Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Chuyên đề béo phì trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.09 KB, 26 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh béo phì là một trong những rối loạn dinh dưỡng phổ biến nhất ở trẻ em và
thanh thiếu niên hiện nay. Việt Nam hiện có 300.000 trẻ dưới 5 tuổi bị thừa cân,
béo phì trong đó tỷ lệ trẻ em ở một số đô thị như Thành phố Hồ Chí Minh đã ở
mức báo động, cao hơn so với mức trung bình của toàn cầu rất nhiều.Tại hội
thảo, báo cáo về “Tình hình dinh dưỡng trẻ em đô thị Việt Nam” do tiến sỹ
Trương Hồng Sơn-Giám đốc nghiên cứu dinh dưỡng, Viện nghiên cứu Y-Xã hội
học công bố cho thấy, hiện nay, tỷ lệ thừa cân béo phì dưới 5 tuổi tại các đô thị
lớn là 6%, với tổng số 86.000 trẻ.
Trẻ mắc béo phì sẽ dễ mắc tiểu đường type 2, tăng huyết áp, tăng mỡ máu, các
bệnh gan thận và rối loạn chức năng sinh sản. Tình trạng này cũng làm tăng
nguy cơ mắc bệnh béo phì và các bệnh tim mạch ở người lớn.(1)
Béo phì ở trẻ em là một rối loạn dinh dưỡng phức tạp. Tỷ lệ mắc bệnh béo phì
tăng nhanh trong những năm gần đây và nhiều nước coi đây là một vấn đề sức
khỏe mang tính quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển. Theo Viện khảo sát sức
khỏe và dinh dưỡng Quốc Gia Mỹ ( NHANES) tỷ lệ mắc bệnh đang gia tăng ở
tất cả các lứa tuổi, cả hai giới, các nhóm sắc tộc và chủng tộc. Nhiều yếu tố bao
gồm di truyền, môi trường, lối sống và thói quen ăn uống, chuyển hóa được cho
là có vai trò trong sự phát triển của bệnh béo phì. Tuy nhiên có tới 90% trường
hợp béo phì là không tự phát và chỉ có dưới 10% là do di truyền hay hormone.
NỘI DUNG CHÍNH
1. Định nghĩa
Thừa cân, béo phì là tình trạng cơ thể tích tụ quá nhiều mỡ do sự mất cân bằng
năng lượng, có nghĩa là năng lượng cơ thể vượt quá năng lượng tiêu hao.
Theo tổ chức Y tế thế giới WHO:
- Thừa cân là tình trạng năng lượng cơ thể vượt quá năng lượng “nên có” so với
chiều cao.
- Béo phì là tình trạng cơ thể tích lũy mỡ thái quá không bình thường một cách
cục bộ hay toàn thể tới mức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của cơ thể.(2)
2. Đánh giá thừa cân béo phì



Có nhiều phương pháp để xác định lượng mỡ trong cơ thể như: đo tỷ trọng cơ
thể, độ dẫn điện của cơ thể, độ khuếch tán các chất khí tan trong chất béo, chụp
cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ hạt nhân... Tuy nhiên những phương pháp trên
đều đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và rất tốn kém. Vì thế, trong nghiên cứu cộng
đồng người ta thướngử dụng các tiêu chí cân nặng, chiều cao, bề dày lớp mỡ
dưới da để đánh giá tình trạng thừa cân béo phì.
Việc đánh giá thừa cân béo phì ở trẻ em còn gặp nhiều khó khăn do tỷ lệ tăng
trưởng và trưởng thành khác nhau. Lượng mỡ có liên quan đến giai đoạn trưởng
thành của trẻ và có sự tăng lượng mỡ ở hai giai đoạn, đó là lúc trẻ 5-7 tuổi và
lúc tiền dậy thì và dậy thì. Mặc dù có một điểm ngưỡng được sử dụng để xác
định béo phì ở người lớn, ở trẻ em điểm ngưỡng này cần được điều chỉnh theo
tuổi của trẻ. Ở một số quốc gia, có biểu đồ tăng trưởng riêng để tính cân nặng,
chiều cao và thừa cân, béo phì theo tuổi. Tuy nhiên, gần đây người ta đã đạt
được sự thống nhất về các biện pháp phù hợp đo lượng mỡ trong cơ thể, điều
này cho phép phân loại và so sánh béo phì. Biểu đồ chỉ số khối cơ thể (BMI) đã
được khuyến cáo.
Theo WHO (1995):
Đối với trẻ em dưới 5 tuổi và trẻ từ 5-9 tuổi:
- Thừa cân: Cân nặng/Chiều cao > +2SD
- Béo phì: Cân nặng/ Chiều cao >+2SD và bề dày lớp mỡ dưới da cơ tam đầu,
dưới xuong bả vai đều > 90th percentile
Đối với trẻ 10-19 tuổi: Dùng chỉ số khối cơ thể ( BMI: Body Mass Index) theo
tuổi và giới để đánh giá tình trạng dinh dưỡng cho lứa tuổi này.
Cân nặng (kg)
BMI=
(Chiều cao)

2


(m)

- Thừa cân: BMI ≥ 85th percentile
- Béo phì: BMI ≥ 95th percentile hoặc BMI ≥ 85th percentile và bề dày lớp mỡ
dưới da cơ tam đầu, dưới xương bả vai đều ≥ 90th percentile
Theo WHO (2007) : tuổi 5 -19 tuổi, thừa cân khi BMI ≥ 85th percentile và béo
phì khi BMI ≥ 97th percentile (2)


Theo hướng dẫn Hiệp hội Nội tiết Quốc tế 2017:
Trẻ em từ 2 tuổi trở lên coi là thừa cân nếu chỉ số khối cơ thể (BMI) ≥ 85th
percentile và <95 percentile theo tuổi và giới tính; Béo phì nếu BMI ≥95%;
Cực kỳ béo phì nếu BMI là ≥ 120% của 95th percentile, hoặc ≥35 kg / m2.
Trẻ em dưới 2 tuổi bị béo phì nếu cân nặng/chiều cao ≥97.7 percentile dựa vào
bảng tăng trưởng của WHO .(3)
3. Phân loại béo phì
Theo cơ chế bệnh sinh, béo phì được phân loại như sau:
- Béo phì đơn thuần do dinh dưỡng chiếm đa số trong cộng đồng
- Béo phì do bệnh lý nội tiết, di truyền hiếm gặp hơn
4. Nguyên nhân và sinh lý bệnh
Các hội chứng di truyền liên quan đến chứng béo phì ở trẻ em bao gồm:
• Hội chứng Prader-Willi
• Suy tuyến giáp
• Hội chứng Laurence-Moon-Biedl (Bardet-Biedl)
• Hội chứng Cohen
• Hội chứng Down
• Hội chứng Turner
Các rối loạn nội tiết liên quan đến chứng béo phì ở trẻ em bao gồm:
• Thiếu hóc môn tăng trưởng
• Kháng hormone tăng trưởng

• Suy giáp
• Thiếu Leptin hoặc kháng hoạt động Leptin
• Thừa Glucocorticoid (hội chứng Cushing)
• Dậy thì sớm


• Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS)
• Các khối u tiết prolactin
Thuốc có thể gây tăng cân ở trẻ em và vị thành niên bao gồm:
• Cortisol và các glucocorticoids khác
• Megace
• Sulfonylureas
• Thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs)
• Thuốc ức chế monoamin oxidase (MAOIs), chẳng hạn như phenelzine
• Trránh thai đường uống
• Insulin (trong trường hợp quá liều)
• Thiazolidinediones
• Risperidone
• Clozapine
Mất cân bằng năng lượng
Ở trẻ em và thanh thiếu niên, mỡ dư thừa tích tụ khi tổng lượng năng lượng nạp
vào vượt quá số năng lượng tiêu hao. Mất cân bằng năng lượng này có thể là kết
quả của năng lượng nạp vào quá mức hoặc giảm tiêu hao năng lượng thường là
hậu quả của lối sống ít vận động. Điều này đặc biệt liên quan đến việc xem
truyền hình quá mức, sử dụng máy tính quá mức và hoạt động thể lực không đủ.
Trong giai đoạn nhũ nhi, sự lắng đọng chất béo dư thừa xảy ra khi năng lượng
dư thừa được cung cấp, đặc biệt là khi tỷ lệ protein thành năng lượng bị thay
đổi. Điều này thường thấy khi cho bé ăn được bổ sung tinh bột hay chất béo và
hàm lượng protein vẫn giữ nguyên. Ngoài ra, một nghiên cứu báo cáo tỷ lệ mắc
bệnh béo phì tăng lên ở trẻ 3 tuổi ăn thức ăn đặc từ lúc 4 tháng tuổi (4)

Rối loạn con đường chuyển hóa hoóc môn Grhelin/Leptin
Ở những người béo phì, sự rối loạn chức năng hoóc môn Grhelin/Leptin chuyển
hóa theo con đường ruột-não ( trục dưới đồi) được cho rằng có ảnh hưởng đến
việc kiểm soát sự thèm ăn bất thường và tiêu thụ năng lượng dư thừa.


Các nghiên cứu chỉ ra rằng rối loạn chức năng trong trục hoocmon này có thể là
nguyên nhân gây ra cho khoảng 10% các đối tượng béo phì, đặc biệt những đối
tượng béo phì có yếu tố gia đình. Ở những gia đình này, một số báo cáo đã cho
thấy có sự giảm cân rõ rệt khi dùng liệu pháp hoóc môn để điều trị thiếu hụt
Leptin . Giảm tiêu hao năng lượng thường gặp trong các trường hợp thiếu hoóc
môn khác, bao gồm suy giáp và thiếu hụt hormon tăng trưởng. Tăng lượng tiêu
hao năng lượng thường gặp trong các hội chứng di truyền, như hội chứng
Prader-Willi, hội chứng Cushing, và chứng béo phì do thuốc gây ra.
Các yếu tố tăng cân
Mặc dù đã có các nghiên cứu quan sát về vai trò sinh lý của rối loạn gen và
hoóc môn, nhưng các yếu tố này không giải thích được sự tăng cân thừa ở hầu
hết các bệnh nhân bị béo phì được giới thiệu đến bác sĩ để đánh giá và điều trị.
Mặc dù hầu hết trẻ em thừa cân đều có yếu tố gia đình, với 1 hoặc cả 2 cha mẹ
béo phì, tăng cân quá mức ở trẻ em béo phì rõ ràng phụ thuộc vào cả yếu tố di
truyền và môi trường. Sự tương quan giữa thói quen của bố mẹ và đứa trẻ có thể
phản ánh ít nhất một phần các mô hình ăn uống, tập thể dục và lựa chọn các
hoạt động giải trí (bao gồm cả số lần xem truyền hình), cũng như các mô hình
lựa chọn thực phẩm gia đình và văn hoá. Tuy nhiên, bằng chứng từ nghiên cứu
gia đình có con sinh đôi, nhận con nuôi và các gia đình bình thường cho thấy
các yếu tố di truyền cũng đóng một vai trò đáng kể trong sự phát triển của béo
phì ở trẻ em.
Yếu tố di truyền
Tỷ lệ béo phì ở các cặp song sinh cùng trứng cao hơn so với các cặp song sinh
khác trứng và tổng lượng mỡ trong cơ thể ( Total body fat: TBF ) ở những cặp

sinh đôi cùng trứng cao hơn. Tuy nhiên cho đến tận bây giờ, yếu tố di truyền
vẫn không thể giải thích được nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ béo phì ở trẻ em
và thanh thiếu niên gần đây tại Mỹ.
Kháng insulin, rối loạn lipid máu và tăng huyết áp
Sự tích tụ mỡ trong cơ thể, đặc biệt trong sự phân bố nội tạng, làm giảm sự nhạy
cảm với insulin trong cơ xương, mô gan và mô mỡ; "Kháng insulin" có khuynh
hướng không dung nạp glucose và tăng triglycerid máu. Hàm lượng lipoprotein
mật độ cao (HDL) thấp, quan sát thấy cả về di truyền và liên quan đến lối sống
ít vận động, có thể góp phần làm tăng chứng bệnh động mạch vành sớm ở người
lớn bị béo phì. Tăng nồng độ insulin và yếu tố tăng trưởng giống Insulin I có thể


làm tăng huyết áp (HA) và có thể kích thích sản xuất androgen từ buồng trứng
và vỏ thượng thận, gây đau bụng kinh và hậu quả nam hóa ở nữ giới. Tăng tiết
estrogene dẫn đến tật vú to ở trẻ nam. Kháng insulin, rối loạn lipid máu và tăng
huyết áp có khuynh hướng dẫn đến bệnh đái tháo đường týp 2 và bệnh tim
mạch, làm giảm tuổi thọ.
Trong một nghiên cứu của D'Adamo và cộng sự đã đánh giá vai trò của gan
nhiễm mỡ trong sự thay đổi độ nhạy insulin và chức năng tế bào β ở bệnh nhân
béo phì, các nhà nghiên cứu kết luận rằng gan nhiễm mỡ , không phụ thuộc vào
sự nhiễm mỡ ở các nội tạng khác và hàm lượng chất béo trong tế bào cơ
(ICML: intramyocellular lipid content ) có vai trò trung tâm trong sự đề kháng
insulin ở thanh thiếu niên béo phì.(5)

5. Dịch tễ học
Ở Việt Nam
Theo Tiến sỹ Trần Thị Minh Hạnh và cộng sự thuộc Trung tâm dinh dưỡng TP
Hồ Chí Minh tỷ lệ béo phì ở trẻ em năm 2012 như sau:
1.404 học sinh trung học phổ thông
Tỷ lệ thừa cân,béo phì: 11,7%

• 1.650 học sinh trung học cơ sở
Tỷ lệ thừa cân,béo phì: 22,5%
• 776 học sinh tiểu học
Tỷ lệ thừa cân,béo phì: 38,5%
Theo nghiên cứu năm 2015 của Đỗ Mai Loan


Hà nội (2015): TC-BP của trẻ ở trường mầm non thuộc quận Đống Đa
21,1%
Thừa cân béo phì ở trẻ 4-6 tuổi 2,5% và học sinh tiểu học 7,6%.
• TPHCM: thừa cân: 17,8%, béo phì: 3,2%


6. Hậu quả
Trong nhiều năm qua, các biến chứng phát sinh từ bệnh béo phì được coi là bất
thường ở trẻ em. Tuy nhiên,có rất nhiều vấn đề nhỏ và lớn có thể xảy ra ở trẻ
em và thanh thiếu niên bị béo phì, hầu hết những vấn đề này có ảnh hưởng
đáng kể đến chất lượng cuộc sống, và một số có thể làm giảm tuổi thọ.


Trẻ em và đặc biệt là béo phì vị thành niên tăng nguy cơ béo phì ở người lớn
và có liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường, cao huyết áp, sỏi mật và tăng
cholesterol máu[6]. Các biến chứng phổi ở trẻ em và thanh thiếu niên bao gồm
tăng tần số hoạt động hô hấp, khả năng chịu đựng tập thể dục kém, tăng công
thì thở vào và tăng tiêu thụ oxy. Một số người có hội chứng béo phì - giảm
thông khí bị suy tim có phì đại thất phải.
Từ một phân tích của 4 nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu , dữ liệu cho thấy người
lớn thừa cân hoặc béo phì cũng béo phì như trẻ em có nguy cơ cao bị đái tháo
đường týp 2, cao huyết áp, rối loạn lipid máu và xơ vữa động mạch cảnh. Tuy
nhiên, trẻ béo phì đạt được chỉ số BMI bình thường khi trưởng thành cũng có

tỷ lệ nguy cơ tương tự so với những người chưa từng mắc béo phì. [7]
Kết quả từ một nghiên cứu cho thấy hành vi kiểm soát cân nặng và không
kiểm soát cân nặng ở thanh thiếu niên có liên quan đến trọng lượng và BMI
tăng lên khi trẻ trưởng thành. [8]
Một nghiên cứu của Parker và cộng sự cho thấy rằng so với những người duy
trì cân nặng khỏe mạnh, trẻ em và vị thành niên trở nên béo phì hoặc duy trì
béo phì có nguy cơ tăng huyết áp lên gấp ba lần. [9, 10]
Các biến chứng cấp tính của chứng béo phì ở trẻ em
Các biến chứng cấp tính của chứng béo phì ở trẻ em bao gồm đái tháo đường
týp 2, tăng huyết áp, tăng lipid máu, tăng trưởng nhanh và cốt hóa sớm, tăng u
buồng trứng buồng trứng và chứng vú to, viêm túi mật, viêm tuỵ, và u giả não
bộ. Gan nhiễm mỡ là hay gặp nhất . Hiếm khi bệnh nhân bị xơ gan và bệnh thận
(xơ vữa mạch thận). Ngưng thở khi ngủ và rối loạn giấc ngủ là vấn đề phổ biến
ở trẻ em và thanh thiếu niên có chứng béo phì. Trong một số trường hợp, cơn
ngưng thở đi kèm với rối loạn chức năng nhận thức thần kinh. Phẫu thuật cắt bỏ
amiđan và phẫu thuật cắt nạo VA , thông khí nhân tạo áp lực dương hai pha/
thông khí nhân tạo áp lực dương liên tục (BIPAP / CPAP) có thể có lợi cho bệnh
nhân giảm oxy hóa hoặc ứ đọng CO2.
Biến chứng cơ xương khớp
Nhiều biến chưng cơ xương khớp, bao gồm thoái hóa khớp, vôi hóa xương đùi,
và xương chày cong vào, được quan sát thấy nhiều hơn ở trẻ bị béo phì. Cân
nặng quá mức ở trẻ nhỏ có thể gây cong xương chày và xương đùi. Sự tăng
trưởng quá mức của sự xơ vữa gần xương chày có thể gây nên một bệnh gọi là
bệnh Blount.


Rối loạn chức năng gan mật
Bằng chứng của rối loạn chức năng gan với nồng độ cao của men transaminase
trong huyết thanh, được quan sát thấy ở 20% trẻ em bị béo phì. Rối loạn chức
năng gan thường phản ánh gan nhiễm mỡ ở gan, nhưng đôi khi có thể là xơ

gan.Bổ sung vitamin E có thể có hiệu quả trong việc điều trị bệnh viêm gan
nhiễm mỡ, cho thấy rối loạn phản ánh tình trạng thiếu vitamin E tương đối. [11]
Sỏi mật phổ biến ở người lớn bị béo phì hơn ở người lớn có trọng lượng bình
thường. Mặc dù sỏi mật ít gặp ở trẻ em, nhưng gần một nửa số trường hợp viêm
túi mật ở thanh thiếu niên có liên quan đến chứng béo phì. Viêm túi mật có thể
thậm chí còn hay gặp hơn trong thời gian giảm cân nhanh, đặc biệt với chế độ
ăn kiêng có kiểm soát năng lượng.
Các biến chứng về tâm lý
Di chứng về rối loạn cảm xúc và tâm lý xã hội ngày càng phổ biến . Một số
bằng chứng cho thấy trầm cảm và rối loạn ăn uống hay gặp ở trẻ em và thanh
thiếu niên khi đến khám tại các phòng khám béo phì. Định kiến và phân biệt đối
xử với những người bị béo phì hay gặp trong văn hóa Việt Nam ngày nay. Thậm
chí ngay cả trẻ nhỏ có béo phì cũng bị bạn bè cùng lứa coi thường, bắt nạt. Sự
cách biệt xã hội, bất bình đẳng và bị phân biệt đối xử ngày càng hay gặp.
Các biến chứng tim mạch và nội tiết
Bệnh béo phì trong thời thơ ấu và thanh thiếu niên có liên quan đến nhiều yếu tố
nguy cơ tim mạch, bao gồm tăng insulin và kháng insulin, tăng cholesterol máu,
tăng triglycerid máu, giảm lipoprotein mật độ cao (HDL) và tăng huyết áp. Một
dấu hiệu của sự đề kháng insulin là giả chứng gai đen, sự hiện diện của nó cho
thấy có nguy cơ tăng tiểu đường týp 2.
Nữ vị thành niên có chứng béo phì cũng có biểu hiện tăng tiết androgen , bao
gồm tăng nồng độ androstenedione huyết thanh, dehydroepiandrosterone sulfate
(DHEA-S) và testosterone, cũng như giảm hoóc môn giới tính gắn globulin.
Hình ảnh lâm sàng tương tự như hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS). Các
androgens tăng tiết có nguồn gốc thượng thận và buồng trứng và có thể có liên
quan, ít nhất một phần, đến tăng nồng độ insulin và yếu tố tăng trưởng giống
insulin I (IGF-I) trong huyết thanh.
Thanh thiếu niên đã trưởng thành về mặt tính dục, sự thay đổi lipid huyết thanh
và androgens dường như tương quan mạnh hơn với sự phân bố mỡ trong cơ thể
so với trọng lượng tuyệt đối. Do đó, thanh thiếu niên có chứng béo phì trung



tâm (béo phì kiểu bụng, béo phì kiểu quả táo) có nhiều khả năng biểu hiện các
yếu tố nguy cơ tim mạch hơn so với những người có béo phì toàn thân(ví dụ
như béo phì kiểu quả lê: béo phì có mô mỡ quanh đùi và mông). Tuy nhiên, ở
trẻ non tháng, các yếu tố nguy cơ tim mạch tương quan tốt hơn với trọng lượng
cơ thể so với phân bố mỡ cơ thể. Tỷ lệ hiện mắc tăng của chứng béo phì ở trẻ
em và thanh thiếu niên, kèm theo kháng insulin, dường như giải thích sự gia
tăng tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 ở thanh thiếu niên.Các nghiên cứu chỉ ra
rằng những trẻ em béo phì có bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu có thể có nguy
cơ cao bị xơ vữa động mạch. [12]
Các biến chứng lâu dài của chứng béo phì ở trẻ em
Béo phì trong thời kỳ trẻ em và thanh thiếu niên có liên quan đến nguy cơ bị
béo phì tăng lên trong thời kỳ trưởng thành, với các nguy cơ về sức khoẻ lâu
dài. Nguy cơ gia tăng này xuất hiện nhiều nhất ở nam giới vị thành niên với
bệnh béo phì vừa đến nặng. Những tác động lâu dài của chứng béo phì trong
thời kỳ nhũ nhi và trẻ lớn đối với sức khoẻ sau đó không rõ ràng. Nhìn chung,
tỷ lệ trẻ béo phì có béo phì khi trưởng thành tăng lên khi tuổi dậy thì tăng lên,
như vậy 26-41% trẻ mầm non có chứng béo phì khi trưởng thành, so với 4263% trẻ ở độ tuổi đi học. Ngoài ra, mức độ béo phì càng cao khi còn nhỏ, nguy
cơ béo phì ở người lớn càng cao.
Bệnh tiểu đường
Theo các dữ liệu dịch tễ học, mặc dù còn hạn chế, chỉ ra rằng béo phì vị thành
niên có liên quan đến tình trạng bệnh tật và tử vong gia tăng trong cuộc sống
sau này. Theo đó, sự gia tăng đáng kể tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường týp 2 ở
thanh thiếu niên bị béo phì có thể kèm theo một loạt các biến chứng liên quan
đến đái tháo đường ở tuổi trưởng thành và giảm tuổi thọ. Mặc dù béo phì làm
tăng nguy cơ bệnh tật liên quan đến hàm lượng glucose nội môi bất thường, dữ
liệu gần đây cho thấy tỷ lệ BMI tăng trong tuổi vị thành niên cũng có thể là một
yếu tố nguy cơ đáng kể cho bệnh tiểu đường. [13]
Bệnh tim mạch

Tăng nguy cơ tử vong do nhiều nguyên nhân và từ bệnh mạch vành (CAD :
coronary artery disease ) thường thấy ở nam giới, mà không gặp ở nữ, những
người bị béo phì ở tuổi vị thành niên. Trong nghiên cứu theo dõi của khoa
Nghiên cứu tăng trưởng Harvard, nguy cơ bệnh tật từ bệnh mạch vành và xơ
vữa động mạch tăng lên ở nam giới và phụ nữ đã bị thừa cân (BMI> 75


percentile) khi ở tuổi vị thành niên. Giá trị BMI có xu hướng cao hơn ở thanh
thiếu niên ở Mỹ có liên quan đến tăng gánh thất trái, khi so sánh với các nhóm
tương tự ở các thế hệ trước, cho thấy rằng bệnh béo phì sớm làm tăng nguy cơ
lâu dài cho sự tiến triển của bệnh tim. [14]
Mangner và cộng sự tiến hành một nghiên cứu để đánh giá sự thay đổi hình
dạng và chức năng của tim ở người béo phì so với trẻ và thanh thiếu niên không
bị béo phì. Các tác giả nhận thấy có dày thất trái và tăng gánh thất trái cũng như
giảm chức năng tâm thu ở những trẻ béo phì khi so sánh với trẻ không béo phì.
Các tác giả cũng cho biết không có sự khác biệt về phân suất tống máu giữa trẻ
em béo phì và không béo phì, nhưng mức độ biến dạng, tỷ lệ biến dạng của thất
trái được đánh giá bởi siêu âm tim 2D cho thấy khiếm khuyết tim mạch ở trẻ em
béo phì. Các kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng bệnh béo phì ở trẻ em có
liên quan đến những thay đổi đáng kể trong hình thái và chức năng của cơ tim,
cho thấy có những thay đổi sớm không mong muốn có thể xảy ra trong cơ tim.
[15, 16]

Bệnh gout và ung thư đại trực tràng
Bệnh gút và ung thư đại trực tràng gia tăng ở những người đàn ông có béo phì ở
tuổi vị thành niên, và chứng viêm khớp gia tăng ở phụ nữ bị béo phì ở thời niên
thiếu. Nhiều kết quả bất lợi về sức khỏe dường như không phụ thuộc vào trọng
lượng khi trưởng thành, cho thấy tác động trực tiếp của béo phì vị thành niên
đối với sức khoẻ và tử vong của người lớn.
Rối loạn tâm lý xã hội

Sự rối loạn chức năng tâm lý xã hội ở những người béo phì ở trẻ em và thanh
thiếu niên cần được nghiêm túc quan tâm. Trong số thanh thiếu niên được theo
dõi sau 7 năm,nữ giới thừa cân gặp các vấn đề như học vấn thấp, ít có khả năng
lập gia đình, và có tỷ lệ nghèo đói cao hơnso với những người không béo phì.
Đối với nam giới thừa cân, kết cục bất lợi duy nhất là giảm khả năng kết hôn.
7.Triệu chứng cơ năng và lâm sàng
Tầm vóc thấp hoặc giảm phát triển chiều cao ở trẻ bị béo phì cho thấy khả năng
bị thiếu hụt hoóc môn tăng trưởng, chứng suy giáp, tăng tiết cortisol, ung thư
biểu mô tuyến cận giáp hoặc hội chứng di truyền như hội chứng Prader-Willi.
Cơ năng có da khô, táo bón, dễ cảm lạnh, dễ mệt gợi ý bệnh lý tuyến giáp.


Đái nhiều và uống nhiều gặp ở trẻ béo phì có tiểu đường nặng.
Tiền sử tổn thương hệ thần kinh trung ương (ví dụ nhiễm trùng, chấn thương,
xuất huyết, xạ trị, động kinh) cho thấy chứng béo phì có liên quan vùng dưới
đồi, thiếu hụt hoặc không có hormon tăng trưởng tuyến yên, tuyến giáp.Nếu trẻ
có cơn nhức đầu buổi sáng, nôn mửa, rối loạn thị giác, đi tiểu nhiều hoặc uống
nhiều cũng cho thấy rằng chứng béo phì có thể là do khối u hoặc khối u trong
vùng dưới đồi.
Sự tích tụ chất béo ở cổ, thân, và vằn da đỏ tím cho thấy sự thừa cortisol. Sự
xuất hiện của các dấu hiệu phát triển tình dục sớm cho thấy sự tăng cân là do
dậy thì sớm. Tuy nhiên, lông mặt, mụn trứng cá, và thời kỳ bất thường ở nữ vị
thành niên cho thấy sự tăng cân có thể do tăng tiết cortisol hoặc hội chứng
buồng trứng đa nang. Bệnh béo phì có thể kèm theo lông mặt, rối loạn kinh
nguyệt và cao huyết áp.
Các triệu chứng lâm sàng gợi ý bệnh căn của chứng béo phì ở trẻ em có liên
quan hoóc môn bao gồm:
• Tăng cân do yếu tố gia đình
• Béo phì sớm ở trẻ nhỏ
• Tăng cân tăng dần mà không có sự gia tăng tương đương về tăng chiều cao

• Da khô, táo bón, dễ cảm lạnh, dễ mệt
• Tiền sử tổn thương thần kinh trung ương (ví dụ chấn thương, xuất huyết,
nhiễm trùng,nhiễm phóng xạ, động kinh)
• Tích tụ chất béo ở cổ và thân mình nhưng không có ở tay hoặc chân
• Vằn da đỏ tím (vết rạn da)
• Cao huyết áp
• Sự phát triển dậy thì không phù hợp ở tuổi còn trẻ
• Lông mặt, mụn trứng cá và / hoặc rối loạn kinh nguyệt ở nữ vị thành niên
• Nhức đầu, nôn mửa, rối loạn thị giác, hoặc đi tiểu nhiều và uống nhiều
• Điều trị bằng các loại thuốc kéo dài
8. Tiếp cận điều trị


Xác định rối loạn di truyền hoặc hoocmon nào có thể gây ra chứng béo phì ở
trẻ.
Trong đánh giá đái tháo đường tuýp II, nên dùng HbA1C và định lượng glucose
lúc đói (để đánh giá độ dung nạp glucose và kháng insulin). Để xác định những
bệnh nhân có nguy cơ cao, Maffeis và cộng sự đã báo cáo rằng trẻ em béo phì
có nồng độ glucose huyết lúc đói cao hơn hoặc bằng 86mg / dL có thể làm
giảm dung nạp glucose. [17]
Các phương pháp cận lâm sàng sau đây cũng có thể được chỉ định ở bệnh nhân
béo phì:
- Xét nghiệm mỡ máu lúc đói
- Đánh giá chức năng tuyến giáp
- Leptin huyết thanh
- Các xét nghiệm chức năng tuyến thượng thận khi nghĩ đến hội chứng Cushing
- Lập bộ nhiễm sắc thể: lai tại chỗ phát huỳnh quang (FISH) phát hiện đoạn
mất nhiễm sắc thể số 15 trong hội chứng Prader Willi
- Đánh giá chức năng bài tiết hoóc môn tăng trưởng
- Đánh giá kích thích tố sinh sản (bao gồm cả prolactin)

- Canxi máu, phốt pho máu và nồng độ hoóc môn tuyến cận giáp khi nghĩ tới
giảm năng tuyến cận giáp
- MRI sọ não chú ý vùng dưới đồi và tuyến yên
Về mặt lý thuyết, bất kỳ can thiệp điều trị nào ở trẻ bị béo phì phải đạt được sự
kiểm soát tăng cân và giảm chỉ số khối cơ thể một cách an toàn và hiệu quả
đồng thời nên ngăn ngừa những biến chứng lâu dài của chứng béo phì ở trẻ em
và tuổi trưởng thành.
Quản lý các biến chứng cấp tính hoặc mãn tính của béo phì phối hợp các biện
pháp tâm lý đối với rối loạn ăn uống bất thường hoặc trầm cảm trầm trọng. Xây
dựng một kế hoạch chăm sóc nhấn mạnh đến chế độ ăn kiêng dài hạn và tập thể
dục cùng với sự hỗ trợ từ gia đình và tránh sự thay đổi quá nhanh về trọng
lượng cơ thể. . Nên có sự tham vấn với bác sỹ chuyên khoa hô hấp, bác sĩ chỉnh


hình và bác sỹ chuyên khoa tiêu hóa . Tránh cách tiếp cận trừng phạt và khen
thưởng các hành vi tích cực.
Các chuyên gia khuyên rằng, việc giảm được 5-20% tổng trọng lượng cơ thể có
thể làm giảm nhiều nguy cơ sức khoẻ liên quan đến chứng béo phì ở người lớn.
Tuy nhiên, cho dù cân nặng giảm hay BMI giảm nhẹ có thể cải thiện sau này
cho bệnh nhi hoặc giảm nguy cơ lâu dài về béo phì ở tuổi trưởng thành mà
chưa được biết đến. Vì giảm BMI rất khó đạt được và duy trì ở trẻ em và thanh
thiếu niên cũng như người lớn, nên tư vấn và điều trị thận trọng với các mục
tiêu thực tế nhấn mạnh việc giảm dần lượng mỡ trong cơ thể và BMI và duy trì
giảm cân thay vì nhanh chóng đạt được trọng lượng cơ thể lý tưởng. Giảm trọng
lượng cơ thể đi kèm với việc giảm tiêu hao năng lượng tương đương. Do đó,
duy trì trọng lượng cho một bệnh nhân béo phì đòi hỏi mức tiêu thụ năng lượng
thấp hơn duy trì cân nặng tương đương ở bệnh nhân chưa bao giờ béo phì.
Can thiệp thay đổi hành vi
Kalarchian và cộng sự thấy rằng kiểm soát hành vi cân nặng cùng với =gia đình
có hiệu quả đối với trẻ em béo phì nặng (18). Trong một thử nghiệm đối chứng

ngẫu nhiên, có kiểm soát ở 192 trẻ em từ 8-12 tuổi có chỉ số khối cơ thể trung
bình (BMI) theo tuổi và giới tính là 99,18 percentile, can thiệp có liên quan đến
sự giảm đáng kể tỷ lệ trẻ thừa cân ở thời điểm 6 tháng so với bình thường . Sự
cải thiện đáng kể về kết quả y tế đã được quan sát ở thời điểm 6 và 12
tháng(19).Trẻ em tham dự 75% các cuộc can thiệp hoặc nhiều hơn duy trì giảm
tỷ lệ phần trăm thừa cân qua 18 tháng.
Wildes và cộng sự thấy rằng ở những trẻ béo phì nặng, chứng ăn uống vô độ
(binge eating) sẽ ảnh hưởng đến phản ứng đầu tiên đối với việc điều trị hành vi
dựa vào gia đình(20). Trong một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên ở 192 trẻ em
từ 8-12 tuổi, trẻ mắc chứng ăn uống vô độ tự báo cáo đã tăng 2,6% cân nặng
trong quá trình điều trị béo phì cấp tính, trong khi đó những trẻ không mắc
chứng ăn uống vô độ giảm 8,5%. Sự khác biệt này không được duy trì trong
thời gian dài theo dõi. Trẻ em được báo cáo mắc chứng ăn uống vô độ bao gồm
11,5% các đối tượng nghiên cứu sẽ có thể mắc chứng trầm cảm, lo lắng và ăn
nhiều hơn và dễ bị tổn thương tâm lý hơn những người không mắc chứng ăn
uống vô độ. (21)
Bất kỳ sự can thiệp có thể sẽ thất bại nếu nó không liên quan đến sự tham gia
tích cực và hỗ trợ của các thành viên trong gia đình. Đứa trẻ có thể chỉ là một
trong nhiều thành viên trong gia đình có chứng béo phì, và điều trị thành công


thường đòi hỏi phải can thiệp cả gia đình. Trong những trường hợp được lựa
chọn, liệu pháp gia đình có thể mang lại lợi ích cao.
Thay đổi lối sống, tập thể dục và hoạt động thể chất
Oude và cộng sự kết luận rằng mặc dù không thể khuyến cáo một chương trình
điều trị dứt điểm, các can thiệp lối sống hành vi kết hợp sẽ làm giảm đáng kể
trọng lượng. Mặc dù Orlistat và Sibutramine (hai loại thuốc điều trị béo phì) có
thể được sử dụng như phụ trợ cho các can thiệp lối sống, nhưng chúng phải
được xem xét cẩn thận.(22)
Hút thuốc lá làm giảm sự thèm ăn và được nhiều người lớn và một số thanh

thiếu niên sử dụng để ngăn ngừa hoặc hạn chế tăng cân. Hậu quả nguy hại của
hút thuốc rõ ràng lớn hơn lợi ích đạt được do kiểm soát cân nặng, và tất cả trẻ
em và thanh thiếu niên nên được khuyến cáo không bao giờ hút thuốc lá. Các
biện pháp ngăn ngừa tăng cân quá mức cần được thực hiện ở những thanh thiếu
niên béo phì ngưng hút thuốc.
Các bác sĩ và cha mẹ nên khuyến khích trẻ tham gia hoạt động thể lực mạnh mẽ
trong suốt thời thanh thiếu niên và để hạn chế thời gian xem truyền hình, video
và chơi trò chơi điện tử. Ngay cả việc đi bộ đều đặn trong 20-30 phút mỗi ngày
cũng có thể giúp kiểm soát cân nặng.
Tập thể dục làm giảm sự tích lũy trọng lượng thông qua việc tăng tiêu hao năng
lượng và có tác dụng thuận lợi đối với tình trạng tim mạch, giảm lượng mỡ
trong cơ thể và cholesterol toàn phần, tăng cơ và lipoprotein tỉ trọng cao (HDL)
và cải thiện sức khoẻ tâm lý. Các thử nghiệm có kiểm soát đã chứng minh rằng
các chương trình tập thể dục quy cách kết hợp với những hạn chế về chế độ ăn
uống hỗ trợ kiểm soát cân nặng lâu dài ở trẻ em và thanh thiếu niên.
Các kết quả từ tổng quan hệ thống và nghiên cứu phân tích tổng hợp lưu ý rằng
các chương trình tập thể dục thay thế các hoạt động thể lực chưa được chứng
minh là phương tiện hiệu quả để tăng hoạt động thể lực hoặc giảm trầm cảm ở
những trẻ lười vận động khi so sánh với chăm sóc thông thường. Cần có các
nghiên cứu sâu hơn để đánh giá tác động đối với kết quả liên quan đến sức
khoẻ. Tuy nhiên, các kết quả từ một nghiên cứu năm 2012 cho thấy rằng ít tập
thể dục có liên quan tới nguy cơ mắc bệnh tim mạch cùng với các triệu chứng
trầm cảm tăng cao ở thanh thiếu niên béo phì. (22)
Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra khuyến cáo các nguyên tắc về lượng đường
nhân tạo trong chế độ ăn. (23)


Các nguyên tắc này bao gồm:
• WHO khuyến cáo giảm lượng đường nhân tạo
• Ở cả người lớn và trẻ em, WHO khuyến cáo giảm lượng đường nhân tạo

xuống dưới 10% tổng lượng năng lượng nạp vào.
• WHO khuyến cáo giảm thêm lượng đường nhân tạo xuống dưới 5% tổng
lượng năng lượng ăn vào. Các loại đường nhân tạo bao gồm monosaccharides
và disaccharides được thêm vào thực phẩm và đồ uống bởi nhà sản xuất, nấu ăn
hoặc người tiêu dùng, và các loại đường có trong mật ong, xi-rô, nước trái cây.
• Đối với các quốc gia có , không nên tăng mức độ.Sử dụng nhiều đường nhân
tạo sẽ đe doạ chất lượng dinh dưỡng của khẩu phần bằng cách cung cấp năng
lượng đáng kể mà không có các chất dinh dưỡng cụ thể.
• Các khuyến cáo này dựa trên tổng số các bằng chứng được đánh giá về mối
quan hệ giữa lượng đường tiêu thụ và trọng lượng cơ thể và sâu răng.
• Đường nhân tạo tăng hoặc giảm có liên quan đến sự thay đổi song song trong
trọng lượng cơ thể, và mối quan hệ này hiện diện với bất kể mức độ lượng
đường tự do. Thừa câncó liên quan đến lượng đường nhân tạo tiêu thụ từ lượng
thức ăn dư thừa.
• Sử dụng đường nhân tạo không được xem là một chiến lược phù hợp để tăng
lượng calo cho những người không đủ năng lượng ăn vào nếu có các lựa chọn
khác.
• Các khuyến cáo này không áp dụng cho các cá nhân có chế độ ăn kiêng trong
điều trị, bao gồm cả việc quản lý suy dinh dưỡng cấp tính và trung bình. Các
hướng dẫn cụ thể để quản lý suy dinh dưỡng cấp tính và trung bình đang được
phát triển riêng biệt.
Giảm chất béo và chế độ ăn kiêng năng lượng kiểm soát tốt
Chế độ ăn uống cân bằng năng lượng, kết hợp với việc giáo dục của bệnh nhân,
cha mẹ, thay đổi hành vi và tập thể dục có thể hạn chế tăng cân ở nhiều bệnh
nhi có bệnh béo phì nhẹ hoặc vừa.
Các chương trình điều chỉnh mô hình ăn uống của gia đình có có tỷ lệ thành
công cao hơn .


Giảm tổng lượng chất béo và chất béo bão hòa có thể đặc biệt hữu ích ở thanh

thiếu niên tiêu thụ một lượng lớn các loại thực phẩm ăn nhanh, béo, ăn nhanh,
bao gồm cả khoai tây chiên, pizza, khoai tây chiên và bánh quy giòn. Các
nghiên cứu ở người lớn cho thấy rằng chế độ ăn ít chất béo thấp có liên quan
đến trọng lượng cơ thể thấp hơn, BMI và vòng bụng. Trong khi những phát hiện
tương tự chưa được xác nhận ở trẻ em, một nghiên cứu phân tích tổng hợp ở trẻ
em cho thấy mối quan hệ trực tiếp giữa lượng chất béo ăn vào và tăng cân.(24)
Chế độ ăn uống trung bình cho trẻ em và thanh thiếu niên ở Mỹ có chứa khoảng
35% chất béo. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo giảm lượng chất béo
xuống 30% tổng năng lượng . Tuy nhiên,có rất ít bằng chứng, dịch tễ học hoặc
thực nghiệm, ủng hộ ý tưởng rằng một chế độ ăn uống giảm chất béo nhưng
không giới hạn là đủ để giảm đáng kể trọng lượng ở người béo phì. Chế độ ăn ít
chất béo có thể hữu ích hơn cho việc phòng ngừa tăng cân nguyên phát hay thứ
phát ở những người bị béo phì , đặc biệt ở những người có yếu tố nguy cơ gia
đình.
Chế độ ăn kiêng có kiểm soát về năng lượng
Chế độ nhịn ăn cải biên tiết kiệm protein giúp giảm cân nhanh chóng ở bệnh
nhân nội và ngoại trú đã được các nhà nghiên cứu áp dụng thành công trên trẻ
em bị béo phì . Ví dụ, một nghiên cứu trong một năm cho 73 bệnh nhi từ 7-17
tuổi cho thấy có sự giảm đáng kể tỷ lệ thừa cân, tổng lượng mỡ cơ thể, chỉ số
khối cơ thể (BMI), Cholesterol toàn phần, Lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL),
Triglyceride và insulin test nhanh mà không thay đổi lượng mỡ tự do . Tuy
nhiên ,trong nghiên cứu này và nhiều bệnh nhân kết hợp chế độ ăn uống với
thay đổi hành vi và các chương trình thể dục. Do đó, việc đánh giá tác động
chính của chế độ ăn uống là không thể.
Duckworth và cộng sự thấy rằng chế độ ăn giàu protein không làm giảm ham
muốn ăn uống của trẻ béo phì. Trẻ thừa cân và béo phì được chỉ định cho 1
trong 2 chế độ ăn uống đẳng năng, chế độ ăn kiêng tiêu chuẩn 15% protein hoặc
chế độ ăn kiêng protein 25%, có những tác dụng tương tự đối với việc giảm
cân, thành phần cơ thể, và thay đổi thèm ăn hoặc tâm lý của trẻ . Nhìn chung,
trẻ giảm 5,2 ± 3 kg trọng lượng cơ thể và chỉ số khối cơ thể với độ lệch chuẩn

0.25. Tuy nhiên, với cả hai chế độ ăn , vẫn có sự ham muốn ăn uống tăng lên
đáng kể trong suốt thời gian can thiệp.(25)
Nói chung, chế độ ăn kiêng có kiểm soát năng lượng bị cản trở do tỷ lệ bỏ học
cao, và ở người lớn có liên quan đến những thoái hóa cơ, sự hình thành sỏi, rối


loạn nhịp tim và đột tử . Nhiều chuyên gia bày tỏ sự quan ngại về tăng nguy cơ
tim mạch kéo dài liên quan đến sự tăng cân trở lại sau giảm cân bằng chế độ
nhịn ăn.
Quan trọng hơn, những ảnh hưởng lâu dài của chế độ ăn có kiểm soát năng
lượng đối với sự tăng trưởng và phát triển vị thành niên và chức năng sinh sản
sau này, sự phát triển cơ xương và sự chuyển hóa trung gian vẫn chưa được hiểu
rõ. Do những bất trắc này và những khó khăn trong việc duy trì sự thiếu hụt calo
nghiêm trọng nên không thể đề nghị chế độ ăn có kiểm soát năng lượng cho
phần lớn trẻ em và thanh thiếu niên có chứng béo phì.
Bệnh học tâm thần - Can thiệp sâu rộng
Bằng chứng cho thấy rằng trẻ em bị chứng béo phì nặng có thể bị rối loạn tâm
lý nghiêm trọng (ví dụ như tự tử, chứng trầm cảm, rối loạn trầm cảm khác) đòi
hỏi phải nằm viện hoặc dùng thuốc dài hạn. Cho dù hầu hết các rối loạn tâm lý
có trước, là nguyên nhân, hoặc kết quả của chứng béo phì hoặc điều trị chưa tốt.
Giống như người lớn, trẻ em tham gia chương trình điều trị chứng béo phì có
thể có nguy cơ cao mắc các bệnh tâm thần sau này.
Điều trị các bệnh tâm thần có thể làm phức tạp hoặc làm trầm trọng thêm các
vấn đề liên quan đến kiểm soát cân nặng, bởi vì nhiều thuốc chống trầm cảm,
đặc biệt là thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs) kích thích sự thèm ăn và tăng
cân.
Như đã đề cập ở trên, bất kỳ can thiệp điều trị nào ở trẻ em có chứng béo phì
cũng không thành công nếu không có sự hiểu biết, chấp thuận và sự tham gia
tích cực của các thành viên trong gia đình. Liệu pháp gia đình có hiệu quả ở
những bệnh nhân có khả năng chống lại các can thiệp điều trị khác, đặc biệt là

những người có bố mẹ bị béo phì.
Can thiệp phẫu thuật
Hiện tại có một số phương pháp phẫu thuật làm giảm béo phì đã được sử dụng ở
người lớn và một số thanh thiếu niên (béo phì trung tâm, bệnh nhân ≥ 15 tuổi )
với chỉ số khối cơ thể (BMI) trên 40 kg / m2 hoặc trọng lượng trên 100% trọng
lượng cơ thể lý tưởng (IBW).
Phẫu thuật chữa bệnh béo phì có nhiều phương pháp khác nhau, chỉ
định cho từng trường hợp cụ thể. Các kỹ thuật bao gồm: dùng đai thắt dạ dày
(gastric banding), cắt tạo hình dạ dày hình ống (sleeve gastrectomy), các phẫu


thuật đảo dòng tá tràng, đặt bóng dạ dày... Hiện nay ở Bệnh viện Việt Đức chủ
yếu thực hiện hai phương pháp: phương pháp dùng đai thắt dạ dày và phương
pháp cắt tạo hình dạ dày hình ống.
Phương pháp dùng đai thắt dạ dày là kỹ thuật dùng một chiếc đai đặt
vòng quanh phần trên của dạ dày, tạo thành một túi nhỏ đựng thức ăn chỉ còn
khoảng 40-50ml. Người bệnh sẽ ăn ít đi nhưng sẽ thấy no nhanh hơn dù chỉ ăn
được lượng thức ăn vừa đủ để làm căng phần dạ dày rỗng đó, thậm chí không
còn có nhu cầu ăn. Tuy nhiên, thực tế cơ thể vẫn cần năng lượng để tồn tại, do
đó, lượng mỡ dư thừa lúc này sẽ được sử dụng, khiến trọng lượng cơ thể giảm
đi nhanh chóng.
Một phương pháp khác nữa là cắt tạo hình dạ dày hình ống chỉ để lại 1
phần nhỏ của dạ dày. Gần đây phương pháp này được áp dụng nhiều, đặc biệt là
những người thừa cân mà có bệnh đái tháo đường. Lúc đầu người ta sử dụng
phương pháp này để điều trị cho những người béo phì. Sau đó, người ta nhận
thấy những bệnh nhân đái tháo đường khi phẫu thuật điều trị béo phì thì tỷ lệ
khỏi bệnh đái tháo đường rất cao. Vì thế, người ta đã sử dụng biện pháp này
để đều trị cho những người đái tháo đường mà có thừa cân béo phì.
Chỉ phẫu thuật khi đáp ứng các điều kiện nhất định, bao gồm:
Tanner giai đoạn 4 hoặc 5 và đạt được chiều cao người trưởng thành; BMI> 40

kg / m2, hoặc chỉ số BMI> 35 kg / m2 kèm theo có các nguy cơ bệnh lý khác.
Béo phì không cải thiện sau can thiệp dù được dùng thuốc hay không dùng
thuốc.
Cơ sở phẫu thuật đảm bảo đủ điều kiện kỹ thuật và chuyên môn.
Vào năm 2015, Hiệp hội Tiêu hóa - gan mật- dinh dưỡng trẻ em Châu Âu đã
đưa ra các hướng dẫn sau đây về phẫu thuật ở trẻ em béo phì : (26,27)
• Xem xét phẫu thuật giảm béo ở những bệnh nhân "được lựa chọn cẩn thận"
với chỉ số khối cơ thể (BMI)> 40 kg/m2 mắc bệnh gan nặng như bệnh gan
nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) hoặc ở những người có BMI> 50kg / m 2
có bệnh nhẹ đi kèm.
• Các yếu tố bổ sung cần xem xét khi trẻ hoặc thanh thiếu niên phải trải qua
cuộc phẫu thuật giảm béo bao gồm sự trưởng thành về thể xác và tâm lý, mong
muốn cá nhân để trải qua quá trình, những nỗ lực giảm cân trước đó và khả
năng tuân theo các chăm sóc tiếp theo.
• Phẫu thuật Roux-en-Y nối tắt dạ dày, thắt đai dạ dày nội soi , và phẫu thuật cắt
tạo dạ dày hình ống là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất trong bệnh béo


phì ở trẻ em tuy nhiên có thể gây thiếu hụt dinh dưỡng về sau. Đặt thiết bị nội vị
tạm thời có thể coi như một biện pháp điều trị béo phì ở trẻ em.
• Bằng chứng hiện tại cho thấy phẫu thuật giảm béo có thể làm giảm mức độ
nhiễm mỡ máu, viêm gan và xơ gan ở bệnh nhân bị gan nhiễm mỡ không do
rượu
• Gan nhiễm mỡ không do rượu không biến chứng không có chỉ định phẫu thuật
giảm béo.
• Phẫu thuật Roux-en-Y nối tắt dạ dày được coi là một lựa chọn an toàn và hiệu
quả cho thanh thiếu niên béo phì nhiều và phải được điều trị hỗ trợ kéo dài.
• Thắt đai dạ dày nội soi không được khuyến cáo điều trị cho trẻ béo phì bởi
cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ.
• Phẫu thuật cắt đốt thu hẹp dạ dày và các loại phẫu thuật giảm cân khác đang

ngày càng phổ biến ở người lớn vẫn cần được nghiên cứu.
Phòng ngừa
Trong trường hợp không có nguyên nhân rõ ràng, cơ bản (ví dụ như thiếu hụt
leptin, các bất thường nội tiết khác), việc quản lý lâu dài bệnh béo phì vừa phải
hoặc bệnh béo ở tuổi trưởng thành là rất khó giải quyết và hiếm khi thành công.
Ngăn ngừa sự phát triển của chứng béo phì ở trẻ em và thanh thiếu niên có
nhiều khả năng làm giảm các biến chứng lâu dài hơn là điều trị chứng béo phì ở
người lớn (xem các biến chứng lâu dài của béo phì ở trẻ em theo tiên đoán).
Cần có những nghiên cứu sâu hơn để đạt được những điều sau:
• Xác định trẻ nhỏ có khuynh hướng béo phì vị thành niên và thành niên.
• Xác định những can thiệp ngăn ngừa sự phát triển của chứng béo phì ở trẻ em
có nguy cơ
• Đánh giá rủi ro lâu dài của chứng béo phì ở trẻ trước tuổi lên lớp
• Xác định các biện pháp ngăn ngừa tăng cân ở trẻ em và thanh thiếu niên có
chứng béo phì.
Trong năm 2010, Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ / Hiệp hội Đột quỵ American Hoa
Kỳ (AHA / ASA) đã ban hành hướng dẫn về phòng ngừa đột quỵ tiên phát. Một
vài khuyến cáo như sau: (28)


• Chế độ ăn kiêng và dinh dưỡng: Một chế độ ăn kiêng có hàm lượng natri thấp
và kali cao được khuyến cáo để giảm huyết áp; tăng cường việc tiêu thụ trái
cây, rau củ, và các sản phẩm sữa ít chất béo ví dụ như chế độ ăn ngăn ngừa
tăng huyết áp (DASH) giúp giảm huyết áp và làm giảm nguy cơ đột quỵ.
• Hoạt động thể chất: Tăng hoạt động thể chất giúp đến giảm nguy cơ đột quỵ.
Mục tiêu là tham gia vào ít nhất 30 phút hoạt động cường độ vừa phải hàng
ngày.
• Giảm cân ở những người thừa cân và béo phì được khuyến khích để làm giảm
huyết áp và nguy cơ đột quỵ
Tập có thói quen kết hợp tập thể dục và ăn uống lành mạnh là cần thiết và cùng

với đó là các phương pháp giáo dục thanh thiếu niên.
Trong một nghiên cứu tương quan để xác định ảnh hưởng của các can thiệp hoạt
động thể chất ở trường học lên chỉ số khối cơ thể (BMI) ở trẻ em.Harris và cộng
sự kết luận rằng các chính sách dựa vào dân số hiện nay nhằm tăng cường hoạt
động thể lực trong các trường học sẽ không có tác động đáng kể đến sự gia tăng
tỷ lệ hiện mắc béo phì ở trẻ em ngày càng gia tăng(29). Nghiên cứu phân tích cho
thấy BMI không cải thiện bởi các can thiệp hoạt động thể chất. Ngược lại, một
nghiên cứu của Thụy Điển của Marcus và cộng sự đã xác định rằng can thiệp ở
trường có thể làm giảm béo phì ở trẻ em 6-10 tuổi và có thể ảnh hưởng đến thói
quen ăn uống ở nhà. Nghiên cứu của 3135 nam sinh và nữ sinh cho thấy tỷ lệ
béo phì và sự thừa cân ở các trường học đã giảm 3.2%. Một nghiên cứu của Đức
cũng kết luận rằng can thiệp ở trường học có hiệu quả, sau khi nhận thấy rằng
can thiệp đã làm giảm 31% nguy cơ thừa cân (30) và một nghiên cứu của Hà Lan
đã báo cáo những tác dụng có ích của một chương trình can thiệp bệnh béo phì
ở Hà Lan.
Giám sát dài hạn
Thường xuyên theo dõi ở bệnh nhân béo phì vì những lý do sau:
• Củng cố các mục tiêu dinh dưỡng và mục tiêu hoạt động thể chất.
• Xác định các rào cản xã hội và tâm lý trẻ đối với liệu pháp
• Hỗ trợ và tư vấn gia đình
• Đánh giá sự phát triển, sự phát triển theo tuổi dậy thì và chức năng sinh sản


• Đánh giá độ dung nạp glucose và lipid trong chế độ ăn kiêng
• Xác định và quản lý các biến chứng cấp tính và mãn tính do béo phì
Vấn đề thuốc trong điều trị béo phì ở trẻ em
Vấn đề dùng thuốc trong điều trị hiện nay đang được biết đến và nghiên cứu.
Một thử nghiệm ngẫu nhiên của Orlistat ở thanh thiếu niên béo phì đã chứng
minh sự ổn định cân nặng và làm giảm mỡ cơ thể trong nhóm orlistat, trong khi
tăng đáng kể ở những bệnh nhân dùng giả dược. Tuy nhiên, có một nghiên cứu

thứ hai thất bại trong việc chứng minh bất kỳ lợi ích đáng kể nào từ điều trị
orlistat. Về việc sử dụng các thuốc gây chán ăn, một thử nghiệm ngẫu nhiên 12
tuần thử nghiệm giả dược Sibutramine ở 498 thanh thiếu niên đã chứng minh
một sự giảm đáng kể trong chỉ số khối cơ thể (BMI) (Sibutramine, -8,2% so với
giả dược, 0,8 %, mà không có bất kỳ ảnh hưởng tim mạch quan sát được. (31)
Mặc dù một số trong những phát hiện đầy hứa hẹn này, không nên thường
xuyên sử dụng các loại thuốc biếng ăn để phòng ngừa hoặc điều trị chứng béo
phì ở trẻ em hoặc thanh thiếu niên. Rõ ràng, các tác nhân này phải được tuyệt
đối cấm dùng cho trẻ đẻ non cho đến khi các nghiên cứu lâm sàng được kiểm
soát cẩn thận để đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả của chúng.Không dùng
thuốc cho trẻ <16 tuổi.Chỉ dùng thuốc kê theo đơn và kết hợp các chương trình
can thiệp.Cần ngưng dùng thuốc sau 12 tuần nếu BMI / BMI Z-score< 4% .Có
thể xem xét việc điều trị các chứng chán ăn ở trẻ vị thành niên giai đoạn sau
nhưng chỉ sau khi bệnh nhân không đáp ứng được những nỗ lực mạnh mẽ để
thay đổi hành vi, ăn kiêng và tương tác gia đình.
KẾT LUẬN :
Trẻ em từ 2 tuổi trở lên coi là thừa cân nếu chỉ số khối cơ thể (BMI) ≥ 85th
percentile và <95 percentile theo tuổi và giới tính; Béo phì nếu BMI là ≥95%;
Cực kỳ béo phì nếu BMI là ≥ 120% của 95th percentile, hoặc ≥35 kg / m2.
Trẻ em dưới 2 tuổi bị béo phì nếu cân nặng/chiều cao ≥97.7 percentile dựa vào
bảng tăng trưởng của WHO .
Trừ khi tốc độ tăng trưởng hoặc tốc độ tăng chiều cao giảm (điều chỉnh theo
chiều cao và giai đoạn dậy thì) thì không khuyến cáo các xét ngiệm đánh giá rối
loạn nội tiết. Không nên đo nồng độ insulin.


Cần xét nghiệm gen ở trẻ em béo phì <5 tuổi có các đặc điểm lâm sàng của hội
chứng béo phì di truyền (đặc biệt trẻ mắc chứng ăn nhiều hoặc tiền sử gia đình
mắc chứng ăn nhiều). Các hội chứng di truyền thể hiện với chứng béo phì có thể
có hoặc không có sự chậm phát triển liên quan hoặc chứng loạn dưỡng.

Trẻ bị BMI ≥85% nên được đánh giá nguy cơ tiền tiểu đường, bệnh tiểu đường,
rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu, hội chứng
buồng trứng đa nang, ngừng thở khi ngủ, rối loạn tâm thần.
Giáo dục về kiểm soát chế độ ăn uống thường xuyên.
Đề nghị ít nhất 20 phút (tốt nhất là 60 phút) hoạt động thể lực vừa và mạnh mỗi
ngày,giới hạn thời gian xem TV, sử dụng máy tính 1-2 giờ mỗi ngày và ngủ đủ
giấc.
Chỉ dùng các loại thuốc điều trị béo phì được FDA chấp nhận khi các biện pháp
can thiệp thất bại hoặc tăng cân không kiểm soát được
Không dùng thuốc cho trẻ <16 tuổi.Chỉ dùng thuốc kê theo đơn và kết hợp các
chương trình can thiệp.Cần ngưng dùng thuốc sau 12 tuần nếu BMI / BMI Zscore giám < 4%
Chỉ phẫu thuật khi đáp ứng các điều kiện nhất định, bao gồm:
Tanner giai đoạn 4 hoặc 5 và đạt được chiều cao người trưởng thành; BMI> 40
kg / m2, hoặc chỉ số BMI> 35 kg / m2 kèm theo có các nguy cơ bệnh lý khác.
Béo phì không cải thiện sau can thiệp dù được dùng thuốc hay không dùng
thuốc.
Cơ sở phẫu thuật đảm bảo đủ điều kiện kỹ thuật và chuyên môn.

Tài liệu tham khảo
1. Ogden CL, Yanovski SZ, Carroll MD, Flegal KM. The epidemiology of
obesity. Gastroenterology. May 2007. 132:2087-2102.


2. Nguyễn Văn Sơn. Thừa cân, béo phì. Sách giáo khoa nhi khoa. 2016. 141144.
3. Dennis M. Styne, Silva A. Arslanian, Ellen L. Connor, Ismaa Sadaf
Farooqi,M. Hassan Murad, Janet H. Silverstein, Jack A. Yanovski.Pediatric
Obesity—Assessment, Treatment, and Prevention: An Endocrine Society
Clinical Practice Guideline.J Clin Endocrinol Metab (2017) 102 (3): 709-757.
4. Huh S, Rifas-Shiman S, Taveras E, Oken E, Gillman M. Timing of solid food
introduction and risk of obesity in preschool-aged children. Pediatrics. 2011

Mar. 127(3):e544-51.
5. D'Adamo E, Cali AM, Weiss R, Santoro N, Pierpont B, Northrup V. Central
role of fatty liver in the pathogenesis of insulin resistance in obese
adolescents. Diabetes Care. 2010 Aug. 33(8):1817-22
6. Juonala M, Magnussen CG, Berenson GS, et al. Childhood adiposity, adult
adiposity, and cardiovascular risk factors. N Engl J Med. 2011 Nov 17.
365(20):1876-85.
7. Rosen CL. Clinical features of obstructive sleep apnea hypoventilation
syndrome in otherwise healthy children. Pediatr Pulmonol. 1999 Jun.
27(6):403-9

8. Neumark-Sztainer D, Wall M, Story M, Standish AR. Dieting and unhealthy
weight control behaviors during adolescence: associations with 10-year changes
in body mass index. J Adolesc Health. 2012 Jan. 50(1):80-6.
9.Brown T. Obesity, High BMI Raise Hypertension Risk in Kids, Teenagers.
Medscape Medical News. Available
10. Parker ED, Sinaiko AR, Kharbanda EO, Margolis KL, Daley MF, Trower
NK, et al. Change in Weight Status and Development of
Hypertension. Pediatrics. 2016 Mar. 137 (3):1-9.
11. Crowley D, Khoury P, Urbina E, Ippisch H, Kimball T. Cardiovascular
Impact of the Pediatric Obesity Epidemic: Higher Left Ventricular Mass is
Related to Higher Body Mass Index. J Pediatr. 2011 May. 158(5):709-714.e1.


12. Tirosh A, Shai I, Afek A, Dubnov-Raz G, et al. Adolescent BMI trajectory
and risk of diabetes versus coronary disease. N Engl J Med. 2011 Apr 7.
364(14):1315-25
13. Akin L, Kurtoglu S, Yikilmaz A, Kendirci M, Elmali F, Mazicioglu M. Fatty
liver is a good indicator of subclinical atherosclerosis risk in obese children and
adolescents regardless of liver enzyme elevation. Acta Paediatr. 2012 Nov 28.

14. Di Sario A, Candelaresi C, Omenetti A, Benedetti A. Vitamin E in chronic
liver diseases and liver fibrosis. Vitam Horm. 2007. 76:551-73
15. Mangner N, Scheuermann K, Winzer E, Wagner I, Hoellriegel R, Sandri M,
et al. Childhood obesity: impact on cardiac geometry and function. JACC
Cardiovasc Imaging. 2014 Dec. 7(12):1198-205.
16. O'Riordan M. Obesity in Kids Affects Heart Shape, Functional Impairments.
Medscape Medical News. Available
at Accessed: December 17,
2014.
17. Maffeis C, Pinelli L, Brambilla P, Banzato C, Valzolgher L, Ulmi D, et al.
Fasting plasma glucose (FPG) and the risk of impaired glucose tolerance in
obese children and adolescents. Obesity (Silver Spring). 2010 Jul. 18(7):143742.
18. Kalarchian MA, Levine MD, Arslanian SA, et al. Family-based treatment of
severe pediatric obesity: randomized, controlled trial. Pediatrics. 2009 Oct.
124(4):1060-8.
19. Wildes JE, Marcus MD, Kalarchian MA, et al. Self-reported binge eating in
severe pediatric obesity: impact on weight change in a randomized controlled
trial of family-based treatment. Int J Obes (Lond). 2010 Jul. 34(7):1143-8.
20. Nobili V, Vajro P, Dezsofi A, Fischler B, Hadzic N, Jahnel J, et al.
Indications and Limitations of Bariatric Intervention in Severely Obese
Children and Adolescents With and Without Non-alcoholic Steatohepatitis: the
ESPGHAN Hepatology Committee Position Statement. J Pediatr Gastroenterol
Nutr. 2015 Feb 2
21. Tucker ME. New Guidelines Address Bariatric Surgery in Children.
Medscape Medical News. Available
at Accessed: February 27, 2015.


22. Duckworth LC, Gately PJ, Radley D, Cooke CB, King RF, Hill AJ. RCT of
a high-protein diet on hunger motivation and weight-loss in obese children: an

extension and replication. Obesity (Silver Spring). 2009 Sep. 17(9):1808-10.
23. Hooper L, Abdelhamid A, Moore HJ, Douthwaite W, Skeaff CM,
Summerbell CD. Effect of reducing total fat intake on body weight: systematic
review and meta-analysis of randomised controlled trials and cohort
studies. BMJ. 2012 Dec 6. 345:e7666.
24. Guideline: Sugars Intake for Adults and Children. Geneva: World Health
Oganization, 2015. Available
at />25. Pavey TG, Taylor AH, Fox KR, et al. Effect of exercise referral schemes in
primary care on physical activity and improving health outcomes: systematic
review and meta-analysis. BMJ. 2011 Nov 4. 343:d6462
26. Oude Luttikhuis H, Baur L, Jansen H, et al. Interventions for treating
obesity in children. Cochrane Database Syst Rev. 2009 Jan 21. CD001872.
27. [Guideline] Goldstein LB, Bushnell CD, Adams RJ, Appel LJ, Braun LT,
Chaturvedi S, et al. Guidelines for the Primary Prevention of Stroke. A
Guideline for Healthcare Professionals From the American Heart
Association/American Stroke Association. Stroke. 2010 Dec 6.
28. Harris KC, Kuramoto LK, Schulzer M, Retallack JE. Effect of school-based
physical activity interventions on body mass index in children: a metaanalysis. CMAJ. 2009 Mar 31. 180(7):719-26.
29. Muckelbauer R, Libuda L, Clausen K, Toschke AM, Reinehr T, Kersting M.
Promotion and provision of drinking water in schools for overweight
prevention: randomized, controlled cluster trial. Pediatrics. 2009 Apr.
123(4):e661-7.
30. Daniels SR, Long B, Crow S, et al. Cardiovascular effects of sibutramine in
the treatment of obese adolescents: results of a randomized, double-blind,
placebo-controlled study. Pediatrics. 2007 Jul. 120(1):e147-57.
31. Singh AS, Chin A Paw MJ, Brug J, van Mechelen W. Dutch obesity
intervention in teenagers: effectiveness of a school-based program on body
composition and behavior. Arch Pediatr Adolesc Med. 2009 Apr. 163(4):30917.



×