ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
------------
BÁO CÁO TỔNG KẾT
U
Ế
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
́H
Tên đề tài:
TÊ
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ CÔNG KHAI THÔNG TIN TRÁCH NHIỆM BẢO
VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM
H
Mã số: GV2015-03-07
IN
Chủ nhiệm đề tài: Th.s Lê Ngọc Mỹ Hằng
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
Thời gian thực hiện: 01/2015 – 12/2015
Huế …12/2015...…
-1-
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Các bên liên quan đến CER
Bảng 2: Thống kê mô tả về CED của công ty niêm yết Việt Nam
Bảng 3: Kiểm định Kruskal-Wallis
Bảng 4: Kết quả điểm CED phân chia theo ngành công nghiệp qua 3 năm (20122014)
Bảng 5: Kết quả kiểm định Mann-Whitney U test- a
U
Ế
Bảng 6: Kết quả điểm CED phân chia theo quy mô doanh nghiệp qua 3 năm (20122014)
́H
Bảng 7: Kết quả Kiểm định Kruskal-Wallis dành cho biến Quy mô DN
TÊ
Bảng 8: Thống kê mô tả về CED theo khoản mục tại VLF 2012-2014
Bảng 9. Thông kê mô tả yếu tố sản phẩm của VLF 2012-2014
Bảng 10: Thống kê mô tả về tính bền vững công bố bởi VLF 2012-2014
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
Bảng 11: Thống kê mô tả các mục về Năng lượng bởi VLF 2012-2014
-2-
I. PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
U
Ế
Thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường (TNBVMT) của DN được xem là
chiến lược kinh doanh cốt yếu của DN để đạt được lợi thế cạnh tranh (Savitz &
Weber, 2006). Thực hiện TNBVMT không những giúp doanh nghiệp mà xã hôi đạt
đến sự phát triền bền vững (Stewart, 2005). Điều này là tất yếu bởi tất cả các doanh
nghiệp (DN) đều phải góp phần tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh để
hổ trợ DN phát triển liên tục và lâu dài (Tinto, 2000). Các cổ đông sẽ bất bình nếu
báo cáo thường niên thiếu sự minh bạch và trách nhiệm đối với môi trường. Đặc biệt
khi những sản phẩm độc hại được công bố lần đầu tiên và những hành vi huy hoại
đến môi trường sống tăng lên thì làn sóng phẩn nộ từ cộng đồng trở nên gay gắt
(Delmas, 2001).
Vì vậy, các công ty cần thiết lập các chuỗi giá trị để bù đắp các hoạt động hàng
ngày như công khai trách nhiệm đối với môi trường. Phấn đấu cho sự phát triển bền
vững, mục tiêu chính là để đạt được sự thịnh vượng kinh tế mà không làm tổn hại
đến tính toàn vẹn của xã hội. Trách nhiệm đối với xã hội và môi trường thu hẹp
khoảng cách bất đối xứng thông tin giữa các doanh nghiệp và nhà đầu tư (Freeman,
1984). Theo KPMG (2011), báo cáo trách nhiệm của doanh nghiệp đã và đang là vấn
đề cấp bách, với 95% trong 250 tập đoàn toàn cầu hàng đầu (G250) đã thực hiện việc
báo cáo hoạt động xã hội và môi trường. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy rằng việc
báo cáo TNBVMT chủ yếu ở các nước phát triển vẫn mang tính tự nguyện, điều
hoàn toàn khác so với báo cáo kế toán tài chính (Deegan, 2002; Dobbs & Van
Standen, 2011).
Hơn nữa, các học giả truyền thống chỉ tập trung nghiên cứu vào các nước phát
triển, chủ yếu là châu Âu, Mỹ và Úc. Gần đây, một số nhà nghiên cứu đã bắt đầu chú
ý đến thị trường mới nổi, nhưng đã không đề cập đến các quốc gia chuyển đổi quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Araya, 2006). Belal (2008) và Momin (2006) lập luận rằng
nghiên cứu những tác động đến việc công bố thông tin TNBVMT tại các nước đang
chuyển đổi là có tính chất ban đầu và mới thăm dò.
Trong khi việc công bố đầy đủ thông tin trách nhiệm xã hội không chỉ tăng
cường uy tín doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mà còn góp
phần phát triển bền vững, rất ít công ty ở Việt Nam nhận ra lợi ích này. Trước những
thảm họa môi trường và tác động tiêu cực của xã hội Việt Nam, vấn đề trách nhiệm
xã hội và môi trường của doanh nghiệp đang là nhu cầu cấp bách cần cải thiện
(Nguyen, 2006). Do áp lực của hội nhập quốc tế, cũng là điều cần thiết để Việt Nam
tuân thủ các tiêu chuẩn toàn cầu hóa về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, theo Viện
-3-
H
TÊ
́H
U
Ế
nghiên cứu Kinh tế Việt Nam, đến năm 2013, chỉ 28% công ty niêm yết Việt Nam
chấp hành tiêu chuẩn môi trường, chỉ có 5% thừa nhận đóng góp của họ có quan tâm
đến chăm sóc sức khỏe người lao động (Phạm, 2013). Nhiều công ty niêm yết Việt
Nam đã không thực hiện trách nhiệm xã hội, đặc biệt gây ô nhiễm môi trường trầm
trọng. Minh họa điển hình là việc xả nước thải vào sông Thị Vải, sông Hồng bởi các
công ty như Vedan, Miwon, Hào Dương, giấy Việt Trì, Hyundai, Vinashin; các sản
phẩm độc hại như nước tương có 3-MCPD gây ung thư, mì với Phormol, thực phẩm
có hàn the, sữa có melamine.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Đánh giá mức độ
công khai thông tin trách nhiệm bảo vệ môi trường của các Công ty niêm yết tại
Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2015.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá mức độ thực hiện công khai trách nhiệm bảo vệ môi trường tại các
công ty niêm yết Việt Nam;
- Bước đầu đề xuất một số ý kiến nhằm khuyến khích việc thực hiện công khai
trách nhiệm bảo vệ môi trường tại các công ty niêm yết Việt Nam.
IN
1.3 Đối tượng nghiên cứu
̣C
K
- Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng công khai trách nhiệm bảo vệ môi
trường tại các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TPHCM (HOSE).
O
1.4 Phạm vi nghiên cứu
Đ
A
̣I H
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu sẽ đánh giá mức độ công khai TNBVMT của
158 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TPHCM (HOSE).
- Phạm vi thời gian: thời gian nghiên cứu của đề tài là từ 01/2015 đến 12/2015.
Dữ liệu được thu thập từ báo cáo thường niên của công ty niêm yết tại HOSE từ năm
2012 đến 2014 và các websites.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
1.5.1. Cách tiếp cận
Nghiên cứu vận dụng kỹ thuật phân tích nội dung (Content Analysis), là kỹ thuật
được dùng rộng rãi khi đánh giá mức độ công khai thông tin TNXH (Krippendorff,
1980; Gray và cộng sự, 1995; Milne and Adler, 1999). Kỹ thuật này dùng để chuyển
đổi biến định tính thành biến định lượng bằng cách tính điểm (Djajadikerta, 2012).
1.5.2. Phương pháp nghiên cứu
-4-
- Phương pháp chọn mẫu
Trong nghiên cứu này, các báo cáo thường niên và thông tin từ các trang web
của công ty đã được sử dụng như là dữ liệu thứ cấp để thực hiện việc phân tích nội
dung. Các nguồn thay thế khác là từ trang web thị trường chứng khoán Thành phố
Hồ Chí Minh (HOSE) ( các trang web riêng và số liệu thống kê
từ trang web ( />
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
U
Ế
Công ty được chọn mẫu là các công ty đã niêm yết tại HOSE trong giai đoạn
2012 đến 2014. Tính đến đầu năm 2014, có khoảng 310 công ty niêm yết trên HOSE
phân theo 20 ngành.1 Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng ngẫu
nhiên. Tuy nhiên, mục đích là để thu thập các báo cáo thường niên từ cùng một công
ty trong ba năm liên tiếp, mẫu phải được lựa chọn dựa trên công ty cung cấp các báo
cáo thường niên cho mỗi năm từ năm 2012 đến năm 2014. Các công ty đã hủy bỏ
niêm yết trong kỳ và niêm yết sau ngày 01/01/2012 không được bao gồm trong mẫu.
Cuối cùng, 158 báo cáo thường niên của công ty đã thu được mỗi năm, tổng cộng
474 báo cáo thường niên trong ba năm, đồng thời 158 trang web công ty đã được
kiểm tra. Trong số 158 công ty niêm yết trên HOSE, 143 công ty đến từ các ngành
công nghiệp nhạy cảm và 15 từ các ngành công nghiệp không nhạy cảm.
Để đảm bảo đề tài mang tính khoa học và thực tiễn cao, nhóm nghiên cứu sử
dụng 3 phương pháp phân tích cơ bản sau:
+ Phương pháp phân tích thống kê, mô tả
+ Phương pháp nghiên cứu định tính: phỏng vấn sâu 2 chuyên gia trong lĩnh vực
kế toán kiểm toán đến từ Công ty kiểm toán Deloitte- Việt Nam và KPMG Việt
Nam- hai trong 4 công ty kiểm toán hàng đầu thế giới; 2 chuyên gia đến từ Trung
tâm nghiên cứu và phát triển xã hội Việt Nam (CSRD). Thông tin thu thập từ nghiên
cứu định tính nhằm xây dựng bảng tiêu chí chấm điểm công bố thông tin TNBVMT
của công ty niêm yết tại Việt Nam.
+ Phương pháp nghiên cứu định lượng:
Bảng các chỉ tiêu về công bố thông tin được thiết kế vận dụng phương pháp tính
điểm của Gunawan và cộng sự (2009).
II. PHẦN 2: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1
file:///C:/Downloads/Ket%20qua%20phan%20nganh%20theo%20HaSIC.pdf;
-5-
H
TÊ
́H
U
Ế
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc công khai thông tin trách nhiệm bảo vệ
môi trường của các công ty niêm yết
1.1 Định nghĩa về trách nhiệm bảo vệ môi trường của doanh nghiệp (CER)
Trách nhiệm bảo vệ môi trường của doanh nghiệp (CER) là các khía cạnh môi
trường của trách nhiệm xã hội mà doanh nghiệp cần thực hiện (CSR) trong quá trình
kinh doanh. CER được xác định là trách nhiệm phải giải quyết các vấn đề liên quan
đến môi trường gây ra do các hoạt động sản xuất kinh doanh các sản phẩm và dịch
vụ của doanh nghiệp; loại bỏ chất thải và khí thải; tối đa hóa hiệu quả và năng suất
của các nguồn lực; và giảm thiểu những ảnh hưởng xấu có thể đến việc hưởng thụ
các nguồn tài nguyên của đất nước đối với các thế hệ tương lai (Chen, 2009). Tổ
chức phi chính phủ về môi trường Canada (ENGO) đưa ra ba chủ đề chính cho CER
(Jamison, et al, 2005).: (1) cam kết môi trường mà trong đó các công ty phải phát
triển bền vững và có tác động hoàn toàn tích cực đối với môi trường và xã hội; (2)
quản lý nguyên vật liệu và năng lượng, trong đó các công ty hoạt động trong giới hạn
sinh thái hữu hạn của môi trường; và (3) các bên tham gia có hiệu quả, trong đó các
công ty là hoàn toàn minh bạch và có trách nhiệm.
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
1.1.1 Các lý thuyết giải thích trách nhiệm bảo vệ môi trường của doanh
nghiệp
Các nghiên cứu của Chen (2009) sử dụng lý thuyết trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp (CSR) để xác định động cơ và các bên liên quan của trách nhiệm bảo vệ môi
trường (CER).
Giác Ngộ Tự lãi (Enlightened Self-Interest)
Các nhà khoa học xã hội đã chỉ ra hai lý do tại sao các giả định lợi ích cá nhân là
rất quan trọng trong lý thuyết của CER. Đầu tiên, giả thiết này từ lâu đã là trung tâm
để kinh tế tân cổ điển và sự lựa chọn hợp lý khi tiếp cận với kinh tế học. Thứ hai, vì
các học giả gọi giả định lợi ích cá nhân để giải thích nhiều khía cạnh khác của hành
vi con người. Vì vậy, giải thích dựa trên lợi ích cá nhân là phổ biến trong khoa học
xã hội phương Tây và có khả năng áp dụng cho một số thời kỳ (Chen, 2009). Davis
(1973) chỉ ra rất nhiều lý do cho việc áp dụng CSR vào thực tiễn hàng ngày của một
công ty là sẽ dẫn đến lợi thế kinh doanh. Ông lập luận rằng lợi ích cá nhân dài hạn là
một trong những lý do phổ biến nhất để thực hiện CSR. Niềm tin này giả định rằng
doanh nghiệp cần phải cung cấp một loạt các hàng hóa xã hội để duy trì lợi nhuận
trong thời gian dài. Các công ty quan tâm đến cộng đồng sẽ tạo ra một cộng đồng tốt
hơn để tiến hành hoạt động kinh doanh (Davis, 1973). Ví dụ, nhân viên sẽ sẵn sàng
hơn để làm việc cho các công ty và tiềm năng lao động của họ sẽ tốt hơn, hoặc sự
-6-
́H
U
Ế
quan tâm đến cải thiện môi trường sẽ dẫn đến chi phí thấp hơn để bảo vệ môi trường.
Có rất nhiều ví dụ cho thấy một cộng đồng tốt hơn, hay xã hội tốt hơn sẽ dẫn đến lợi
nhuận nhiều hơn trong dài hạn. Một ưu điểm nổi bật của CER là việc công khai tích
cực tăng lên, hoặc một hình ảnh tốt hơn (Davis, 1973). Khái niệm này được ủng hộ
bởi nhiều tác giả. Maignan và Ralston (2002) lưu ý rằng, đặc biệt là tại Hoa Kỳ,
CER được sử dụng như một công cụ tiếp thị, hoặc một công cụ quản lý ấn tượng để
tác động đến nhận thức của các bên liên quan đến công ty. Ý tưởng này cùng được
chia sẻ bởi Morimoto và cộng sự (2005), người xem CER như một công cụ cho sự
phát triển của một hình ảnh tích cực của công ty. Với sự gia tăng áp lực của công
chúng về các công ty và tăng sự quan tâm vào CER hiện nay, các công ty cần phải
điều chỉnh những thay đổi văn hóa kinh doanh, xã hội và theo kịp với các hoạt động
CER của hầu hết các công ty lớn.
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
Công cụ, chính trị, thống nhất và động cơ đạo đức (Instrumental, Political,
Integrative, and Ethical Motives)
Trong bài viết của Garriga và Mele' (2004) xác định bốn nhóm của các lý thuyết
có thể phân loại tất cả các phương pháp tiếp cận CSR. Những lý thuyết này tập trung
vào các mối quan hệ giữa CSR hoặc các vấn đề xã hội và kinh doanh. Bốn phương
pháp tiếp cận lý thuyết đến CSR theo như mô tả của Garriga và Mele' (2004) khác
nhau về niềm tin vào sự giải thích lý do tại sao các doanh nghiệp nên áp dụng CSR,
họ nên làm điều đó bằng cách nào và đến mức độ nào. Bởi vì CER là khía cạnh môi
trường của CSR, bốn lý thuyết trên cũng có thể sử dụng để giải thích động cơ của
CER.
Nhóm đầu tiên của lý thuyết được phân loại như các lý thuyết công cụ và trùng
lặp với các lý thuyết về giác ngộ tự lãi. Sự hài lòng của các bên liên quan, hoặc đóng
góp từ thiện đều có thể, miễn là dẫn đến lợi nhuận, trong dài hay ngắn hạn. Trong
phương pháp tiếp cận đầu tiên đến CSR, Garriga và Mele' (2004) xác định ba loại
của lý thuyết công cụ, đó là tối đa hóa sự giàu có cổ đông, cải thiện hoặc duy trì một
lợi thế cạnh tranh, và sử dụng như một công cụ tiếp thị. Nhóm thứ hai của các lý
thuyết có thể được phân loại như chính trị. Những ý tưởng và lý thuyết đưa ra trong
nhóm này có vẻ là triết lý hơn về vai trò của doanh nghiệp trong xã hội. Một số khái
niệm được thảo luận, như hiến pháp của công ty, thuyết khế ước xã hội và quyền
công dân của doanh nghiệp. Quan điểm chính trị hợp pháp hóa CSR trong một bối
cảnh rộng lớn hơn, triết lý hơn. Cách tiếp cận thứ ba đối với CSR theo Garriga và
Mele' (2004) tập hợp các lý thuyết thống nhất. Đây là lý do chính cho rằng CER là
niềm tin tưởng rằng doanh nghiệp phụ thuộc vào xã hội để tồn tại. Các nhu cầu xã
-7-
H
TÊ
́H
U
Ế
hội đặt trên các doanh nghiệp cần phải được tôn trọng để đạt được tính hợp pháp và
sự tôn trọng, điều này trùng hợp với mức độ đầu tiên của Wood (1991) về CSR, mà
ông gọi là mức độ cơ quan.
Một quan điểm khác về ứng phó với nhu cầu xã hội là ý tưởng về trách nhiệm
công cộng, điều này có thể hình thành một định hướng cho hành vi quản lý (Preston
& Post, 1981). Lý thuyết cuối cùng trong phương pháp thống nhất cố gắng xác định
cách đúng đắn để đạt được tính hợp pháp xã hội. Các lý thuyết chính trị và thống
nhất có điểm tương đồng, nhưng các lý thuyết chính trị là quan tâm đến sức mạnh
kinh doanh trong xã hội, trong khi lý thuyết thống nhất quan tâm đến việc làm thế
nào để thống nhất các nhu cầu xã hội, từ đó tranh luận rằng kinh doanh phụ thuộc
vào xã hội để tồn tại (Garriga & Mele' 2004). Cách tiếp cận thứ tư, theo phân loại
của Garriga và Mele (2004) là tập hợp các lý thuyết đạo đức. Những lý thuyết này có
liên quan với những điều phải làm hoặc các yêu cầu cần thiết để đạt được một xã hội
tốt (Garriga & Mele' 2004). Tất cả các phương pháp tiếp cận đạo đức chia sẻ các ý
tưởng rằng doanh nghiệp phải đóng góp cho một xã hội tốt đẹp và tôn trọng những
việc làm đúng đắn.
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
1.1.2 Khái quát về công khai thông tin trách nhiệm bảo vệ môi trường (CED)
Việc công khai trách nhiệm bảo vệ môi trường của công ty (CED) đã tồn tại
trong hơn một thập kỷ nay, nổi bật là kết quả của sự bùng nổ trong kế toán môi
trường trong năm 1990 (Ahmad, 2010). Thuật ngữ “công khai thông tin về bảo vệ
môi trường”(CED) được trình bày bởi các Ủy ban công tác liên Chính phủ Tổng
công ty xuyên quốc gia, trong Tiêu chuẩn quốc tế về kế toán và báo cáo của Liên
Hợp Quốc (UN ISAR, 1992, 1994); được lựa chọn để giải thích trong nghiên cứu
này. Deegan (2007) định nghĩa rằng báo cáo phát triển bền vững gắn với báo cáo xã
hội và môi trường. Gray cùng các cộng sự (1996) cũng chỉ ra rằng việc chấp nhận
thực hiện các trách nhiệm đối với xã hội và môi trường bởi một tổ chức được thể
hiện thông qua việc công khai trách nhiệm xã hội và môi trường của công ty
(CSED). Mặc dù việc phát hành báo cáo môi trường của công ty (CERs) mang tính
tự nguyện, nhưng đây là một hiện tượng tương đối mới và có xu hướng tăng lên
(Marshall và cộng sự, 2003). Các bên liên quan đều mong đợi các thông tin về cách
thức hoạt động của các tập đoàn ảnh hưởng đến môi trường, cũng là điều dễ hiểu
rằng các bên liên quan sẽ vô cùng thất vọng và tức giận với những gì họ thấy là sự
thiếu minh bạch của công ty và thiếu trách nhiệm. Khái niệm cổ đông di chuyển
trong tính bền vững của công ty bao gồm tăng tính minh bạch, với mong muốn dự
kiến tăng trách nhiệm cho các cổ đông. Bằng chứng cho thấy rằng tính minh bạch
-8-
góp phần cải thiện hiệu suất, đặc biệt khi hàng tồn kho nhiễm chất độc phát hành lần
đầu tiên với danh sách hàng loạt các mức độ khí thải từ các công ty khác nhau
(Delmas, 2001). Mức độ minh bạch càng cao được thực hiện thông qua đối thoại,
thiếu tính minh bạch đôi khi đe dọa đến thoái vốn, thông qua các quyền đặt ra cho
các cổ đông (Stewart, 2005). Như vậy, các nhà quản lý phải có trách nhiệm công
khai tất cả các thông tin cho các bên liên quan, bao gồm cả thông tin về môi trường
(CER).
TÊ
́H
U
Ế
Các lý thuyết giải thích việc công khai trách nhiệm bảo vệ môi trường của
doanh nghiệp
Các nghiên cứu của Gunawan (2007) tập trung vào hai giả thuyết đáng chú ý để
phân tích mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSRD):
tính hợp pháp và lý thuyết các bên liên quan.
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
Các bên liên quan đến CSR (CER)
Các bên liên quan là trọng tâm của lý thuyết này. Các bên liên quan bao gồm
một phạm vi rộng của những người và các nhóm lợi ích tác động đến tổ chức (Price,
2004). Các bên liên quan là'' bất kỳ cá nhân hay nhóm người có thể ảnh hưởng hoặc
bị ảnh hưởng bởi khả năng đạt mục tiêu của tổ chức '' (Freeman, 1984). Ngoài các cổ
đông, các bên liên quan bao gồm chủ nợ, nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, và
các cộng đồng nói chung. Lý thuyết các bên liên quan giải thích rằng có nhiều hơn
một mối quan hệ giữa các đại lý, người có trách nhiệm ủy thác cho một giám đốc
(Lantos, 2001). Những nhiệm vụ tồn tại bởi vì, như các cổ đông, các bên liên quan
khác cũng đầu tư vào các doanh nghiệp: nhân viên đầu tư thời gian và vốn tri thức,
khách hàng đặt niềm tin vào doanh nghiệp và quá trình kinh doanh tiếp tục tái diễn,
cộng đồng cung cấp cơ sở hạ tầng và giáo dục cho người lao động trong tương lai
cũng như hỗ trợ về thuế, và cứ tiếp tục như vậy '' (Graves, và cộng sự, 2001). Nói
cách khác, chúng ta cần phải đi xa hơn tối đa hóa lợi nhuận để ủy thác, hoặc khái
niệm các bên liên quan, được giải thích là cấp quản lý nhìn thấy được trách nhiệm để
đạt được sự cân bằng giữa lợi ích của tất cả các bên liên quan (Goodpaster, 1996),
đặc biệt là trong việc tránh tổn hại cho bất kỳ nhóm hoặc hạn chế bất kỳ thương tích
gây ra. Do đó, nhà quản lý không nên chỉ xem xét các cổ đông của mình trong quá
trình ra quyết định, mà còn quan tâm đến những bên liên quan bị ảnh hưởng bởi
quyết định kinh doanh. Ngược lại với quan điểm cổ điển, quan điểm các bên liên
quan cho rằng '' mục tiêu của bất kỳ công ty là sự làm giàu công ty và tất cả các bên
liên quan chính của mình. '' (Werhane & Freeman, 1999).
-9-
Theo lý thuyết của Freeman, các bên liên quan được chia thành hai nhóm: các
bên liên quan trong và ngoài doanh nghiệp. Công ty có trách nhiệm với các bên liên
quan trong và ngoài doanh nghiệp và những trách nhiệm này có thể bị chia thành
trách nhiệm kinh tế, pháp lý và đạo đức trong cách tiếp cận của Carroll (Carroll
1979, 1991, 2004). Điều này sẽ dẫn đến một cái nhìn tổng quan về các loại bên liên
quan và trách nhiệm tương ứng (Cochius, 2006), được tóm tắt trong Bảng 1.
Bảng 1: Các bên liên quan đến CER
Ế
U
́H
External
Type of responsibility
Economic
Economic, legal, and ethical
Economic and legal
Economic, legal, and ethical
Economic and ethical
Economic, legal, and ethical
Legal and ethical
Economic, legal, and ethical
Financiers
Consumers
Suppliers
Employees
Community
Government
Environment
Non-Governmental
Organizations
Critics
Media
TÊ
Stakeholder
Internal
Economic, legal, and ethical
Economic, legal, and ethical
H
Sources: Carroll (Carroll 1979, 1991, 2004), Freeman (2003) and Cochius (2006) cited in Chen (2009)
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
Lý thuyết tính hợp pháp
Tính hợp pháp được định nghĩa là "một nhận thức khái quát hoặc giả định rằng
các hành động của một thực thể là mong muốn, thích hợp, hoặc phù hợp trong một
số hệ thống xây dựng xã hội của các chỉ tiêu, các giá trị, niềm tin, và định nghĩa"
(Schuman, 1995, p.574 trích dẫn trong Tilling, 2004). Lý thuyết tính hợp pháp đã
được sử dụng bởi một số nhà nghiên cứu như là một khung phân tích chính sách
công bố thông tin của công ty.2 Deegan, và cộng sự, (2002) chỉ ra rằng các tổ chức
cần phải thích ứng với sự mong đợi của cộng đồng nếu họ muốn thành công. Ngược
lại, các tổ chức sẽ bị phạt nếu họ không hoạt động một cách phù hợp với mong đợi
của cộng đồng. Guthrie và Parker (1990) áp dụng lý thuyết tính hợp pháp để phân
tích chính sách công bố thông tin của các công ty tại Úc trong những năm 1970. Họ
kết luận rằng mức độ đỉnh cao của việc công bố thông tin xã hội lúc đó là khi ngành
khai thác khoáng sản, thép và các ngành công nghiệp dầu mỏ đã trở thành mục tiêu
cho các nhà bảo tồn. Những kết quả này cho thấy lý thuyết tính hợp pháp như là một
cơ sở cho việc thực hành CSD, đáp ứng những áp lực về môi trường.
1.2 Các chủ đề về công khai thông tin TNBVMT
2
(Brown & Deegan, 1998; Deegan & Gordon, 1996; Guthrie & Parker, 1990; O'Donovan, 2002; Wilmshurst & Frost, 2000).
- 10 -
Nghiên cứu này áp dụng bốn chủ đề về đo lường mức độ công khai thông tin. Đa
số các chủ đề này đã được trích dẫn và phù hợp với các nghiên cứu trước đây về
CED, cụ thể là môi trường, năng lượng, sản phẩm, phát triển bền vững. 3 Mỗi chủ đề
lại có một hoặc một vài mục chi tiết. Tổng cộng, có 21 mục chi tiết được sử dụng để
đo lường mức độ công khai thông tin về trách nhiệm bảo vệ môi trường (CED) thông
qua phương pháp phân tích nội dung (Content analysis).
Ế
1.2.1 Môi trường
Nghiên cứu này áp dụng chủ đề về môi trường bởi Gunawan (2007) gồm ba
hạng mục chính như ô nhiễm môi trường, thẩm mỹ, và các vấn đề khác.
IN
H
TÊ
́H
U
1.2.2 Năng lượng
Năng lượng là một trong những tài nguyên thiên nhiên vô cùng quan trọng.
Ngoài ra, 'năng lượng' không tái tạo đang trở thành một vấn đề nóng bỏng do việc
khai thác cạn kiệt của các hóa thạch liên quan đến năng lượng toàn cầu. Nếu các
công ty tiếp tục khai thác năng lượng không tái tạo, môi trường cũng có thể sẽ bị tổn
hại. Do đó, thông tin về tầm quan trọng của việc bảo tồn năng lượng có thể là một
chiến dịch tốt nâng cao nhận thức về năng lượng và cho thấy trách nhiệm của công
ty đối với môi trường.
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
1.2.3 Sản phẩm
Một quá trình nghiên cứu về môi trường phải bao gồm đầy đủ chu kỳ sống của
sản phẩm như cung ứng, sản xuất, sử dụng và xử lý chất thải. Một phần trong việc
phân tích chiến lược môi trường của một công ty là đánh giá các nhà cung cấp các
sản phẩm và tác động của sản phẩm đối với môi trường (Enarsson, 1998). Vì vậy,
mối quan tâm hàng đầu của công chúng là liệu việc tiêu thụ sản phẩm là an toàn và
không gây hại cho môi trường hay không. Qua thông tin về sản phẩm, một công ty
có thể cung cấp hình ảnh của mình tới công chúng để họ có thể đánh giá những tác
động của các sản phẩm công ty tới môi trường. Chất lượng sản phẩm, an toàn và quá
trình phát triển sản phẩm cung cấp một cơ sở về lợi thế kinh doanh của công ty và
bất kỳ cải thiện về chất lượng và an toàn sản phẩm có thể dẫn đến những tác động
tích cực đến môi trường (Dunk, 2002).
1.2.4 Tính bền vững
Vấn đề 'bền vững' đã tăng lên rất nhiều trong những năm gần đây. Tính bền vững
được định nghĩa là "đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng của
3
(Deegan, et al., 2002; Kuasirikun & Sherer, 2004; Purushothaman, et al., 2000; Raar, 2002; Ratanajongkol, et al., 2006; Thompson &
Zakaria, 2004; Wilmshurst & Frost, 2000 cited in Gunawan, et al. 2009)
- 11 -
các thế hệ tương lai trong khi đáp ứng nhu cầu riêng của công ty" (Ủy ban Liên Hợp
Quốc về Môi trường và Phát triển, 1987, trg. 8). Để cho một công ty có thể duy trì
danh tiếng và nhu cầu của các bên liên quan, công ty phải bao gồm các thông tin bền
vững về các hoạt động kinh doanh của mình khi công bố thông tin.
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
U
Ế
1.3 Nội dung và bản chất của CED
Các nội dung của CED khác nhau giữa các quốc gia (Djajadikerta, và cộng sự,
2012). Các công ty ở châu Âu và Úc có nhiều khả năng công khai thông tin về môi
trường, năng lượng, quá trình tái chế, và ô nhiễm (Gray, và cộng sự, 1995;.. Tilt,
năm 2001, và Deegan, et al, 2002). Các công ty ở châu Á đã tập trung vào các thông
tin về nhân viên và nguồn nhân lực trong việc tiết lộ các hoạt động xã hội của họ.4
Djajadikerta, et. al. (2012) và Gunawan (2007) nhấn mạnh rằng mặc dù nội dung
của công khai thông tin TNMT thường là khác nhau giữa các quốc gia, bản chất của
thông tin này cũng tương tự như trên toàn thế giới, trong một bản chất trung lập, tích
cực, và mô tả hơn là một thông tin tiêu cực hoặc mang tính định lượng. Công khai
thông tin tích cực bao gồm thông tin về việc tuân thủ các tiêu chuẩn và các giải
thưởng nhận được (Deegan & Gordon, 1996; Tilt, 2001); trong khi công khai thông
tin tiêu cực bao gồm các thông tin về hình phạt cũng như "tin xấu" khác về môi
trường (Deegan, et al., 2002). Các thông tin khác, chẳng hạn như đào tạo cho nhân
viên, kiểm soát ô nhiễm, phát triển sản phẩm, chiến dịch môi trường và tái chế, được
coi là thuyết trung lập (Ahmad & Sulaiman, 2004).
Các nghiên cứu trước lưu ý rằng hầu hết các công ty có xu hướng chủ yếu sử
dụng mô tả, tường thuật, hoặc các thông tin định tính để báo cáo TNMT (Gunawan,
2007). Những loại thông tin này chiếm đa số trong báo cáo TNMT của công ty hơn
là thông tin định lượng, hình ảnh, đồ thị và biểu đồ.5 Trong thực tế, các thông tin
định tính và tiền tệ, ở một mức độ nhất định, có thể được sử dụng để đánh giá tính
khả thi. Đồ thị và biểu đồ có thể được sử dụng để biến số thành hình ảnh đại diện và
việc so sánh giúp người đọc hiểu được thông tin một cách dễ dàng hơn (Burch,
1986). Như vậy, việc tiết lộ thông tin trong các hoạt động xã hội và môi trường của
công ty cả hai cách mô tả và định lượng, sử dụng đồ thị hoặc biểu đồ, có thể cung
cấp một báo cáo toàn diện hơn cho các độc giả.
1.4 Cơ sở thực tiễn
1.4.1 Thực trạng về việc công bố thông tin bảo vệ môi trường của các công ty
niêm yết trên thế giới và các nước trong khu vực
4
5
(Kuasirikun & Sherer, 2004; Purushothaman, et al, 2000; Ramasamy & Hung, 2004; Ratanajongkol, et al., 2006)
(Guthrie & Parker, 1990; Tilt, 2001; Belal, 2001; Raar, 2002; Ahmad & Sulaiman, 2004; Kuasirikun & Sherer, 2004)
- 12 -
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
U
Ế
Deegan (2007) và Gamerschlag cùng cộng sự (2010) định nghĩa việc báo cáo
tình hình thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường (Corporate Environmental
reporting - CER) là một khía cạnh của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (Corporate
social responsibility - CSR), và được biết như báo cáo việc phát triển bền vững của
doanh nghiệp.
Nghiên cứu ở các nước phát triển cho thấy rằng, do ý thức bảo vệ môi trường
của doanh nghiệp khá cao, đa số các công ty niêm yết tự nguyện báo cáo tình hình
thực hiện TNBVMT vì vậy sự can thiệp của chính phủ tương đối thấp. Friedman
(1962) cho rằng vì lợi thế cạnh tranh đã thúc đẩy các công ty báo cáo TNBVMT,
trong khi đó Deegan &Carrol (1993) nhận định vì danh tiếng của công ty; Hasnas
(1998) tranh luận rằng chính ý thức chịu trách nhiệm là nguyên nhân để công ty tự
nguyện công khai thông tin về hoạt động vì môi trường. Deegan và những cộng sự
(2000) nghiên cứu phản ứng của các công ty tại Úc đối với năm sự cố về xã hội và
môi trường. Các công ty được chọn mẫu đã cung cấp nhiều thông tin về môi trường
trong báo cáo thường niên hơn trước khi xảy ra sự cố. Nghiên cứu của Deegan &
Blomquist (2001) chỉ ra rằng để giảm áp lực của việc gia tăng thêm quy định đối với
doanh nghiệp, các công ty tự ký và thỏa thuận với nhau về hành vi đạo đức riêng khi
tự nguyện công bố thông tin về môi trường. Deegan (2008) tuyên bố rằng việc báo
cáo TNBVMT là một công cụ để công ty thu hút các nhóm cổ đông. Theo nghiên
cứu của Reverte (2008), lý thuyết tính hợp pháp (Legitimacy theory) là giải thích
phù hợp nhất cho việc lập báo cáo trách nhiệm xã hội và môi trường tại các công ty
niêm yết Tây Ban Nha. Trong khi đó, việc công bố thông tin trách nhiệm môi trường
của các công ty niêm yết ở Đức chịu chi phối bởi tầm nhìn của doanh nghiệp, cơ cấu
cổ đông, quan hệ với các cổ đông ở Mỹ, quy mô doanh nghiệp và ngành
(Gamerschlag và cộng sự, 2010). Nghiên cứu của Gamerschlag (2011) ở Đức dùng
thuyết chi phí chính trị (Political cost theory) và Campbell (2007) dùng thuyết định
chế (Institutional theory) ở Anh để giải thích cho việc công khai thông tin TNMT.
Nghiên cứu gần đây của Dobbs & Van Staden (2011) khẳng định rằng chính sự quan
tâm đến cộng đồng là nguyên nhân chính để 122 công ty niêm yết được chọn tại
NewZealand quyết định công khai báo cáo TNBVMT. Những nghiên cứu của
Mohammad và cộng sự (2009) & Gao (2011) chỉ ra rằng do đặc tính riêng của mỗi
nước dẫn đến việc công khai hoạt động vì môi trường của doanh nghiệp là khác
nhau.
Trái lại, việc lập báo cáo TNBVMT tại các nước đang phát triển vẫn còn thấp so
với các nước phát triển. Điển hình là Trung Quốc, nước đang phát triển với tốc độ
cao nhất, do đặc điểm văn hóa, chính trị và hệ thống kinh tế nhà nước, ý thức bảo vệ
- 13 -
môi trường còn thấp vì thế việc lập báo cáo TNBVMT còn chịu nhiều ảnh hưởng của
chính phủ (Song & Li, 1992; Zhang, 1993; Xiao & Mi, 2004; Guo, 2005; Situ & Tilt,
2012). Nghiên cứu ở Indonexia bởi Djajadikerta (2012) cũng cho thấy do doanh
nghiệp thiếu hiểu biết về trách nhiệm môi trường, việc báo cáo thông tin TNBVMT
mang tính sơ khai, không có khung thời gian quy định cụ thể. Nghiên cứu ở
Malaysia bởi Htay và cộng sự (2012) khẳng định cơ chế quản lý doanh nghiệp ảnh
hưởng đến việc công bố thông tin TNBVMT.
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
U
Ế
1.4.2 Thực trạng về việc công khai thông tin bảo vệ môi trường của các công
ty niêm yết tại Việt Nam
Nghiên cứu về TNXH của doanh nghiệp ở Việt Nam còn chưa được quan tâm.
Cho đến nay có một luận án tiến sỹ có đề cập đến vấn đề này. Luận án tiến sỹ của
Vũ (2012) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc công bố thông tin tự nguyện,
tuy nhiên nghiên cứu này chỉ tập trung chủ yếu vào việc công bố các thông tin về chế
độ quản trị doanh nghiệp (Corporate Governance disclosure) của các công ty niêm
yết Việt Nam năm 2009. Mặc khác, thị trường chứng khoán Việt Nam luôn biến
động, số công ty niêm yết mới tăng lên hàng năm đóng vai trò quan trọng trong toàn
thị trường. Vì vậy, đề tài này tập trung nghiên cứu về công khai thông tin TNBVMT
trong giai đoạn 2012-2014, từ sau khủng hoảng kinh tế Việt Nam 2011.
Chương 2: Đánh giá mức độ công khai thông tin trách nhiệm bảo vệ
môi trường của các Công ty niêm yết tại Việt Nam
2.1 Kỹ thuật phân tích nội dung
Kỹ thuật phân tích nội dung được sử dụng trong nghiên cứu này và được xác
định bởi Krippendorff (1980, p. 21) là "một kỹ thuật nghiên cứu để làm tái tạo và
suy luận có giá trị từ dữ liệu đến bối cảnh của công ty”. Kỹ thuật “phân tích nội
dung” đã được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu trước đó để đo lường CED
(Unerman, 2000) và bởi vì nó cho phép CED được phân loại một cách có hệ thống
- 14 -
TÊ
́H
U
Ế
và có thể so sánh giữa các năm, đây cũng là kỹ thuật hữu ích cho việc xác định xu
hướng (Milne & Adler, 1999), được thực hiện để phân tích báo cáo thường niên và
các trang web công ty, để đo lường mức độ công khai thông tin TNBVMT tại các
công ty niêm yết.
Wolfe (1991) định nghĩa phân tích nội dung như quy trình có hệ thống để nghiên
cứu nội dung của các văn bản. Việc áp dụng kỹ thuật này được thực hiện bằng cách
chuyển đổi các thông tin định tính trong các báo cáo thường niên và các trang web
thành biến định lượng. Một số vấn đề xung quanh tính hiệu lực của kỹ thuật phân
tích nội dung có thể xuất hiện bởi vì kỹ thuật mã hóa này vẫn được coi là chủ quan
(Gunawan, 2007). Tuy nhiên, các phương pháp phân tích nội dung đã được sử dụng
rộng rãi và được coi như là một phương pháp thích hợp để phân tích mức độ của việc
công bố thông tin, đó là liên kết với các vấn đề về độ tin cậy và tính hợp lệ (Guthrie
& Parker, 1990; Choi, 1999; Tilt, 2001; Raar, 2002; Ahmad & Sulaiman, 2004).
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
2.1.1 Hướng dẫn việc xác định các khoản mục
Để giảm bớt tính chủ quan trong nghiên cứu này, một tập hợp các nguyên tắc chi
phối các thủ tục phân tích nội dung đã được thành lập để đạt được độ tin cậy và có
hệ thống (Gunawan, 2007). Áp dụng một tập hợp các mục phân tích CSD bởi
Gunawan (2007), sau khi thực hiện một cuộc phỏng vấn sâu 2 chuyên gia trong lĩnh
vực kế toán kiểm toán đến từ Công ty kiểm toán Deloitte- Việt Nam và KPMG Việt
Nam- hai trong 4 công ty kiểm toán hàng đầu thế giới; 2 chuyên gia đến từ Trung
tâm nghiên cứu và phát triển xã hội Việt Nam (CSRD), 21 mục CED được coi là
toàn diện và thích hợp để đánh giá mức độ công khai thông tin TNBVMT tại các
công ty niêm yết trong bối cảnh Việt Nam.
2.1.2 Hướng dẫn thực hiện phân tích nội dung
Thủ tục phân tích nội dung đã được thực hiện thông qua các bước sau
(Krippendorff, 1980):
• Đọc các văn bản trong các báo cáo thường niên và các trang web của công ty
niêm yết
• Xác định các câu có mối quan hệ với các từ khóa trong của các mục CED
• Giải thích và chọn các mục thích hợp để đánh giá CED
• Cho điểm cả về số lượng và chất lượng
• Bỏ qua tất cả các thông tin không liên quan đến CED
- 15 -
• Đưa ra các suy luận
Sau khi quá trình chấm điểm được hoàn thành, điểm số trong mỗi chủ đề đã
được tính toán, tất cả những điểm số này sau đó đã được cộng vào để có được tổng
số điểm công khai thông tin TNBVMT tại công ty niêm yết. Tổng số điểm thông báo
cho độc giả về thực tiễn công khai thông tin TNBVMT thực hiện bởi các công ty
niêm yết Việt Nam.
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
U
Ế
2.1.3 Hướng dẫn cho điểm
Điểm số cho các mục nằm trong khoảng từ số không đến bảy và được thực hiện
theo các hướng dẫn sau đây:
• Điểm 'Không' cho không công bố thông tin.
• Điểm ‘một’ cho thông tin về tiền tệ. Thông tin tiền tệ có thể được mô tả như là
một mục định lượng về tiền tệ. Bất kỳ thông tin về tiền tệ được công bố mà không
kèm mô tả khác được cho điểm một.
• Điểm ‘hai’ cho thông tin phi tiền tệ. Thông tin không phải về tiền, chẳng hạn
như về trọng số, khối lượng, kích thước được cho điểm hai.
• Điểm ‘ba’ cho thông tin định tính. Mô tả, tường thuật, hoặc các thông tin định
tính về CED được cho điểm ‘ba’, thông tin này là tương đối dễ dàng để xác định.
• Điểm 'bốn' cho thông tin có sự kết hợp giữa thông tin về tiền tệ và định tính.
• Điểm 'năm' cho thông tin có sự kết hợp giữa thông tin phi tiền tệ và định tính
• Điểm 'sáu' cho thông tin bao gồm cả về tiền tệ và phi tiền tệ.
• Điểm 'bảy' cho thông tin bao gồm cả về tiền tệ và phi tiền tệ, thông tin định
tính
Điểm số cao nhất có thể để đo lường mức độ công bố thông tin là "bảy", đây là
mức điểm thể hiện tính chất toàn diện nhất về công khai thông tin kết hợp khía cạnh
chất lượng, tiền tệ, và phi tiền tệ. Điểm số tối đa có thể đạt được ở mỗi công ty là
147, bằng cách nhân số điểm tối đa cho mỗi lần đo (7) với tổng số các mục CED
(21).
2.2 Kết quả nghiên cứu và những đánh giá
2.2.1 Điểm số công bố thông tin TNBVMT và thống kê mô tả
Một phân tích mô tả được thực hiện để quan sát điểm số trung bình của CED cho
các năm 2012 đến năm 2014. Xem xét rằng điểm số tối đa có thể cho 21 mục công
bố thông tin là 147, tổng số điểm trung bình của VLF dao động giữa 15 và 16 trong
thời gian ba năm. So sánh với kết quả nghiên cứu tại Malaysia, Indonesia, Singapore,
Ấn Độ, mức độ công khai thông tin TNBVMT của VLF từ năm 2012 đến năm 2014
- 16 -
là tương đối thấp. Rõ ràng là việc thực hiện công bố thông tin TNBVMT tại các
công ty niêm yết Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn sơ khai.
Ế
Bảng 2: Thống kê mô tả về CED của công ty niêm yết Việt Nam
2012
2013
2014
16.3987
16.0633
15.5696
Mean Score
1.15124E1
1.21071E1 1.25131E1
Standard
Deviation.
Total sample = 158 companies each year
IN
H
TÊ
́H
U
Mặc dù có một sự giảm nhẹ về công khai thông tin TNBVMT trong năm 2014,
Bảng 2 cho thấy rằng điểm số trung bình CED tại VLF là tương đối giống nhau trong
suốt ba năm. Một kiểm định đã được tiến hành để kiểm tra liệu có những thay đổi
đáng kể hay không về CED qua ba năm. Kiểm định Kolmogorov-Smirnov bước đầu
đã được áp dụng để kiểm tra độ chuẩn của phân phối dữ liệu. Kết quả chỉ ra rằng
phần lớn điểm CED từ 2012 đến 2014 không phải là phân phối chuẩn do p-value =
0.00 (giá trị p <0,05). Vì lý do này, một kiểm định phi tham số thích hợp KruskalWallis đã được thực hiện trên các dữ liệu thô. Kết quả cho thấy sự tương đồng giữa
ba năm khi (p-value = 0,730> 0,05), giả thuyết Ho đã được chấp nhận.
K
Bảng 3: Kiểm định Kruskal-Wallis
.631
Asymp.Sig
.730
O
̣C
Chi-Square
̣I H
Test variable list: CED score
Đ
A
Grouping Variable: Year
Trong các nghiên cứu trước đây, ngành công nghiệp cùng với quy mô là biến
phổ biến nhất để giải thích nội dung và mức độ của công khai thông tin TNBVMT.6
Reverte (2009) chỉ ra rằng theo thống kê các công ty có quy mô càng lớn, và trong
nhóm ngành công nghiệp nhạy cảm, điểm công khai thông tin TNBVMT càng cao,
khi so sánh với các doanh nghiệp có xếp hạng điểm công khai thông tin TNBVMT
thấp. Ngành công nghiệp và quy mô doanh nghiệp có tác động tích cực và đáng kể
đến CSRD (Gamerschlag, 2011; Zali, 2013). Những giả thuyết này sẽ được thử
nghiệm với các dữ liệu của VLF qua kiểm định Kruskal-Wallis, Mann-Whitney.
Để so sánh điểm trung bình của CED trong hai nhóm, bao gồm ngành công
nghiệp nhạy cảm và không nhạy cảm, một kiểm định phi tham số tương tự như kiểm
6
Adams et al., 1998; Cowen et al., 1987 ; Clarke et al., 1999; Jenkins et al., 2006; Line et al., 2002; Ness et al., 1991; Bowen, 2000;
Hoffman, 1999; Morris, 1997.
- 17 -
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
U
Ế
định t-test có tên là kiểm định Mann-Whitney đã được thực hiện. Các giả thuyết twotailed được phân tích với Mann-Whitney U test như sau:
Ho: CED của hai nhóm, bao gồm cả ngành công nghiệp nhạy cảm và không
nhạy cảm, giống hệt nhau
H1: CED của hai nhóm, bao gồm cả ngành công nghiệp nhạy cảm và không
nhạy cảm, không giống nhau
Như đã giải thích ở trên, biến phụ thuộc - CED- không phải là phân phối chuẩn,
Mann-Whitney U test là kiểm định thích hợp để so sánh điểm trung bình. Mục đích
của kiểm định là để kiểm tra sự khác biệt của CED do ảnh hưởng bởi biến độc lập –
ngành công nghiệp.
Đ
A
̣I H
Bảng 4: Kết quả điểm CED phân chia theo ngành công nghiệp qua 3 năm
(2012-2014)
CED
Industry
N
Mean
Sum
of
Rank
Ranks
CED.Y1 Non-sensitive
15
29.00
435.00
Industry
Sensitive Industry
143
84.80
12126.00
Total
158
15
32.50
487.50
CED.Y2 Non-sensitive
Industry
Sensitive Industry
143
84.43
12073.50
Total
158
15
43.53
653.00
CED.Y3 Non-sensitive
Industry
Sensitive Industry
143
83.27
11908.00
Total
158
- 18 -
Bảng 5: Kết quả kiểm định Mann-Whitney U test- a
CED.Y1 CED.Y2 CED.Y3
315.000
367.500
533.000
Mann-Whitney U
435.000
487.500
653.000
Wilcoxon W
-4.512
-4.196
-3.214
Z
.000
.000
.001
Asymp. Sig. (2-tailed)
a
Grouping Variable: Industry
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
U
Ế
Do kết quả P-value gần bằng 0, (P <0,05) nên Ho đã bị từ chối, điều này cho
thấy một sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê giữa hai nhóm ngành công nghiệp có
thể được chấp nhận (H1 được chấp nhận). Kết quả từ Bảng 4, các doanh nghiệp
trong ngành công nghiệp nhạy cảm có điểm CED trung bình cao hơn các doanh
nghiệp trong ngành công nghiệp không nhạy cảm qua ba năm. Mann-Whitney U test
so sánh giá trị trung bình của một biến độc lập và biến phụ thuộc giả định rằng sự
khác biệt về giá trị trung bình của biến phụ thuộc - CED - gây ra bởi các biến độc lập
- ngành công nghiệp. Do đó, ngành công nghiệp chia mẫu thành hai nhóm, nhạy cảm
và không nhạy cảm cũng được xem là một nhân tố ảnh hưởng. (Chomvilailuk, et al,
2010).
Tiếp theo, các kiểm định Kruskal-Wallis đã tiến hành để kiểm tra xem có sự
khác nhau hay không về CED trung bình giữa ba nhóm quy mô. Như đã đề cập ở
trên, kiểm định này là thích hợp để sử dụng trong các trường hợp có hơn ba hay
nhiều nhóm khác nhau để so sánh; đồng thời các dữ liệu cũng không đáp ứng các
yêu cầu của một kiểm định tham số.
Ho: CED của ba nhóm bao gồm cả quy mô nhỏ, trung bình, lớn là giống nhau
Đ
A
H1: CED của ba nhóm bao gồm cả quy mô nhỏ, trung bình, lớn là không giống
nhau
Bảng 6: Kết quả giá trị trung bình CED phân chia theo quy mô doanh
nghiệp qua 3 năm (2012-2014)
Mean
Size
N
Rank
25
30.02
CED.Y1 Small
Medium
17
84.50
Large
116
89.43
Total
158
25
34.66
CED.Y2 Small
Medium
17
83.68
Large
116
88.55
- 19 -
Total
CED.Y3 Small
Medium
Large
Total
158
25
17
116
158
43.58
88.53
85.92
U
a. Grouping Variable: Size
Ế
Bảng 7: Kết quả Kiểm định Kruskal-Wallis dành cho biến Quy mô DN
CED.Y1 CED.Y2 CED.Y3
35.191
28.883
18.517
Chi-Square
2
2
2
df
.000
.000
.000
Asymp. Sig.
H
TÊ
́H
Do kết quả với P-value nhỏ gần bằng không (P <0,05), vì vậy Ho đã bị từ chối,
H1 được chấp nhận, điều này cho thấy đã có một sự khác biệt về CED giữa ba nhóm
quy mô. Một kiểm định Kruskal-Wallis chứng tỏ rằng đã có một mối quan hệ đáng
kể giữa quy mô doanh nghiệp và CED qua ba năm.
IN
2.2.2 Nội dung công bố thông tin TNBVMT và phân tích nội dung theo các
chủ đề
O
̣C
K
Các giá trị trung bình CED của mỗi chủ đề đã được tính toán bằng cách sử dụng
thông kê mô tả, kết quả được trình bày tóm tắt trong Bảng 8.
Đ
A
̣I H
Bảng 8: Thống kê mô tả về CED theo khoản mục tại VLF 2012-2014
Themes
2012
2013
2014
Sum Mean Std. Sum Mean Std. Sum Mean Std.
1093 6.917 7.780 1074 6.797 7.986 1056 6.684 8.193
Môi trường
187 1.184 2.179 176 1.113 2.156 180 1.139 2.193
Năng lượng
1048 6.632 3.851 1024 6.481 3.935 968 6.127 4.100
Sản phẩm
Tính bền vững
263
1.66 1.474 264
1.67 1.469 256
1.62 1.470
2.2.2.1 Môi trường
Mặc dù giá trị trung bình CED là thấp nhưng so với ba chủ đề còn lại, thông tin
về 'Môi trường' đã được công khai nhiều nhất trong các báo cáo hàng năm của công
ty và các trang web trong thời gian ba năm nghiên cứu. Tuy nhiên, xem xét rằng
điểm số tối đa có thể cho chủ đề "Môi trường" là 91, thực tế giá trị trung bình cho
chủ đề này dao động giữa 6.6 và 6.9 trong thời gian ba năm. Điều này cho thấy
lượng thông tin về 'môi trường' được công khai tương đối thấp trong báo cáo và các
- 20 -
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
U
Ế
trang web hàng năm của VLF từ năm 2012 đến năm 2014. Một số công ty có xu
hướng đề cập đến một câu rất chung như “Công ty tuân thủ quy định của pháp luật
về môi trường và có sử dụng hiệu quả nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất”
nhưng không chi tiết cụ thể sử dụng như thế nào. Những thông tin rất ít được công
khai là: việc kiểm soát ô nhiễm môi trường do công ty gây ra, thiết kế cơ sở thân
thiện với môi trường. Các công ty rõ ràng không nhận thức được sự cần thiết phải
công khai thông tin như tiến hành nghiên cứu về môi trường để giám sát những tác
động của công ty đối với môi trường hay đào tạo nhân viên về các vấn đề môi trường
hay giảm ô nhiễm hoặc ngăn ngừa thiệt hại đối với môi trường. Đặc biệt, công ty
không hề tiết lộ về 'nhận hình phạt' như là một kết quả của hành vi vi phạm môi
trường, mặc dù trong thực tế, một số công ty đã nhận hình phạt. Điểm chú ý nữa, các
công ty sản xuất hóa chất, thực phẩm và đồ uống, giấy và các sản phẩm tương tự;
khai thác mỏ, nông nghiệp, công khai nhiều thông tin về môi trường hơn so với các
ngành khác, chứng tỏ rằng ngành công nghiệp có ảnh hưởng đến sự khác biệt về
mức độ công khai thông tin TNBVMT tại Việt Nam. Giả thuyết này đã được kiểm
định với các dữ liệu của VLF qua kiểm định Mann-Whitney ở trên.
Báo cáo về môi trường đã được xác định là một hình thức khác của công khai
các hoạt động về môi trường của doanh nghiệp. Mặc dù mức độ công khai thông tin
TNBVMT tại Việt Nam là thấp, các công ty có quy mô lớn hơn có xu hướng cung
cấp báo cáo về môi trường toàn diện hơn những công ty với quy mô nhỏ hơn. Điều
này cho thấy quy mô doanh nghiệp có khả năng ảnh hưởng đáng kể đến mức độ
công khai thông tin môi trường qua hơn ba năm, và đã được kiểm định qua KruskalWallis test trên.
Giá trị Variance cao cho thấy rằng điểm CED dao động rộng giữa giá trị nhiều
nhất và ít nhất, chứng tỏ rằng một số công ty công khai nhiều thông tin về môi
trường, trong khi những công ty khác là thấp hơn rất nhiều. Điều này cũng phản ánh
sự thiếu tiêu chuẩn hoặc quy định thống nhất về công khai thông tin TNBVMT trong
báo cáo hàng năm của công ty và các trang web. Gray, et al. (1996) giải thích rằng
bởi vì việc công khai thông tin TNBVMT vẫn mang tính tự nguyện, nên vấn đề đạo
đức và trách nhiệm của công ty đóng một vai trò quan trọng, và điều này cũng cho
thấy việc thực hiện công khai thông tin TNBVMT khác nhau giữa các công ty. Ngay
cả ở Úc, một đất nước phát triển, báo cáo xã hội và môi trường vẫn là tự nguyện
(Deegan & Gordon, 1996 được trích dẫn trong Kathyayini., Et al. 2012), động lực để
tiết lộ thông tin này được cho là ít có khả năng nếu thiếu những quy định của pháp
luật, hoặc nếu bản thân công ty chưa xác định được lợi ích.
2.2.2.2
Sản phẩm
- 21 -
Chủ đề được công khai thứ hai là 'sản phẩm' tiếp đến là 'bền vững'. Thông tin
'Sản phẩm' được dễ dàng xác định trong báo cáo thường niên. Một bản tóm tắt chi
tiết về các mục của sản phẩm được trình bày trong bảng 9.
Ế
Bảng 9: Thông kê mô tả yếu tố sản phẩm của VLF 2012-2014
Items
2012
2013
2014
Sum Mean Std. Sum Mean Std. Sum Mean Std.
2.31 1.306
356
2.25 1.340
341
2.16 1.337
PT sản phẩm 365
326
2.06 1.422
318
2.01 1.437
298
1.89 1.484
Tính an toàn
Chất lượng SP 357
2.26 1.307
350
2.22 1.403
329
2.08 1.400
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
U
Mặc dù thông tin về sản phẩm được công bố bởi VLF là không đủ cho ba mục,
hầu hết các công ty giới thiệu sản phẩm trên các báo cáo thường niên và các trang
web. Tương tự như các nghiên cứu của Gunawan (2007) tại Indonesia, "Tính an toàn
của sản phẩm" dường như được bỏ qua khi so sánh với thông tin khác của sản phẩm,
chẳng hạn như "phát triển sản phẩm" và "chất lượng sản phẩm, trong khi đây là
thông tin được mong đợi nhất của các bên liên quan. Các thuyết minh về an toàn của
sản phẩm này chỉ được cung cấp bởi các công ty trong ngành công nghiệp thực phẩm
và dược phẩm khi họ có nghĩa vụ phải tuân thủ các quy định an toàn sản phẩm. Đây
có thể là lý do tại sao các công ty không tham gia vào sản xuất thực phẩm hoặc dược
phẩm có xu hướng không tiết lộ thông tin này. Một lý do khác là, có lẽ, đó là bản
chất của ngành công nghiệp đã không liên quan nhiều với các vấn đề về an toàn sản
phẩm, ví dụ, các công ty trong ngành công nghiệp dịch vụ. Các ví dụ khác về công
khai thông tin 'sản phẩm' được gắn liền với việc đóng gói sản phẩm mới, lượng chi
phí hoặc tỷ lệ phần trăm của chi phí nghiên cứu và phát triển để cải thiện sản phẩm
hiện có, và việc giới thiệu các sản phẩm mới. Thông tin về các thành tựu và bảo trì
theo các tiêu chuẩn ISO 9001 (2008), chứng nhận về quản lý chất lượng TQM (Total
Quality Management) cũng đã chiếm ưu thế, cho thấy rằng các công ty đã đáp ứng
các yêu cầu về chất lượng sản phẩm.
2.2.2.3
Tính bền vững
Bảng 10: Thống kê mô tả về tính bền vững công bố bởi VLF 2012-2014
Items
Tính bền vững
2012
Mean
Std.
1.66
1.474
2013
Mean
Std.
1.67
1.469
2014
Mean
1.62
Std.
1.470
Với giá trị trung bình khoảng 1,6/7, điều này cho thấy mức độ công khai thông
tin về phát triển bền vững của VLF trong ba năm kể từ năm 2012 đến 2014 là rất
- 22 -
2.2.2.4
K
IN
H
TÊ
́H
U
Ế
thấp. Hầu hết các công ty chỉ nêu rằng họ sẽ thực hiện các mục tiêu và các giá trị xã
hội liên quan đến việc ra quyết định dài hạn, nhưng không công bố bất kỳ lời giải
thích chi tiết nào. Một trong những lý do là công khai mối liên hệ giữa tính bền vững
và giá trị kinh tế - xã hội là khó xác định trong báo cáo thường niên và các trang web
của công ty (Gunawan, 2007). Một lý do tương tự cho việc tiết lộ thông tin về 'phát
triển bền vững' là các công ty đều không quen với việc tiết lộ tính bền vững về hoạt
động kinh tế và xã hội, mặc dù họ hiểu rằng việc duy trì các giá trị kinh tế và xã hội
có thể tạo ra sự bền vững.
Năng lượng
̣I H
O
2012
% Không Mean
công khai
93.7
0.18
Std.
0.70
% Không
công khai
94.3
2013
Mean
Std.
0.16
0.663
% Không
công khai
93.7
2014
Mean
Std.
0.18
0.700
78.5
0.61
1.21
79.7
0.58
1.180
81.0
0.54
1.149
86.7
0.39
1.02
87.3
0.38
1.020
86.1
0.42
1.078
100.0
0
0
100.0
0
0
100.0
0
0
Đ
A
Bảo tồn NL
Sử dụng NL
hiệu quả
Giảm tiêu thụ
NL
Lo ngại về
thiếu hụt NL
̣C
Bảng 11: Thống kê mô tả chủ đề về Năng lượng bởi VLF 2012-2014
Items
Một bản tóm tắt các mục về năng lượng được cung cấp trong bảng 11. Ngược lại
với các thông tin được công khai nhiều nhất, thông tin về 'năng lượng' được tìm thấy
là ít quan trọng nhất tại VLF. Nói chung, khoản trên 90% VLF đã không công khai
các mục bảo tồn năng lượng trong các báo cáo hàng năm và các trang web trong thời
gian ba năm 2012-2014. Không ai trong số các công ty niêm yết tiết lộ những lo ngại
về tình trạng thiếu năng lượng. Trong khi giá trị trung bình của mỗi mục là cực kỳ
thấp, độ lệch chuẩn cao cho thấy điểm số năng lượng đã được lan truyền rộng rãi
- 23 -
Ế
giữa nhiều nhất và ít nhất, chỉ ra rằng một số công ty đã cung cấp thông tin về năng
lượng nhiều hơn, trong khi những công ty khác là thấp hơn rất nhiều.
Hai lý do có thể giải thích tình trạng này: đầu tiên, công ty đã không biết về sử
dụng năng lượng hiệu quả, và thứ hai, nhiều công ty đã không nhận ra rằng thông tin
về 'năng lượng' liên quan chặt chẽ đến thông tin TNBVMT. Với lý do đó, các kiến
thức về báo cáo TNBVMT cần phải được đào tạo để các công ty hiểu rõ hơn các
thông tin có liên quan đến việc bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, và làm thế nào
để công khai các hoạt động liên quan đến TNBVMT (Gunawan, 2007).
U
2.3 Bản chất của việc công khai thông tin
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
Deegan & Gordon (1996); Tilt (2001) dự đoán thông tin tích cực và mô tả như là
một thực tế phổ biến của việc công khai thông tin TNXH, bao gồm cả công khai
thông tin bảo vệ môi trường. Trong nghiên cứu này, không có thông tin tiêu cực có
thể được tìm thấy, và ít thông tin được tiết lộ một cách toàn diện, xem xét về khía
cạnh chất lượng, phân tích bằng đồ thị, hoặc tiền tệ. Thông tin mô tả mang tính tích
cực, tường thuật đã chiếm ưu thế. Công ty có vẻ lo sợ phản ứng tiêu cực của công
chúng khi báo cáo bất kỳ 'tin xấu', như phạt tiền hoặc các hình phạt khác. Lý do là
những phản ứng của công chúng có thể ảnh hưởng xấu đến hình ảnh công ty
(Adams, 2002). Vì vậy, VLF có khuynh hướng công bố "tin tốt" để có được một
hình ảnh tốt về công ty và tăng cường sự tin cậy. Tình trạng này trùng hợp với những
nghiên cứu lớn khác, với kết quả hoàn toàn tương tự (Adams, 2002; Milne, et al,
2000;. Wilmshurst & Frost, 2000). Các sự kiện cụ thể có thể làm tăng mức độ và bản
chất của CED, như đã được chỉ ra trong quá trình phân tích nội dung. Với thực tế là
nhiều VLF cung cấp thông tin đầy đủ về các hoạt động môi trường, bản chất là sự
tập trung vào các chiến dịch hỗ trợ môi trường hay các giải thưởng, thiết kế cơ sở
thân thiện với môi trường.
Tuy nhiên, ngoài những điểm tương đồng trong việc tiết lộ bản chất của hoạt
động môi trường, các nội dung khác của việc công khai thông tin lại khác nhau giữa
các ngành công nghiệp. Các ngành công nghiệp không nhạy cảm, bao gồm tài chính,
đầu tư và phương tiện truyền thông, các công ty phát thanh truyền hình cung cấp
thông tin về chủ đề 'môi trường' là thấp nhất, ngược lại cung cấp rất nhiều thông tin
về chủ đề "nguồn nhân lực" và “các quan hệ đối ngoại”, đặc biệt là liên quan đến
khách hàng. Các công ty khai thác, sản xuất và nông nghiệp có xu hướng công khai
việc tuân thủ quy định của nhà nước, cụ thể trong kiểm soát ô nhiễm và hỗ trợ các
chiến dịch vì môi trường.
- 24 -
2.4 Những đề xuất nhằm khuyến khích công bố thông tin về bảo vệ môi
trường của doanh nghiệp ở Việt Nam
2.4.1 Bối cảnh Việt Nam giai đoạn 2012-2014
Đ
A
̣I H
O
̣C
K
IN
H
TÊ
́H
U
Ế
Nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức trong giai đoạn 20122014, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng toàn cầu trong giai đoạn 2008-2009 và
khủng hoảng tài chính Việt Nam trong năm 2011. Việt Nam bị tổn thất đáng kể từ
buôn bán mậu dịch và thâm hụt ngân sách, dẫn đến nền kinh tế rạn nứt trước những
bất ổn của kinh tế toàn cầu. Cơ chế quản lý và sự suy yếu của đồng tiền tệ làm giảm
khả năng nâng cao chất lượng xuất khẩu, và cũng giữ chi phí nhập khẩu cao, gây ra
áp lực lạm phát (Business Monitor International, 2014). Chỉ số VN-index giảm gần
60% so với giai đoạn trước 2011; các nhà đầu tư giảm và ngần ngại giao dịch thương
mại do tác động tiêu cực từ kinh tế vĩ mô trong nước và toàn cầu không ổn định.
Trước những rào cản kinh tế trong và ngoài nước, các công ty niêm yết Việt Nam đã
tập trung nguồn lực của mình để đấu tranh cho sự sinh tồn, và sẵn sàng bỏ qua các
mục tiêu dài hạn cho sự phát triển bền vững.7 Điều này giải thích tại sao tổng điểm
CED là tương đối thấp trong giai đoạn này, cho thấy những khó khăn cũng như sự
nhận thức hạn chế về trách nhiệm môi trường của VLF.
Ngoài ra, các quy định về công khai thông tin tại Việt Nam chưa được chặt chẽ
và vẫn còn mơ hồ, tạo ra các khe hở cho các CEO để tự quyền quyết định có nên
công bố hay không nội dụng TNBVMT trong báo cáo hàng năm của công ty. Theo
Luật Chứng khoán Việt Nam ban hành năm 2006, chương 8 liên quan đến công bố
thông tin bao gồm 7 phần, những chỉ tập trung yêu cầu những thời điểm bất thường
phải công bố thông tin. Phần 128 và 129 nhà nước quy định về hành vi vi phạm các
quy định về công bố thông tin chỉ gồm bốn dòng như sau: “các doanh nghiệp buộc
phải tuân thủ quy định công bố thông tin, nếu không sẽ bị cảnh báo hoặc bị phạt” mà
không quy định tình huống cụ thể rõ ràng. Chỉ có một thông tư quy định về công
khai thông tin TNBVMT là Thông tư số 3105/TNMT-QLMT ban hành năm 2008
bởi Viện tài nguyên và Môi trường, yêu cầu các công ty phải báo cáo trách nhiệm
môi trường, bao gồm cả tác động của công ty đến môi trường và quá trình thực hiện
để giảm thiểu những tác động này. Tuy nhiên, mức phạt chung được quy định nếu vi
phạm không báo cáo là từ 10 triệu đến 50 triệu, mức xử phạt quá thấp này đã không
đủ mạnh để làm cho công ty niêm yết tuân thủ quy định về công bố thông tin. Để
7
Report Macroeconomics and Stock market for the period 2011-2012 by Vietcombank Securities, Available at:
((access on Feb 12th , 2013).
- 25 -