
dạng nhựa lỏng. Loại giấy được nâng cao tính chống thấm bằng nhựa
thường được dùng trong sản xuất giấy bìa gợn sóng và giấy bìa cứng để
làm những bao bì vận chuyển.
3
Những vật liệu plastic khác như là polyvinyl chloride, polyvinyl acetat,
polyvynyl acrylate, cellulose, ete, latex, thường được dùng để làm các
bao bì đẹp mắt. Những vật liệu này thường được phủ lên mặt giấy và
được ép nhiệt (H.5.4). Giấy được xử lý như vậy gọi là giấy tráng bề mặt,
có tính không thấm nước hay ẩm.
4
Lá nhôm cũng thường được dùng cùng với giấy. Ví dụ như giấy cải tiến được
101
làm thành ba lớp: lớp thứ nhất thường là giấy; lớp giữa là AI và lớp thứ ba là
lớp polyethylene. Cuối cùng sản phẩm là một vật liệu bền chắc có thể chống
thấm hơi nước và hơi gas và rất thích hợp cho bao bì thực phẩm.
Loại nguyên liệu V là loại chất lượng cao vì lượng sợi cellulose từ gỗ có
đặc tính bền cơ cao, và thường sử dụng sợi cellulose mới từ gỗ thường từ gỗ
thân mềm. Sợi cellulose từ vải sợi phế thải hay từ giấy phế thải, được xử lý,
tái sinh nhiều lần sẽ bò ngắn mạch, độ bền cơ kém.
5.2.2 Các loại giấy bao gói: thành phần và tính chất ứng dụng
Giấy dùng để bao gói được chia thành các nhóm theo thành phần phối liệu:
Giấy làm bao bì thực phẩm thường là dạng bao bì hở vì giấy có tính thấm
khí hơi rất cao. Chỉ trường hợp giấy được tráng phủ các màng plastic hoặc màng
plastic với Al lá chống thấm khí hơi rất cao ở mặt trong lẫn mặt ngoài nhằm
ngăn cản hoàn toàn tác động của môi trường ngoài lên thực phẩm được chứa
đựng và tác động gây hư hỏng bao bì. Do đó lượng giấy sử dụng trong ngành
thực phẩm rất lớn, trong đó loại giấy bì cứng, giấy kraft làm carton gợn sóng
chiếm lượng cao nhất, còn lượng giấy gói thực phẩm chỉ ở lượng thấp đối với
các quốc gia phát triển cũng như đang phát triển. Chỉ riêng Nhật Bản sử dụng
một lượng lớn giấy thường là giấy từ nguyên liệu rơm rạ, đay, cối vừa để gói
bánh truyền thống từ ngũ cốc, vừa để trang trí; họ đã dùng giấy phân bố như
sau:
- Giấy bìa cứng làm hộp (bao bì ngoài) để đựng bánh
- Túi, giỏ xách quà bằng giấy bìa cứng. Tất cả đều được in ấn
trang trí đẹp.
Giấy được sử dụng nhiều như thế nhưng sẽ được tái sinh dễ dàng không
gây ô nhiễm môi trường, vừa tận dụng nguồn cellulose của đất nước (đay,
cối, rơm rạ, bột gỗ, gỗ vụn từ ngành xây dựng dân dụng), giảm đi một lượng
khá lớn plastic làm các loại bao bì trong cũng như bao bì ngoài cho loại bánh
bảo quản ngắn ngày.
Dưới đây là ký hiệu loại nguyên liệu giấy để bao gói:
AP1
100% hỗn hợp các loại giấy phế liệu
AP2
30% của AP1 + ; 70% giấy phế liệu chất lượng cao hơn
AP3
25% sợi cellulose loại 2 và 75% giấy phế liệu chất lượng cao,
hoặc 100% giấy phế liệu chất lượng cao
AP4
30% sợi cellulose thuần khiết và 70% giấy vụn chất lượng cao
hơn hoặc 100% giấy phế liệu chất lượng cao nhất
102
ZP1
100% sợi cellulose từ mắt gỗ (và có thể đến 30% giấy phế liệu)
ZP2
100% sợi cellulose loại 2 tẩy bằng sulphite (và có thể phối đến
30% giấy phế liệu chất lượng cao hơn)
ZP3
100% cellulose loại 2 tẩy bằng sulphite có thể phối đến 30% gỗ
hoặc 30% giấy phế liệu chất lượng cao hơn)
ZP4
65% cellulose thuần khiết đã dược tẩy trắng bằng sulphite và
được phối trộn với 35% gỗ
ZP5
100% sợi cellulose thuần khiết
NaP1: 100% sợi cellulose thuần khiết đã sulphite hóa
NaP2: 50% lượng NaP1 phối trộn với 50% giấy kraft phế liệu
Ghi chú:
- Giấy phế thải chất lượng cao: giấy văn phòng, giấy tập học sinh đã sử
dụng.
- Sợi cellulose loại 2: cellulose từ gỗ vụn hoặc cellulose còn lẫn hàm
lượng khá lớn của hemicellulose hoặc lignin.
- Giấy phế liệu chất lượng cao nhất: giấy phế thải từ quy trình sản xuất
giấy chất lượng cao, cắt rìa, cắt theo kích thước... chưa in ấn hay nhiễm
bẩn.
- Sợi cellulose thuần khiết là cellulose không lẫn hemicellulose hay lignin.
Giấy được cuộn đi qua bể sáp hoặc parafin rắn đã được nấu chảy. Giấy
sau khi được thấm sáp hoặc parafin được cho qua bể nước làm nguội và được
sấy khô, cuộn lại.
Hình 5.3: Công nghệ tráng sáp lên giấy
Hạt plastic được gia nhiệt chảy lỏng và được qua máy đùn thổi thành
màng và ghép lên bề mặt giấy.
Giấy kraft làm bao bì: là loại giấy có màu hơi nâu, làm từ sợi cellulose được
103
xử lý với muối natrium sulfat (sulfat hóa) và không tẩy trắng bằng phương pháp
sulphite. Giấy kraft dùng để làm các loại bao to để đựng ngũ cốc hay
ximăng... thường nặng từ 70-75g/m2; Giấy kraft mỏng nhất là 6-7g/m2; giấy
kraft để chế tạo bìa gợn sóng làm thùng chứa, bao bì đơn vò gởi đi, có khối lượng
85÷180g/m2. Giấy kraft có thể tẩy được, nhưng khi bò tẩy độ dai của nó sẽ
giảm đi. Hơn 60% sản lượng giấy kraft dùng để làm giấy bìa cứng, giấy bìa
gợn sóng (hoặc carton gợn sóng).
Hình 5.4: Công nghệ phủ (tráng) plastic lên bề mặt giấy
5.3 GIẤY BÌA GN SÓNG - CẤU TẠO BAO BÌ VẬN CHUYỂN
Với tiến bộ kỹ thuật hiện nay, bao bì carton gợn sóng có thể có hầu hết
các tính chất cơ học cần thiết như: chòu sự đè nén, va chạm, áp lực trong các
điều kiện môi trường có độ ẩm cao, do tạo nên các lớp sóng, tăng cường số
các lớp giấy bìa thành 3,5 hoặc 7 lớp. Ngoài ra có thể tăng cường độ bền cơ
học của các thùng chứa bằng cách gia cường các góc, các bề mặt đạt độ ma
sát thích hợp, để không trượt lên nhau giúp ổn đònh thùng trên pallet. Để tăng
cường tính cách nhiệt cho thùng có thể đưa polyurethan xốp vào các rãnh
sóng. Để bảo vệ an toàn cho các kho hàng, cũng có thể xử lý thích hợp để hạ
thấp tính bốc cháy của thùng xuống 60%.
Hiện nay bao bì carton dợn sóng đứng đầu trong các loại bao bì không
gây hại môi trường, với tỷ lệ 75% số lượng nguyên liệu chế tạo là loại giấy
kraft tái sinh (có thể đạt đến 100% nhưng chỉ nhằm mục đích thu nhặt lại). Tỷ
lệ này được chấp nhận bởi qui đònh của EEC. Vì vậy một bao bì riêng lẻ được
sản xuất sẽ chứa 75% sợi giấy tái sinh và 25% sợi giấy nguyên chất. Khi tính
đến chất lượng thu được thì ta thấy đây là một tiến bộ kỹ thuật lớn đồng thời
hiệu quả kinh tế lớn.
5.3.1 Cấu tạo của bìa giấy gợn sóng - Bao bì vận chuyển
104
Giấy bìa gợn sóng thực hiện chức năng đặc biệt quan trọng đó là vật liệu
tạo nên bao bì ngoài hình khối chữ nhật để chứa đựng một lượng lớn đơn vò
bán lẻ, giúp thuận tiện trong phân phối vận chuyển, lưu kho và kiểm tra quản
lý. Quá trình cải tiến các nguyên liệu tạo nên, giấy bìa gợn sóng là một trong
những bước tiến lớn nhất của thế kỷ 20 (giấy bìa gợn sóng được phát minh
trong thế kỷ 19 và được sử dụng phổ biến, chế tạo bằng cơ giới vào đầu thế kỷ 20).
Nó được sản xuất trên máy có tốc độ 50÷200m/phút, khổ rộng hơn 2m và có thể
được ghép 3, 5 hoặc 7 lớp. Những đặc tính về cường lực của nó tùy thuộc vào
loại giấy được dùng, biên độ gợn sóng và chất lượng của keo. Các dợn sóng
có hình vòng cung nhằm mục đích tăng khả năng chòu lực lên cao nhất (như
các giàn đỡ vòm, khung hình vòng cung trong kỹ thuật xây dựng dân dụng
cũng như cầu đường). Hình 5.5 mô tả quy cách của các loại gợn sóng làm tăng
cường độ chòu áp lực và tải trọng đối với giấy bìa gợn sóng làm bao bì vận
chuyển hàng hóa (thùng chứa).
Hình 5.5: Các loại gợn sóng A, B, C, D
Hình 5.6: Các loại giấy bìa gợn sóng 5 lớp, 7 lớp
kết hợp các loại sóng khác nhau
Các loại giấy gợn sóng - tính chất
105
Tùy thuộc vào loại hàng và cách thức xếp hàng mà có những yêu cầu
cường lực khác nhau. Hình 5.7 mô tả sự va chạm và phương chòu lực của bìa
gợn sóng.
Hình 5.7: Loại lực tác động và phương chòu lực của giấy bìa gợn sóng
a) Phương chòu áp lực va chạm của giấy gợn sóng
b) Phương chòu tải trọng của giấy gợn sóng.
Loại gợn sóng A, có bước sóng dài và chiều cao sóng cao có đặc tính chòu
lực va chạm tốt nhất. Giấy bìa gợn sóng loại A sẽ được dùng để đóng gói các
loại hàng hóa có thể bò ảnh hưởng bởi va chạm cơ học.
Loại gợn sóng B, có bước sóng ngắn và chiều cao sóng thấp cũng có khả
năng chòu được va chạm cơ học nhưng đặc biệt có khả năng chòu tải trọng
nặng so với loại gợn sóng A, do đó giấy bìa gợn sóng kiểu B chủ yếu được
dùng để đóng gói các hàng hóa có tải trọng cao như đồ hộp.
Loại gợn sóng C, kết hợp những đặc tính của loại A và loại B nên có tính
năng chòu được tải trọng và va chạm.
Loại gợn sóng D, có bước sóng ngắn chiều cao sóng rất thấp nên khả năng chòu
tải trọng cũng như va chạm đều rất kém vì thế chỉ được dùng làm bao bì thương mại
bao gói các loại hàng hóa có trọng lượng nhỏ và ít chòu tác động cơ học.
Dựa vào những đặc tính của loại gợn sóng để xác đònh phương cách tạo
thùng chứa hình khối chữ nhật bằng giấy bìa gợn sóng, có khả năng chòu lực
106
tác động và chòu tải trong tốt nhất.
Cấu trúc triển khai của bao bì ngoài bằng bìa gợn sóng như hình 5.8a, khi
lắp thành thùng chứa phải có cấu tạo gợn sóng như hình 5.8b: bề mặt xung
quanh có đường nối đỉnh của gợn sóng thẳng đứng với mặt đáy, mặt đáy và
nắp có phương của đường nối đỉnh sóng song song nhau và song song với một
mặt phẳng đáy.
Hình 5.8: Phương pháp tạo hình của bao bì giấy gợn sóng
a) Hình triển khai của thùng giấy bìa gợn sóng (thùng carton)
b) Cấu trúc hộp cơ bản (phương của gợn sóng biểu thò bằng mũi tên)
5.3.2 Cách sắp xếp hộp lon thực phẩm vào bao bì ngoài
107
Khi thiết kế thùng carton, phải quan tâm đến khả năng sử dụng, sự tiết
kiệm vật liệu bìa gợn sóng và khả năng chứa nhiều nhất của thùng, đặc biệt
chú ý khi bao gói ngoài các sản phẩm bán lẻ dạng chai thủy tinh thân trục,
hoặc lon kim loại. Trường hợp của những đơn vò bán lẻ được bao gói dạng
khối chữ nhật thì bao bì ngoài cũng có dạng khối chữ nhật sẽ được xác đònh
kích thước một cách dễ dàng.
Những hộp kim loại dạng trụ tròn và chai lọ có thể xếp theo cách xếp
vuông hoặc xếp chéo như hình 5.9a,b.
Cách xếp vuông góc: Tâm các hình tròn đáy lon nằm ở đỉnh của hình
vuông cạnh bằng đường kính lon (d).
Cách xếp chéo: Tâm các hình tròn đáy lon là đỉnh của tam giác đều có
cạnh bằng đường kính lon.
Hình 5.9: Các cách xếp hộp tròn vào thùng bìa gợn sóng
Cách sắp xếp thích hợp nhất (vuông góc hay chéo) có thể được tính
toán tương ứng với kích thước hộp, các thông số sắp xếp lon như sau:
l
- chiều dài đáy thùng carton
b - chiều rộng đáy thùng; d - đường kính hộp
h - chiều cao hộp (nếu hộp được xếp trong chỉ một tầng, h cũng là chiều
cao của thùng carton)
m - số lon xếp theo chiều rộng
n - số lon xếp theo chiều dài hộp
N - tổng số hộp xếp trong một tầng = m × n
P - diện tích toàn bộ bề mặt giấy bìa carton
V - thể tích của thùng chứa
Kích thước thùng, số lon sắp xếp, đường kính của lon có quan hệ như sau:
108
- Theo cách xếp vuông:
l = nd;
b = md
- Theo cách xếp chéo
l = nd;
b = [1 +
3
( m − 1)]d
2
Từ đó có hệ số f biểu diễn mối quan hệ giữa các thông số theo các
phương pháp xếp vuông hoặc chéo:
f =
Nd2
lb
Với kiểu xếp thùng vuông góc thì f = 1, kiểu xếp chéo f ≤ 1,155.
Ưu điểm của việc xếp hộp theo cách chéo được nhận thấy trong trường
hợp
(i)
n>4
(ii)
m = 2 và n > 8
4 < m < 14 và n > 5
m > 16 và n > 4
Khi gấp hộp carton, ta cần phải
chú ý sao cho nắp phải được xếp song
song với chiều dài của thùng carton.
Bên cạnh đó, việc sản xuất thùng bìa
gợn sóng làm bao bì đơn vò gởi đi rất
Hình 5.10
quan tâm đến tính kinh tế là tiết kiệm
được giấy, có nghóa là đạt được yêu
cầu thùng chứa lợi về thể tích chứa và giảm tốn hao bìa giấy nguyên liệu.
Hình 5.10 là các kích thước chiều dài, chiều rộng, chiều cao của một
thùng carton.
Tỷ lệ l: b: h = 2: 1: 2, là tỷ lệ giữa chiều dài, rộng và cao đáp ứng được
yêu cầu thể tích thùng (lớn nhất) tốt nhất với diện tích bề mặt hộp tối thiểu.
Nếu tỷ lệ này thay đổi thành 2: 2: 1, sẽ phải sử dụng thêm 33% nguyên liệu.
Còn nếu tỷ lệ là 1: 1: 1 thì phải sử dụng thêm 12% nguyên liệu so với nguyên
liệu dùng cho trường hợp tỷ lệ 2: 1: 2. Thực tế để hạ trong tâm thùng, bảo
đảm an toàn thường không theo tỷ lệ 2: 1: 2.
5.4 QUY CÁCH CỦA BAO BÌ VẬN CHUYỂN
109
5.4.1 Quy đònh về kích thước thùng khối chữ nhật và khối lượng hàng được
chứa đụng
Bảng 5.2: Kích thước bên trong của thùng carton và khối lượng tối đa cho phép
đóng trong một thùng
Kích thước (mm)
Ký hiệu
thùng
Dài
Rộng
cao
Khối lượng tối đa được phép đóng
trong thùng (kg)
8
512
307
198
30
10
458
305
253
30
12
512
409
150
26
13A
412
309
210
25
13B
508
410
133
21
14
391
234
285
19
Thông thường, người ta dùng thùng carton để đóng bao bì vận chuyển
hàng hóa.
Các thùng hàng hóa được xếp thành kiện hay khối chữ nhật trên các
pallet gỗ để tránh không để trực tiếp trên nền kho.
Hình 5.11: Một trong các cách sắp xếp thùng hàng hóa (các đơn vò gởi đi) trên
một pallet để lưu kho
5.4.2 Ghi nhãn bao bì ngoài
Bao bì giấy bìa gợn sóng (bao bì giấy carton) cũng được ghi nhãn nhưng
yêu cầu đơn giản so với trường hợp ghi nhãn cho hàng hóa đơn vò bán lẻ,
110
thông thường có thể ghi:
- Thương hiệu.
- Tên sản phẩm (có thể ghi một số chi tiết về đặc tính vật phẩm).
- Đòa chỉ nhà sản xuất, nơi đóng bao bì - quốc gia sản xuất.
- Hạn sử dụng.
- Số lượng hay trọng lượng.
- Mã số mã vạch.
- Các ký hiệu, dấu hiệu phân hạng thực phẩm (nếu có) như dấu hiệu
hàng Việt Nam chất lượng cao.
5.4.3 Ký hiệu bằng hình vẽ cho bao bì vận chuyển hàng hóa (bao bì đơn vò gửi
đi) được quy đònh theo TCVN6405: 1998 và ISO780: 1997
Để có được bao bì tiện lợi trong vận chuyển và đảm bảo chất lượng hàng
hóa bên trong ta cần quan tâm đến qui đònh chung như một ngôn ngữ riêng
dành cho lónh vực này.
Tiêu chuẩn TCVN6405: 1998 và ISO780: 1997qui đònh các ký hiệu quy
ước ghi trên bao bì vận chuyển để hướng dẫn việc bốc xếp và bảo quản hàng
hóa trong quá trình vận chuyển.
1- Quy cách ký hiệu - ý nghóa
Các ký hiệu được in trực tiếp trên bao bì đơn vò gởi đi không bắt buộc
đóng khung đậm cho các ký hiệu.
a) Màu sắc của ký hiệu
Màu sắc dùng cho ký hiệu phải là màu đen. Nếu màu của bao bì làm cho
màu đen của ký hiệu không rõ thì nên chọn màu sắc tương phản, thích hợp
làm nền, tốt nhất là màu của giấy traft chế tạo thùng. Phải tránh các màu có
thể nhằm lẫn với nhãn hàng hóa thuộc loại nguy hiểm. Tránh dùng màu đỏ,
da cam hoặc vàng, trừ khi có các yêu cầu đặc biệt.
b) Kích thước của ký hiệu
Các chiều cao thông thường của ký hiệu là 100mm, 150mm hoặc 200mm.
Tuy nhiên, tùy theo kích thước và hình dạng của bao bì có thể sử dụng
các ký hiệu lớn hơn hoặc nhỏ hơn.
c) Số, vò trí và hướng của ký hiệu
111
Số của ký hiệu sử dụng cho mỗi loại bao bì phụ thuộc vào kích thước
hình dáng và hàng hóa chứa đựng bên trong.
Đối với các ký hiệu số 1,3,7,11, và 16 (xem bảng 5.3) phải theo các
nguyên tắc sau:
Ký hiệu số 1- "Dễ vỡ", phải để ở góc bên trái của tất cả bốn mặt xung
quanh bao bì (xem ví dụ trong số 1 bảng 5.3).
Ký hiệu số 3- "Hướng lên trên", cũng để ở vò trí giống như ký hiệu 1
Ký hiệu số 7- "Trọng tâm", khi có thể, ký hiệu này cần phải để tất cả 6
mặt hoặc ít nhất phải để trên 4 mặt liên quan đến vò trí thực của trọng tâm
Ký hiệu số 11- "Vò trí kẹp"
- Chỉ những bao bì có các ký hiệu này mới được vận chuyển bằng kẹp.
- Ký hiệu phải để ở hai mặt đối diện của bao bì trong tầm nhìn của người
vận hành thiết bò khi bốc xếp hàng hóa.
- Ký hiệu không được đặt ở mặt bao bì sẽ kẹp.
Ký hiệu 16- "Quàng dây”, ở đây phải đặt ít nhất ở hai mặt đối diện của
bao bì.
- Khi bao bì vận chuyển được xếp thành đống, ký hiệu được để sau cho
có thể nhìn thấy được.
- Cần phải đặc biệt chú ý dùng chính xác ký hiệu tránh việc áp dụng sai.
Ký hiệu số 7 và số 16 phải được để theo đúng hướng và vò trí tương ứng
của nó.
- Trong ký hiệu 14 "Giới hạn số lượng xếp chồng lên", n là số lượng tối
đa bao bì được xếp chồng lên nhau.
2- Hình ảnh ký hiệu cụ thể
Hướng dẫn phải được ghi rõ trên bao bì vận chuyển bằng cách sử dụng
các ký hiệu tương ứng đưa ra trong bảng 5.3.
Bảng 5.3: Ý nghóa, hướng dẫn và lưu ý khi sử dụng
các ký hiệu cho bao bì ngoài
Số
ký
hiệu
Hướng
dẫn
Ký hiệu
Ý nghóa
Tham khảo/lưu ý - ví dụ
112
Số
ký
hiệu
Hướng
dẫn
Ký hiệu
Ý nghóa
1
Dễ vỡ
Các vật đựng trong
bao bì vận chuyển dễ
vỡ phải bốc xếp cẩn
thận
2
Không
dùng
móc tay
Không dùng móc để
bốc xếp và vận
chuyển hàng hóa
3
Hướng
lên trên
Chỉ ra hướng đúng của
bao bì vận chuyển
4
Tránh
ánh nắng
mặt trời
Bao bì vận chuyển
không được để dưới
ánh nắng mặt trời
5
Tránh
nguồn
phóng xạ
Vật đựng trong bao bì
có thể bò hư hỏng hoặc
không thể dùng được
do bò nhiễm phóng xạ
6
Tránh
mưa
Bao bì vận chuyển
không được để dưới
mưa
7
Trọng
tâm
Chỉ ra trọng tâm của
bao bì vận chuyển
được bốc xếp như một
đơn vò lẻ
8
Không
được lăn
Bao bì vận chuyển
không được lăn
9
Không
dùng xe
kéo tay
đặt ở đây
Không dùng xe kéo
tay đặt vào mặt này
khi bốc xếp bao bì vận
chuyển
10
Không
dùng xe
nâng
Không
được
vận
chuyển bao bì bằng xe
nâng
Tham khảo/lưu ý - ví dụ
113
Số
ký
hiệu
Hướng
dẫn
11
Vò trí kẹp
Kẹp vào các mặt được
đánh dấu để bốc xếp
bao bì vận chuyển
12
Dấu hiệu
không
được kẹp
Bao bì vận chuyển bốc
xếp bằng kẹp trên mặt
có dấu hiệu không
được kẹp
13
Giới hạn
khối
lượng
được
phép
chồng
lên
Chỉ ra khối lượng tối
đa được phép xếp
chồng lên bao bì vận
chuyển
14
Số lượng
tối
đa
được xếp
chồng
lên
Chỉ ra số lượng tối đa
bao bì vận chuyển
được phép xếp chồng
lên nhau "n" là số
lượng bao bì giới hạn
15
Không
được xếp
chồng
lên
Không được phép xếp
chồng và chất tải lên
bao bì vận chuyển
16
Quàng
dây
ở
đây
Dây quàng phải đặt
vào vò trí có ký hiệu
để cẩu bao bì vận
chuyển
17
Giới hạn
nhiệt độ
Chỉ ra giới hạn nhiệt
độ để bảo quản và bốc
xếp bao bì vận chuyển
Ký hiệu
Ý nghóa
Tham khảo/lưu ý - ví dụ
Câu hỏi
1 Phát biểu nào dưới đây sai:
a) Thùng giấy carton nhẹ, dai, chống va đập tốt.
b) Giấy carton có tráng phủ lớp plastic có tính cách ẩm và ngăn cản khí
kém.
114
c) Các loại carton gợn sóng chòu được va đập và chòu nén và có nhiều công
dụng.
d) Khi mua giấy để chế tạo bìa giấy carton ta cần quan tâm đến độ dày, độ
cứng của giấy.
2 Bao bì đơn vò gởi đi chứa số lượng 24 hộp, SP chứa trong mỗi hộp:
10SP/hộp; khối lượng 100g/SP. Số lượng được ghi trên bao bì đơn vò gửi
đi như sau:
a) 100g × 10 × 24
b) 100g × 240 gói
c) 24 × 10SP × 100g/SP
d) 10 hộp × 100g × 24.
3 Để dễ dàng phân phối vận chuyển bao bì thường có dạng:
a) Khối chữ nhật và khối vuông.
b) Khối trụ và khối vuông.
c) Dạng gói.
d) Khối chữ nhật.
4 Để tạo nên loại giấy bìa gợn sóng có tính chòu tải trọng cao nhất người ta
thường ghép giữa các loại giấy gợn sóng sau:
a) A ghép với B
b) B ghép với B
c) B ghép với C
d) A ghép với E.
5 Cách xếp chéo các hộp trụ tròn vào hộp carton là cách xếp sao cho:
a) Tâm các đáy tròn, nằm trên đỉnh của một tam giác.
b) Đường nối tâm của các đáy tròn của hộp hình trụ chính là các cạnh của
một tam giác đều.
c) Diện tích bề mặt bò bỏ trống nhiều hơn so với phương pháp xếp vuông.
d) Các phát biểu trên đều không đúng.
Tài Liệu Tham Khảo
1.
United Nations Industrial Development Organization Food industry
studies No.5, Packaging and Packaging materials, New York, 1969.
2.
Hanlon J. F., Paper and paper board, Handbook of Package
Engineering, 2nd Edition, McGraw, Hill Inc, New York, 1984.
3.
Schenk,R.U.,Bjorksten and L. yeager. Composition and consequences of
aluminium in water,beverages and other ingestibles. In Environmental
Chemistry and toxicology of Aluminium , T.E. Lewis(Ed.), Lewis
115
publisher,Inc.,Chelsea Michigan,1989,chap.14. 33.
4.
Wade, P.Biscuit, cookies and crackers, vol.1, The Principles of the craft,
Elservier Applied science Publishers Ltd.,Essex, England 1988, chap.4.
Chương
6
BAO BÌ THỦY TINH
6.1 ĐẶC TÍNH CHUNG CỦA THỦY TINH
6.1.1 Đặc tính chung
Bao bì thủy tinh đựng thực phẩm gồm những chai, lọ bằng thủy tinh silicat.
Trước đây, thủy tinh là từ gọi chung cho những oxyt vô cơ dạng thủy tinh hay
chính là dạng cấu trúc vô đònh hình. Vật chất vô cơ thường tồn tại dưới các dạng:
Dạng khí, gồm tập hợp các phần tử như O2, N2, CO2, H2, Cl2, F2, SO2...,
hoặc khí ion hóa plasma, hoặc dạng hơi như hơi H2O. Dạng lỏng như Br2, Hg...
Các dạng khí, hơi hoặc lỏng đều mang tính linh động và có hình dạng của
vật chứa chúng.
- Dạng rắn tinh thể, như các dạng muối kết tinh, có các hạt tinh thể rời
rạc, kích thước tùy vào điều kiện kết tinh.
- Dạng rắn vô đònh hình, còn gọi là dạng thủy tinh có thể gặp ở dạng hạt,
dạng màng, gel, hoặc đóng rắn thành khối. Trạng thái thủy tinh thường
là trạng thái đặc trưng của các hợp chất vô cơ, được xem là trạng thái
trung gian của dạng kết tinh và dạng lỏng có đặc tính: trong suốt, cứng
dòn ở nhiệt độ thường.
- Khi được gia nhiệt thì thủy tinh mềm dần và trở nên linh động, chảy
thành giọt hay thành dòng, độ nhớt càng giảm thấp khi nhiệt độ càng
tăng; và độ nhớt sẽ tăng dần đến cực đại và mất cả tính linh động khi