A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề án
Có thể nói rằng, mọi thời đại, mọi hệ thống chính trị và mọi dân tộc ở mọi
nơi trên thế giới đều phải đối mặt với tham nhũng với nhiều biến thái tinh vi.
Trong công cuộc xây dựng đất nước phát triển và giàu mạnh, Đảng và Nhà
nước ta tích cực thực hiện các biện pháp nhằm minh bạch hóa nguồn tài sản
nhà nước cũng như cơ chế chống thất thoát lãng phí nguồn tài sản quốc gia,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như xây dựng một Việt Nam giàu mạnh
văn minh. Là một nước đang phát triển nên Việt Nam có tệ nạn tham nhũng
khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thực tế đó buộc chúng
ta phải có cơ chế nhất định để đảm bảo tính minh bạch trong quản lý nhà nước
cũng như xây dựng đất nước ta. Tham nhũng là một hiện tượng mà bất kỳ một
xã hội thể chế nào cũng có là một trong những tệ nạn phổ biến và gây thiệt hại
lớn cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến nền văn hóa xã hội và thể chế chính trị
quốc gia. Đã hằng bao năm mọi chính phủ mọi nhà cầm quyền đều cố gắng
ngăn chặn tham nhũng, nhưng bên cạnh những thành tựu đạt được thì những
hạn chế và những thuộc tính vốn có của tham nhũng mang tính cố hữu đã gây
ra những khó khăn nhất định cho công cuộc phòng chống tham nhũng. Một
trong những kết cấu mang tính nội tại bền vững mà tham nhũng luôn có là yếu
tố xã hội, để làm trong sạch nó thì xã hội cần phải có những hành động thiết
thực cùng với nhà nước thể hiện sự phản đối của mình đối với tham nhũng.
Trong thời kỳ hiện nay cùng với việc phát triển kinh tế xã hội tệ nạn tham
nhũng xuất hiện và ngày càng có chiều hướng phát triển tăng cao cả về số
lượng và tính chất nghiêm trọng. Việt Nam là nước đang phát triển, một xu
hướng chung của toàn thế giời là tham nhũng ở trong nhóm nước này thường
rất cao do nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân chính đó là vai trò của các
cấp quản lý nhà nước chưa thật chú trọng đúng mức đến ảnh hưởng của tham
nhũng đến xã hội nói chung là nhà nước và xã hội chưa thật sự vào cuộc để
chống tham nhũng. Tham nhũng gây ra thiệt hại cho nhà nước và đó cũng
chính là gián tiếp gây thiệt hại cho nhân dân vì tài sản của nhà nước cũng
chính là tài sản của nhân dân mà có, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chế
độ.
Trong thời gian qua, được sự quan tâm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, cùng sự
1
nỗ lực của cấp ủy, chính quyền và sự sự ủng hộ của nhân dân trong quá trình
triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa cùng với đấu tranh mạnh mẽ,
xử lý kiên quyết các hành vi tham nhũng về cả hành chính và hình sự nên tình
hình tham nhũng trên địa bàn thành phố đã có tác động tích cực, tạo ra chuyển
biến bước đầu trên một số lĩnh vực công tác, tham nhũng đã có bước được
kiềm chế; người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương bước đầu đã thể
hiện vai trò trách nhiệm của mình trong công tác đấu tranh phòng, chống tham
nhũng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phòng, chống
tham nhũng ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế thời gian qua còn bộc lộ
hạn chế, yếu kém, đó là: tình hình tham nhũng vẫn còn diễn biến phức tạp với
nhiều thủ đoạn tinh vi, khó phát hiện, diễn ra trên nhiều lĩnh vực như: đất đai,
quản lý và sử dụng tài sản công, đầu tư xây dựng, giao dịch hành chính, tuyển
dụng cán bộ công chức, viên chức vẫn còn diễn biến phức tạp, gây bức xúc
trong nhân dân và doanh nghiệp,...
Tình hình trên, nếu không được ngăn chặn, kìm chế kịp thời sẽ trực tiếp tác
động đến sự phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội địa phương, làm giảm sút
hình ảnh của địa phương trong con mắt của các nhà đầu tư muốn đầu tư làm ăn
tại thành phố. Nghiêm trọng hơn, nếu tham nhũng không được ngăn chặn sẽ
làm suy yếu bộ máy chính quyền, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước sẽ bị giảm sút, đe dọa đến sự tồn vong của chế độ.
Vì vậy, việc xây dựng đề án “Nâng cao hiệu quả công tác phòng chống
tham nhũng ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế” là hết sức cần thiết và
cấp bách trong nhiệm vụ phòng chống tham nhũng hiện nay, để thực hiện có
hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, Chiến lược quốc gia về phòng,
chống tham nhũng đến năm 2020 trên địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên
Huế. Với những giải pháp tích cực, thiết thực mà đề án đưa ra sẽ giúp cho cấp
ủy và chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương
vận dụng để thực hiện có kết quả công tác phòng, chống tham nhũng trong từng
cơ quan, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề án
2.1. Mục đích
Góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng ở thành
phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.2. Nhiệm vụ
2
- Đề án hệ thống hóa những vấn đề cơ bản, cốt lõi về lý luận, chính trị pháp lý, thực tiễn về công tác phòng chống tham nhũng.
- Phân tích thực trạng công tác phòng chống tham nhũng ở thành phố
Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế thời gian qua.
- Đề xuất các giải pháp thực hiện hiệu quả hơn công tác phòng, chống
tham nhũng góp phần từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, tiêu
cực, lãng phí ở từng cơ quan, đơn vị địa phương mình, củng cố lòng tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo đúng đắng của Đảng ta trong tình hình mới.
- Tổ chức thực hiện Đề án.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề án tập trung nghiên cứu việc triển khai, thực hiện công tác phòng,
chống tham nhũng của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
- Thời gian: Đề án đánh giá công tác phòng chống tham nhũng của thành
phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2011 - 2015, đề xuất giải pháp đến
2020.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề án
Đề án cung cấp những vấn đề cơ bản, cốt lõi về lý luận, thực tiễn và những
giải pháp cụ thể, qua đó giúp cho các cấp ủy, chính quyền nhận thức đầy đủ và
đề ra các giải pháp thực hiện hiệu quả hơn công tác công tác phòng, chống
tham nhũng góp phần từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, tiêu
cực, lãng phí ở từng cơ quan, đơn vị địa phương mình, củng cố lòng tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo đúng đắng của Đảng ta trong tình hình mới.
5. Kết cấu của đề án
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và kiến nghị, Danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung cơ bản của Đề án gồm 4 phần:
- Phần thứ nhất: Cơ sở lí luận, cơ sở chính trị - pháp lí và cơ sở thực tiễn
về công tác phòng, chống tham nhũng ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
- Phần thứ hai: Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên
Huế trong thời gian tới.
- Phần thứ ba: Tổ chức thực hiện Đề án.
3
- Phần thứ tư: Dự kiến kết quả.
B. NỘI DUNG
PHẦN THỨ NHẤT:
CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ
VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG Ở THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng đã và đang xảy ra phổ biến trong xã hội, trở
thành quốc nạn chung của các quốc gia, làm tổn hại đến chính phủ, làm mất uy tín
của cơ quan công quyền và có ảnh hưởng rất lớn đối với người nghèo.
Theo Điều 1 của Pháp lệnh phòng chống tham nhũng số 03/1998/PLUBTVQH10, ngày 26/02/1998: Tham nhũng là “hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm
trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể
và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”.[9,tr.1]
Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 qui định: “Tham nhũng là hành
vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó vì vụ
lợi”.[8,tr.1]
Đây là một khái niệm tương đối bao quát, đủ để xác định bản chất của
hành vi tham nhũng phổ biến trong xã hội Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Nguồn gốc tham nhũng
Tham nhũng xuất hiện từ rất sớm từ khi có sự phân chia quyền lực và hình
thành nhà nước. Có ý kiến cho rằng tham nhũng bắt nguồn từ nền văn hóa độc
tài đề cao cá nhân, coi trọng biếu xén. Ý kiến khác cho rằng: xã hội thay đổi
các chuẩn mực về đạo đức, xã hội biến đổi liên tục, nền kinh tế biến đổi mạnh
sinh ra tham nhũng.
Tham nhũng thường xuất hiện nhiều hơn từ các nước có nền kinh tế kém
phát triển hoặc có mức thu nhập bình quân đầu người thấp. Tại các nước này
con người thường có ý đồ nắm các cương vị cao trong hàng ngũ lãnh đạo để
tham nhũng. Đối với một số nước kinh tế phát triển, có mức thu nhập bình quân
đầu người cao, các cá nhân có sở hữu tài sản lớn mới bắt đầu tham gia chính
trường để làm lãnh đạo.
4
Tham nhũng là căn bệnh muôn thuở, và cội nguồn của nó là thuộc tính tự
nhiên của con người. Khi xây dựng một lý luận, một tiêu chuẩn trong lĩnh vực
tư tưởng hay đạo đức xã hội, một khuynh hướng thường thấy là người ta không
hoặc cố tình không nhìn nhận những gì đang tồn tại trong thực tế với đầy đủ
các khuyết tật tự nhiên của nó. Nếu nhìn nhận một cách tỉnh táo, chúng ta
không thể không thừa nhận sự tồn tại của những mặt khuyết tật, cái mà chúng
ta thường gọi là các căn bệnh xã hội. Trong vấn đề đang nghiên cứu, chúng ta
buộc phải thừa nhận rằng tham nhũng tồn tại trong mọi xã hội. Mọi thời đại,
mọi hệ thống chính trị và mọi dân tộc ở mọi nơi trên thế giới đều phải đối mặt
với tham nhũng với nhiều biến thái tinh vi. Thậm chí nếu nhìn nhận một cách
nghiêm khắc, người ta sẽ thấy rằng tham nhũng còn diễn ra dưới cả các mái
nhà ít nhiều yên ấm, nơi các bậc gia trưởng dựa vào quyền của mình để phân
phối vật chất và tinh thần một cách không bình đẳng.
Mặc dù là một hiện tượng muôn thuở, tham nhũng ở mỗi quốc gia, mỗi
thời đại lịch sử, chịu tác động của những nhân tố kinh tế - chính trị - xã hội
khác nhau. Để chống tham nhũng hiệu quả cần phải dựa trên cơ sở phân tích
khoa học những nhân tố đó. Dưới đây đưa ra những phân tích sơ bộ:
1.1.2.1. Về mặt chính trị
Tham nhũng là kết quả của hệ thống chính trị thiếu khả năng tự kiểm soát.
Một hệ thống chính trị không xây dựng được các tiêu chuẩn, không tự kiểm
soát được, để cho quyền lực bị đánh cắp đại trà trên quy mô xã hội, dưới mọi
hình thức, mọi mức độ sẽ tạo cơ hội tốt cho tham nhũng phát triển. Hệ thống
chính trị thiếu khả năng tự kiểm soát sẽ làm xuất hiện sự nhập nhằng trong
nhận thức và những cơ cấu không được pháp chế hóa. Tất cả những yếu tố này
giải thích tại sao trong thời đại chúng ta, tham nhũng lại nở rộ tại những quốc
gia có nền chính trị không chuyên nghiệp, hay nói một cách giản dị, tại những
quốc gia trong đó nền chính trị tuột khỏi tầm kiểm soát của xã hội.
Tham nhũng là kết quả của tình trạng thiếu dân chủ trong sinh hoạt chính
trị. Tham nhũng gắn liền với bản chất con người, nhưng không phải bất kỳ ai
cũng tham nhũng và cũng có thể tham nhũng. Để tham nhũng phải có quyền
hoặc quyền lực. Ngoài ra, tham nhũng phụ thuộc vào các cơ chế xã hội có
nhiệm vụ ức chế hành vi tham nhũng. Khi một quốc gia lâm vào tình trạng
thiếu dân chủ trong sinh hoạt chính trị, những người thoát khỏi sự ức chế của
các cơ chế xã hội sẽ lợi dụng, lạm dụng quyền lực, địa vị, uy tín xã hội để thực
5
hiện hành vi tham nhũng. Cùng với tình trạng thiếu dân chủ trong sinh hoạt
chính trị, sự thiếu công khai trong đời sống chính trị cũng tạo ra không gian đen
tối cho hiện tượng tham nhũng phát sinh và phát triển.
1.1.2.2. Tham nhũng là hậu quả của môi trường kinh tế thiếu minh bạch
Môi trường kinh tế thiếu minh bạch là mảnh đất tốt cho các hành vi tham
nhũng sinh sôi nảy nở. Điều này lý giải tại sao tham nhũng tại các nước đang
phát triển trầm trọng hơn nhiều so với các nước phát triển, nơi có môi trường
kinh tế minh bạch hơn. Tại những nước có môi trường kinh tế kém minh bạch,
việc trốn thuế diễn ra tràn lan, lý do đơn giản là tại đó hành vi này dễ dàng thực
hiện trót lọt hơn tại các quốc gia khác.
Trong môi trường kinh tế thiếu minh bạch, sự can thiệp thái quá và nhiều
khi thô bạo của các cơ quan nhà nước vào hoạt động kinh doanh làm méo mó
các quan hệ kinh tế - xã hội. Đó là tình trạng thích hợp, là cơ hội vàng để các
quan tham dễ bề trục lợi.
1.1.2.3. Về mặt Nhà nước
Tham nhũng là con đẻ của những thể chế tồn tại bất hợp lý và bị độc
quyền lũng đoạn. Chúng ta đã thấy tham nhũng phát triển cả về hình thức lẫn
quy mô cùng với sự phát triển của xã hội, nhưng điều đó không có nghĩa là có
một sự tương quan tỷ lệ nào đó giữa tham nhũng và phát triển. Quy mô tham
nhũng lệ thuộc nhiều vào tính chất của thể chế nhà nước. Chẳng hạn tại các
quốc gia nghèo khổ Châu Phi, nơi tập trung nhiều thể chế lạc hậu và phi dân
chủ, các quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị bị phân chia một các tùy tiện
hoặc không được bảo vệ và sử dụng cẩn trọng, tức là các quyền lực này dễ bị
tham nhũng để mở đường cho nạn tham nhũng tràn lan trong xã hội. Các thể
chế này không đủ năng lực để tự kiểm soát, nhưng lại ra sức ngăn cản việc
xây dựng một thể chế mới có thể quản lý xã hội hữu hiệu hơn. Tình trạng bất
hợp lý của thể chế có thể thấy rõ ở những quốc gia mà một bộ phận nhân lực
quan trọng của nó được trả lương quá thấp so với nhu cầu tối thiểu của cuộc
sống. Thể chế bất hợp lý đã buộc nhiều người phải tham nhũng để sống, để
tồn tại.
1.1.2.4. Tham nhũng là kết quả của tình trạng các quyền và lợi ích cá nhân
bị hạn chế hoặc chưa được hợp pháp hóa
Tình trạng nhiều quyền lợi chính đáng của cá nhân không được hợp pháp
hóa hoặc bị hạn chế có thể quan sát thấy tại nhiều quốc gia chậm phát triển. Ta
6
có thể lấy ví dụ như tình trạng “ngăn sông cấm chợ” tại Việt Nam trước đây
hay sự hạn chế các hoạt động của nữ giới tại Afghanistan mới đây, khi chỉ vì
những suy nghĩ thiển cận, người ta muốn tối thiểu hóa không gian sống của
mỗi cá nhân. Điều này trên thực tế đã đẩy nhiều người vào vòng xoáy tham
nhũng để thỏa mãn các khát vọng thật ra là chính đáng của họ. Điều nguy hiểm
là ở chỗ tình trạng này sẽ tạo ra sự nhập nhằng về nhận thức. Việc thay thế các
quy định của pháp luật bằng những thỏa thuận ngầm trên quy mô xã hội hoặc
đạo đức xã hội khiến các nhóm lợi ích luôn chèn ép, chen lấn lẫn nhau trên
cùng một cá nhân. Nếu chúng ta tạo cho cá nhân một không gian sống tốt, nếu
chúng ta hợp pháp hóa các quyền cá nhân chính đáng để mỗi cá nhân có thể
phát huy tối đa sức sống, sức sáng tạo của họ trong khuôn khổ pháp luật, chắc
chắn rất nhiều người bình thường sẽ sống và ứng xử theo những chuẩn mực
được chấp nhận rộng rãi trong xã hội.
1.1.2.5. Về mặt văn hóa xã hội
Tham nhũng bắt nguồn từ sự đạo đức giả của hệ thống chính trị - xã hội.
Hệ thống xã hội được xây dựng trên nền tảng đạo đức giả này đã đẩy nhiều
người phải sống với bộ mặt giả tạo. Chẳng hạn, việc trả công chủ yếu không
theo hình thức tiền lương mà dưới hình thức các tiêu chuẩn hưởng thụ là cơ sở
kinh tế của một lối sống đạo đức giả. Một ví dụ khác có thể thấy ở nhiều nền
kinh tế chuyển đổi, khi người ta thủ tiêu chế độ đặc quyền đặc lợi, nhưng lại
không có biện pháp cân bằng các lợi ích bị đột ngột xóa đi ấy, dẫn đến kết quả
là một số người tìm đến những biện pháp phi pháp để giành lại những gì đã
mất.
Với cách nhìn như vậy, chúng ta thấy rằng đôi khi các vị quan tham vừa là
thủ phạm, vừa là nạn nhân của một hệ thống xã hội xa lạ với bản chất con người.
Tham nhũng còn được hỗ trợ bởi những yếu tố tiêu cực trong nền văn hóa, chẳng
hạn tính gia trưởng vốn là một đặc điểm rất rõ nét tại nhiều nước Châu Á.
1.1.2.6. Về mặt nhân văn
Tham nhũng là hậu quả của quan niệm lệch lạc và thái độ thiếu tôn trọng
các giá trị cá nhân. Các giá trị cá nhân không được tôn trọng sẽ dẫn đến sự xâm
hại các giá trị công cộng. Điều này có vẻ ngược đời nhưng thực ra rất hợp lôgíc. Trên thực tế, việc chống chủ nghĩa cá nhân một cách thái quá luôn luôn
dẫn đến một tình trạng cực đoan trong đời sống tinh thần của xã hội. Tâm lý
xem nhẹ, nếu không muốn nói là bài bác các giá trị cá nhân khiến người ta tìm
7
mọi cách tối thiểu hóa không gian sống của cá nhân, làm cho con người thiếu ý
thức trách nhiệm về hành vi của mình, dễ dàng bằng lòng với thực tại, dễ dàng
tham nhũng, tiếp tay hoặc ít nhất là mặc nhiên thừa nhận tham nhũng. Sự ngộ
nhận về giá trị cá nhân và giá trị tập thể còn dẫn đến cả hiện tượng tham nhũng
mang tính tập thể, nghĩa là có sự kết cấu, đồng tình để tiến hành hành vi tham
nhũng trên quy mô lớn hơn. Đó là gì nếu không phải là mầm mống của tội
phạm có tổ chức? Còn nếu cá nhân nào không chịu tham nhũng, họ sẽ không
còn là người của tập thể, họ sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Điều này giải thích tại
sao tham nhũng tại những nước có sự nhìn nhận sai lạc về cá nhân và tập thể lại
càng trầm trọng và khó đẩy lùi hơn nhiều nước khác.
1.1.3. Các hình thức tham nhũng
1.1.3.1. Nhìn nhận dưới góc độ kinh tế
Tham nhũng gắn với những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến những hoạt
động kinh tế, tài chính ở khu vực công như mua sắm công, xây dựng các công
trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội sử dụng vốn ngân sách. Ở những lĩnh vực
này, tham nhũng thường là việc lợi dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý,
điều hành, nhưng cũng có liên quan đến sự chi phối của yếu tố quyền lực, tạo
nên nhiều cách “bòn rút” công quỹ, hệ quả của loại hình tham nhũng này
thường là làm giảm hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng, hạn chế số lượng các dịch vụ công cộng được cung cấp, qua đó tác
động nhiều mặt đến phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Tham nhũng xuất hiện dưới dạng lợi dụng sức mạnh “quyền lực” để
mưu toan lợi ích kinh tế cho cá nhân hoặc cho một nhóm người nhất định.
Hành vi này thường xảy ra ở những cơ quan công quyền và được thực hiện
bởi những người nắm quyền lãnh đạo, điều hành các cơ quan công quyền,
hoặc có ảnh hưởng quyết định đến các thiết chế vận hành của hệ thống.
Thông thường, với loại hình tham nhũng này, cái mất trước mắt là thiệt hại
kinh tế cho mục tiêu, chiến lược phát triển chung của cộng đồng, nhưng
nguy hại hơn là làm mất lòng tin của người dân đối với bộ máy lãnh đạo,
đối với chủ trương, đường lối của bộ máy Nhà nước và điều đó nếu để phát
triển rộng, thì nguy cơ mất ổn định xã hội là khá rõ ràng và định hướng xã
hội chủ nghĩa có lẽ chỉ còn là ước nguyện xa vời.
1.1.3.2. Nhìn nhận dưới góc độ chính trị
Tham nhũng qua việc bổ nhiệm hay bầu chọn quan chức công thường
8
được thực hiện dưới dạng thức người có quyền lực chính trị cao hơn, tạo ra
các cơ hội, các ưu tiên riêng cho các đối tượng họ muốn được lựa chọn, để có
được những đặc ân này, các đối tượng được lựa chọn phải “chăm lo” cho các
quan chức cấp trên dưới nhiều hình thức quà biếu, quà tặng hay những cơ hội
có tiền, có lợi khác nhau và hứa hẹn tiếp tục duy trì nguồn lợi này cho người
tiến cử khi đã được đắc cử. Có thể nói, về mặt chính trị xã hội, thiệt hại và
nguy hại lại vô cùng lớn bởi loại hình tham nhũng này vô hình chung đang
tiếp tay tạo dựng một xã hội phe phái, cơ hội. Điều này đồng nghĩa với việc
hình thành những mâu thuẫn xã hội, tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn chính trị
và rối ren hệ thống chính trị xã hội và như vậy nhân tố tiêu cực sẽ chi phối,
điều chỉnh các hành vi xã hội.
1.1.4. Đối tượng tham nhũng và các hành vi tham nhũng
1.1.4.1. Đối tượng tham nhũng
Theo quan điểm chung, đối tượng tham nhũng phải là người có chức vụ,
quyền hạn trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức, đơn vị
khác theo quy định của pháp luật.
Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 quy định 04 nhóm người có chức
vụ, quyền hạn bao gồm:
a. Cán bộ, công chức, viên chức;
b. Sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ
quan, hạ sỹ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan đơn vị thuộc Công an
nhân dân;
c. Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh
đạo, quản lý người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;
d. Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ.[8,tr.1]
Nhóm thứ nhất nêu tại điểm a là cán bộ, công chức, viên chức được quy
định cụ thể trong Luật cán bộ, công chức năm 2010. Đây là nhóm đối tượng
chủ yếu, chiếm tỷ lệ lớn về số lượng trong số người có chức vụ, quyền hạn
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, cán
bộ, công chức, viên chức cũng là nhóm đối tượng thường nắm giữ những vị trí,
công việc liên quan đến vốn, tài sản nhà nước hoặc tiếp xúc trực tiếp, giải
quyết công việc của công dân, doanh nghiệp, có nhiều cơ hội để thực hiện hành
vi tham nhũng nên cần được thể chế hóa và giám sát chặt chẽ để giảm thiểu
9
nguy cơ tham nhũng.
Nhóm thứ hai gồm những người có chức vụ, quyền hạn nêu tại điểm b là
nhóm đối tượng có địa vị pháp lý tương đối đặc thù, thuộc các lực lượng vũ
trang nhân dân và được quy định cụ thể tại Luật Quốc phòng và Luật Công an
nhân dân.
Nhóm thứ ba nêu tại điểm c có thể được chia thành hai loại: thứ nhất,
những cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước, theo đó,
doanh nghiệp của Nhà nước được hiểu là doanh nghiệp một trăm phần trăm
vốn Nhà nước; thứ hai, cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn
góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp khác.
Nhóm thứ tư là những người nêu tại điểm d cũng đã được quy định là
người có chức vụ, quyền hạn tại Phần các tội phạm về chức vụ của Bộ luật
Hình sự. Theo đó, bên cạnh đối tượng là cán bộ, công chức nhà nước, những
người tuy không phải là cán bộ, công chức nhưng được giao nhiệm vụ, công
vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó cũng được coi
là người có chức vụ, quyền hạn và thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng
chống tham nhũng.
1.1.4.2. Các hành vi tham nhũng
Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Người có chức vụ là người do bổ
nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương
hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có
quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”.[2,tr.81]
Luật Phòng, chống tham nhũng đã quy định bổ sung người có chức vụ
quyền hạn còn bao gồm: "Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có
quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó” [8,tr.1], nghĩa là khái
niệm chức vụ, quyền hạn được mở rộng không chỉ trong phạm vi thực hiện
công vụ, mà còn cả trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Theo Điều 3 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 thì các hành vi sau
đây là hành vi tham nhũng: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ
vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục
lợi; Giả mạo trong công tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực
hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ
10
chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng
trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Không thực
hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho
người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật
vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì
vụ lợi. [8,tr.1-2]
1.1.5. Nguyên nhân tham nhũng
Trong thời gian qua cuộc đấu tranh tham nhũng của Đảng và Nhân dân ta
diễn ra rất quyết liệt và đã thu được kết quả bước đầu song đến nay có thể nói
nạn tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi một cách cơ bản. Tình hình vẫn diễn ra
phức tạp, có nơi có chiều hướng gia tăng với những thủ đoạn hết sức tinh vi, có
trường hợp câu kết, móc nối ngang dọc giữa các phần tử thoái hoá biến chất
trong các cơ quan Nhà nước và ngoài xã hội, rất khó phát hiện làm cho cuộc đấu
tranh chống tham nhũng hết sức khó khăn. Vậy do những nguyên nhân chủ yếu
nào?
Nguyên nhân đầu tiên có tính sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột
người sinh ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là
những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư tự lợi, ích kỷ hại nhân mà ra, nó
do chế độ người bóc lột người mà ra”. Một đặc điểm nổi bật của sự vận động
xã hội, khác với mọi sự vận động vật chất khác trong giới tự nhiên ở chỗ con
người hành động đều tính đến lợi ích hoặc mục đích. Mọi hành vi tham nhũng
đều là nhằm thực hiện một mục đích tư lợi ích kỷ nào đó. Bởi vậy chế độ tư
hữu chính là cơ sở tư tưởng của các hành vi tham nhũng. Không có tư tưởng tư
lợi ích kỷ sẽ không có tham nhũng thiệt người lợi mình.
Nguyên nhân thứ hai gây ra tham nhũng là do luật pháp về sở hữu không rõ
ràng, chủ thể sở hữu không được định rõ làm cho người có quyền lợi dễ biến của
công thành của tư, còn quần chúng vì không rõ tài sản đó là của mình nên để mặc
kẻ xấu tung hoành. Chính sự yếu kém của luật pháp trong quản lý đã làm cho các
vấn đề kinh tế trở thành khuất tất, không rõ ràng, tạo kẽ hở cho kẻ xấu tham
nhũng.
Nguyên nhân thứ ba gây ra tham nhũng là sự hư hỏng và kéo bè kéo cánh
của các giới nắm giữ guồng máy quyền lực, họ bao che nhau, họ ủng hộ và
chạy tội cho nhau, đây là một thực tế đang xảy ra ở rất nhiều nước.
Nguyên nhân thứ tư gây ra tệ nạn tham nhũng là bản chất của nền kinh tế
11
thị trường, của việc tự do hoá cạnh tranh đã tạo ra.
Nguyên nhân thứ năm là sự tê liệt ý chí của công dân, do mất lòng tin vào
bộ máy Nhà nước, do không có điều kiện, không có thông tin và không có đủ
trình độ nhận thức, không được bảo vệ để chỉ và phân biệt ra các kẻ tham
nhũng mà trừng phạt chúng.
1.1.6. Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể khái quát những tác hại chủ yếu của tham
nhũng ở những điểm chính sau:
1.1.6.1. Tác hại về chính trị
Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói
mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây
dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tinh thần đổi mới đất nước một cách toàn diện đã mang đến cho đất nước
ta thế và lực mới. Những điều chỉnh đúng đắn về chiến lược và sách lược đã
phát huy tác dụng của nó và tạo đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
tình trạng tham nhũng lại là một trở lực lớn đối với quá trình này. Quan điểm
và tư duy đổi mới cùng với cơ chế, pháp luật đúng đắn, phù hợp đã bị tệ tham
nhũng làm cho méo mó. Đối tượng tham nhũng đã lợi dụng sự thông thoáng
của cơ chế, chính sách để thực hiện hành vi tham nhũng. Ngược lại, kẻ tham
nhũng lại lợi dụng yêu cầu tăng cường kiểm tra, giám sát và các biện pháp khác
để doạ dẫm, đòi hối lộ của các đối tượng bị thanh tra, kiểm tra. Cơ chế, chính
sách đã trở thành công cụ để thực hiện những lợi ích cá nhân. Trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài, tham nhũng sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư nếu chúng ta
không có biện pháp kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi mặc dù Việt Nam được coi là
quốc gia ổn định, an toàn về chính trị, xã hội. Nhìn vào những thành quả của
việc đổi mới có thể nhận thấy chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng luôn
đúng đắn, kiên quyết và mạnh mẽ nhưng khi thực hiện thì bị cản trở rất nhiều
do người thực hiện xuất phát từ mưu lợi cá nhân. Mặc dù cải cách hành chính
tiến bộ bước đầu nhưng cho đến nay, cần thừa nhận rằng, tính phục vụ và tính
công tâm nhìn chung vẫn còn là một điều xa lạ của nền hành chính nước ta.
Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
của việc thực hiện chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội hoặc một nhiệm
vụ quản lý nhất định của Nhà nước. Tổng quát hơn, sự nghiệp cách mạng xây
12
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.
Nhân dân chính là động lực, chủ thể, mục đích của cách mạng. Để nhân dân
mất niềm tin, tức là chúng ta đã đánh mất một sức mạnh vô cùng to lớn, thậm
chí có tính chất quyết định đối với sự nghiệp cách mạng.
1.1.6.2. Tác hại về kinh tế
Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và của
công dân. Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền
của, thời gian, công sức của nhân dân. Hàng loạt vụ tham nhũng lớn, nghiêm
trọng đã bị phát hiện như: vụ Dệt Nam Định, vụ Tamexco, vụ EPCO Minh
Phụng, vụ Mường Tè, vụ Lã Thị Kim Oanh, vụ việc ăn hối lộ trong đường dây
chạy Quota dệt may, vụ điện kế điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh, vụ tham
nhũng tại Công ty Cho thuê tài chính 2 (thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn - Agribank); vụ Vinasin, Vinaline,… Giá trị tài sản bị thiệt hại, bị
thất thoát liên quan tới tham nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng trăm,
thậm chí là hàng ngàn tỉ đồng. Đó là những con số lớn và đáng lo ngại so với số
thu ngân sách hằng năm của nước ta. Hậu quả của hành vi tham nhũng không chỉ
là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc của cá nhân bị biến thành
tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng, mà nguy hiểm hơn, hành
vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất thoát, lãng phí một lượng lớn tài sản
của Nhà nước, của tập thể, của công dân. Ở mức độ thấp hơn, việc một số cán
bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân trong khi thực thi công vụ,
lạm dụng quyền hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân phải mất rất
nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để có thể thực hiện được công việc của mình
như: xin cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác,...
1.1.6.3. Tác hại về mặt xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực
đạo đức xã hội, tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi
tham nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức
của người cán bộ cách mạng, không phục vụ nhân dân mà hướng tới các lợi ích
bất chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công vụ, trái lương tâm,
đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, tham nhũng không chỉ phát sinh ở trong các lĩnh
vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai,…
13
mà còn có xu hướng lan sang các lĩnh vực từ trước tới nay ít có khả năng xảy ra
tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao,... Thậm chí, cả
những lĩnh vực lẽ ra không thể có tham nhũng, cả dưới góc độ đạo đức và pháp
luật, như lĩnh vực phúc lợi xã hội hay bảo vệ pháp luật. Hành vi tham nhũng
xảy ra không ít trong các chương trình trợ cấp cho thương binh, liệt sĩ, các gia
đình chính sách; tham nhũng tiền, hàng hoá cứu trợ xã hội, trong cả xét duyệt
công nhận di tích lịch sử, văn hoá, thi đua khen thưởng. Thậm chí tham nhũng
còn xảy ra trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Điều đáng báo động là việc tham nhũng dường như đã trở thành bình
thường trong quan niệm của một số cán bộ, công chức. Đó chính là biểu hiện
của sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức một cách nghiêm trọng. Hơn thế, tham
nhũng còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, khi người
thực hiện hành vi tham nhũng có khi là giáo viên, bác sĩ, những người hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội - những người xây dựng đời
sống, nền tảng tinh thần cho xã hội.
1.2. CƠ SỞ CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ
Đề án được xây dựng trên cơ sở nhận thức đầy đủ các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, Chương trình hành động của Tỉnh ủy, Nghị quyết
của Hội đồng nhân dân tỉnh, Kế hoạch của UBND tỉnh và của Thành ủy, từ
Nghị quyết của Đảng đến Luật của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, các
văn bản của bộ, ngành Trung ương, của tỉnh và địa phương là khá toàn diện và
tương đối hoàn chỉnh, cụ thể là:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương (khóa X) “về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí (Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21 tháng 8 năm 2006).
Qui định 115-QĐ/TW, ngày 7/12/2007 của Bộ Chính trị về những điều
đảng viên không được làm.
Kết luận hội nghị trung ương 5 khóa XI “về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí”.
Luật Phòng, chống tham nhũng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực
thi hành từ ngày 1/6/2006. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng,
14
chống tham nhũng Quốc hội thông qua ngày 04/8/2007.
Nghị định số 107/2006/NĐ-CP, ngày 22/9/2006 của Chính phủ qui định về
xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
Nghị định số 120/2006/NĐ-CP, ngày 20/10/2006 của Chính phủ qui định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng.
Nghị định số 158/2007/NĐ-CP, ngày 27/10/2007 của Chính phủ qui định
về danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác
đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Nghị quyết số 21/NQ-CP, ngày 12/5/2009 của Chính phủ ban hành Chiến
lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020.
Quyết định số 59/2007/QĐ-TTg, ngày 7/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ
về ban hành Qui định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng phương
tiện đi lại trong cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, công ty nhà nước.
Quyết định số 64/2007/QĐ-TTg, ngày 10/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ
về ban hành Qui định về việc tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng của
cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách Nhà nước và của cán bộ công
chức, viên chức.
Quyết định số 179/2007/QĐ-TTg, ngày 26/11/2007 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành Qui chế tổ chức mua sắm tài sản, hàng hóa từ ngân sách Nhà
nước theo phương thức tập trung.
Chương trình hành động số 05-CTr/TU, ngày 26/10/2006 của Tỉnh ủy
Thừa Thiên Huế thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Kế hoạch số 56/KH-UBND ngày 11/8/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Thừa Thiên Huế thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng.
Kế hoạch số 50-KH/TU, ngày 02/10/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực
hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) “về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí”.
Nghị quyết 5c/2007/NQ-HĐND, ngày 25/4/2007 của Hội đồng Nhân dân
tỉnh Thừa Thiên Huế về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Thành ủy Huế. Kế hoạch số 09-KH/TU, ngày 19/10/2013 về thực hiện Kế
15
hoạch số 50-KH/TU, ngày 02/10/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
1.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.3.1. Thực trạng về phòng, chống tham nhũng ở tỉnh Thừa Thiên Huế
Trong thời gian qua, với quyết tâm cao của toàn Đảng bộ, chính quyền, sự
nỗ lực triển khai của các cấp, các ngành; sự tham gia của cả hệ thống chính trị
và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, công tác phòng, chống tham nhũng đã
có những chuyển biến tích cực, tham nhũng đã có bước được kiềm chế. Ý thức,
vai trò trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu các cơ
quan, đơn vị, địa phương trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng
ngày càng được nâng cao. Phần lớn cán bộ, đảng viên đều giữ vững phẩm chất
đạo đức cách mạng, tiên phong gương mẫu trong phòng, chống tham nhũng tạo
lòng tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ở địa phương. Tuy
nhiên, tình hình tham nhũng, lãng phí trên địa bàn tỉnh vẫn còn diễn biến phức
tạp, diễn ra ở nhiều lĩnh vực, đó là hiện tượng sự sa sút phẩm chất, nhũng nhiễu
gây phiền hà của một bộ phận cán bộ, công chức trong thi hành công vụ chậm
được khắc phục; tình trạng tham nhũng “vặt”, chưa được quan tâm và xử lý
đúng mức. Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức xảy ra
tham nhũng được thực hiện nghiêm túc. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử
nhiều vụ án tham nhũng còn hạn chế. “Có biểu hiện hữu khuynh, nể nang, lạm
dụng việc bồi thường, khắc phục hậu quả để xử lý hành chính. Một số vụ việc
có dấu hiệu tham nhũng qua công tác thanh tra chậm được xem xét, kết luận”.
Những hạn chế, yếu kém trên được cho là đã gây tâm lý hoài nghi của một bộ
phận nhân dân đối với các cơ quan tư pháp, tính nghiêm minh của pháp luật và
hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tham nhũng,...
Để công tác lãnh đạo, chỉ đạo về phòng, chống tham nhũng đi vào thực
chất, sát với tình hình địa phương; trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị, chương
trình công tác trọng tâm của Ban Chấp hành Trung ương, của Ban Chỉ đạo
Trung ương về PCTN và của Ban Nội chính Trung ương, căn cứ Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 3 (khoá X) và Chương trình hành động số 05-CTr/TU,
ngày 26/10/2006 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Tỉnh ủy đã cụ thể hóa, ban
hành nhiều văn bản để thực hiện: Xây dựng Kế hoạch 50-KH/TU ngày
02/10/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Kết luận Hội nghị Trung
16
ương 5 (khóa XI) “về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”.
Năm 2014, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống
tham nhũng, việc ban hành văn bản phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng
đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế quan tâm và tích
cực triển khai thực hiện. Đã ban hành mới 150 văn bản và sửa đổi 20 văn bản
phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng; phát hành 2.171 tài liệu, tờ rơi và
tổ chức 110 lớp tuyên truyền với 11.194 cán bộ, công chức, viên chức, nhân
dân được phổ biến các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Triển khai Chỉ thị số 10/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa
nội dung phòng, chống tham nhũng vào giảng dạy tại các cơ sở giáo dục, đào
tạo từ năm học 2013-2014, trong học kỳ II năm học 2013-2014 cũng như năm
học 2014-2015, các cơ sở giáo dục, đào tạo của tỉnh đã tích hợp, lồng ghép nội
dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình dạy với thời lượng 02 tiết
ngoại khóa (90 phút). Các trường Cao đẳng, Trung cấp trên địa bàn tỉnh cũng
triển khai lồng ghép nội dung PCTN vào môn Chính trị. Đội ngũ giáo viên
giảng dạy môn Giáo dục công dân tại các trường đã được tập huấn về việc
giảng dạy nội dung PCTN.
Các cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp tục tập trung thực hiện công tác công
khai, minh bạch gắn với cải cách thủ tục hành chính trên các lĩnh vực. Có 264
đơn vị được kiểm tra việc thực hiện công khai minh bạch trong hoạt động, góp
phần vào việc phòng ngừa tham nhũng phát sinh.
Năm 2014, các đơn vị, địa phương đã tích cực rà soát, sửa đổi, bổ sung
các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn trên các lĩnh vực tài chính, đầu tư
xây dựng, quản lý, sử dụng tài sản công, giá giao đất, chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, quy chế chi tiêu nội bộ,... Đã ban hành mới 86 văn bản và sửa đổi, bổ
sung 93 văn bản liên quan đến các chế độ, định mức, tiêu chuẩn; các đơn vị
thanh tra đã tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định về chế
độ, định mức, tiêu chuẩn tại các đơn vị, địa phương với 91 cuộc thanh tra hành
chính và 5.012 cuộc kiểm tra chuyên ngành.
Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên
chức do Bộ Nội vụ ban hành và do cơ quan, đơn vị xây dựng, Chỉ thị số 26/CTUBND ngày 24-12-2013 của UBND tỉnh về việc đẩy mạnh công tác cải cách
17
hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức, “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đã có 72 đơn vị thực hiện kiểm tra việc thực
hiện quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ công chức, viên chức.
Có 01 trường hợp vi phạm quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp bị xử
lý kỷ luật.
Đã thực hiện chuyển đổi vị trí công tác đối với 263 cán bộ, công chức,
viên chức để chủ động phòng ngừa tham nhũng. Các đối tượng được chuyển
đổi vị trí công tác trong năm chủ yếu là kế toán các trường Tiểu học, Trung học
cơ sở, cán bộ địa chính – xây dựng, cán bộ quản lý thị trường, cán bộ kiểm lâm,
cán bộ y tế,…
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, các đơn vị, địa phương trên địa bàn
tỉnh đã tiến hành tổ chức triển khai các quy định về kê khai minh bạch tài sản,
thu nhập trong phạm vi thuộc thẩm quyền quản lý với 09 hội nghị tập huấn, 59
văn bản chỉ đạo được ban hành. Kết quả thực hiện năm 2014, tỷ lệ kê khai
minh bạch tài sản, thu nhập trên địa bàn tỉnh đạt 99,54 %. Việc công khai các
Bản kê khai tài sản, thu nhập cũng đã được các địa phương, đơn vị tích cực
thực hiện theo quy định.
Công tác cải cách các thủ tục hành chính có nhiều chuyển biến tích cực,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực, tạo điều kiện
thuận lợi cho các tổ chức và công dân trong giao dịch hành chính, góp phần
tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, phòng ngừa các hành vi tham nhũng.
Các đơn vị, địa phương tiếp tục triển khai thực hiện Danh mục thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa, bước đầu đem lại những kết quả tích cực, tạo thuận
lợi cho người dân, tổ chức đến giao dịch. UBND tỉnh đã thành lập Đoàn kiểm
tra công tác cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính, ứng dụng công
nghệ thông tin và ISO tại một số đơn vị, địa phương. Qua kiểm tra chấn chỉnh
một số hạn chế như tỷ lệ cập nhật hồ sơ vào phần mềm quản lý hồ sơ một cửa
còn thấp, việc thực hiện một số phần mềm dùng chung của tỉnh còn hạn chế,
ảnh hưởng đến sự kết nối, liên thông số liệu, dữ liệu, chế độ báo cáo của đơn vị
đối với tỉnh, dịch vụ công trực tuyến chưa được thủ trưởng các cơ quan, đơn vị
quan tâm,…
Cùng với tăng cường các biện pháp quản lý để chủ động phòng ngừa tham
nhũng, lãng phí, Tỉnh hết sức coi trọng chỉ đạo hoạt động thanh tra, kiểm tra để
phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm. Năm 2014, các tổ chức thanh tra trong
18
toàn tỉnh đã tiến hành 5.103 cuộc thanh tra, kiểm tra. Qua thanh tra, kiểm tra đã
phát hiện sai phạm với số tiền 19.126,6 triệu đồng, quyết định xử lý theo thẩm
quyền và kiến nghị thu hồi nộp ngân sách Nhà nước 12.801,3 triệu đồng, đã thu
hồi 10.871,5 triệu đồng; chuyển cơ quan điều tra 4 vụ. Cụ thể:
- Thanh tra thị xã Hương Thủy qua thanh tra việc quản lý tài chính tại
HTX Tiêu thụ điện năng Thủy Châu phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật
như lập chứng từ khống, cá nhân chiếm dụng quỹ và làm thất thoát tiền của
HTX, đã chuyển hồ sơ sang Cơ quan điều tra Công an thị xã điều tra xử lý theo
quy định.
- Qua thanh tra việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với Cách
mạng, chính sách bảo trợ xã hội, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội đã phát
hiện vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu tham ô tài sản và thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng tại phường Thuận Hòa, thành phố Huế; đã chuyển hồ
sơ vụ việc sang Cơ quan điều tra Công an thành phố Huế để điều tra xử lý theo
quy định.
- Qua rà soát việc thực hiện Kết luận của Thanh tra Chính phủ liên quan
đến hai dự án Khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng Tân Mỹ - Thuận An và Khách
sạn Thuận Hóa, UBND tỉnh đã chỉ đạo Thanh tra tỉnh chuyển hồ sơ về quá
trình đưa tài sản Nhà nước để liên doanh, liên kết tại 02 dự án nêu trên sang Cơ
quan điều tra Công an tỉnh để tiếp tục làm rõ và xử lý theo quy định của pháp
luật.
Trong năm, Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp đã thụ lý, khởi tố điều tra
02 vụ/02 bị can tham nhũng (tham ô tài sản), gồm: Vụ Trần Quang Tuyến,
nguyên Thủ quỹ Trung tâm Y tế huyện Quảng Điền có hành vi tham ô tài sản
với số tiền 292,68 triệu đồng. Vụ Trần Quang Thái, nguyên công chức Văn hóa
- Xã hội UBND phường Phú Hiệp có hành vi tham ô tài sản với số tiền 20,416
triệu đồng. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã ra Quyết định truy tố 01 vụ/01 bị
can (Trần Quang Tuyến) với tội danh “Tham ô tài sản”.
Tháng 3-2014, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã tiến hành xét xử
phúc thẩm với kết quả y án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện Phú Lộc (xét
xử tháng 12-2013) đối với bị cáo Huỳnh Uýnh, nguyên là Đội trưởng đội quản
lý đô thị huyện Phú Lộc về tội “Tham ô tài sản” với mức án 02 năm 06 tháng tù
giam.
1.3.2. Thực trạng và kết quả công tác phòng, chống tham nhũng ở thành
19
phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
1.3.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế
a) Điều kiện tự nhiên
Thành phố Huế nằm ở vị trí trung tâm của đất nước, trên trục Bắc - Nam
của các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường biển, gần
tuyến hành lang Đông - Tây của tuyến đường Xuyên Á. Thành phố Huế là
thành phố du lịch đặc sắc của Việt Nam, có diện tích tự nhiên là 71,69 km2, dân
số năm 2013 có 350.345 người, mật độ dân số 4.887 người/km 2. Toàn thành
phố được chia thành 27 đơn vị hành chính.
Thành phố Huế nằm ở vị trí có điều kiện thiên nhiên, hệ sinh thái đa
dạng, phong phú và diện mạo riêng tạo nên một không gian hấp dẫn, được xây
dựng trong không gian phong cảnh thiên nhiên kỳ diệu từ núi Ngự Bình, đồi
Thiên An - Vọng Cảnh, Thành phố hội đủ các dạng địa hình: đồi núi, đồng
bằng, sông hồ, tạo thành một không gian cảnh quan thiên nhiên-đô thị-văn hoá
lý tưởng để tổ chức các loại hình Festival và các hoạt động du lịch thể thao
khác nhau.
Bên cạnh đó, tiềm năng nổi bật của Huế còn được thể hiện trong 300
công trình kiến trúc nghệ thuật được UNESCO công nhận là di sản văn hoá
nhân loại vào năm 1993. Đó là, hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm của
các vua nhà Nguyễn, các kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian, chùa chiền,
miếu mạo, phủ đệ, hệ thống nhà vườn,... Tháng 11/2003, chương trình biểu
diễn Nhã nhạc cung đình Huế được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế
giới, góp phần đem lại niềm tự hào cho người dân xứ Huế.
b) Tình hình kinh tế - xã hội
Kinh tế tuy có khó khăn nhưng vẫn giữ được ổn định và có sự tăng
trưởng khá; năm 2015, tổng giá trị sản xuất tăng gấp 1,69 lần so với năm 2010;
thu ngân sách tăng 1,98 lần. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tỷ
trọng du lịch - dịch vụ - thương mại chiếm 72,09%; công nghiệp, xây dựng
chiếm 26,96%. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, chất lượng, năng lực
cạnh tranh tăng lên.
Thành phố đã khai thác được lợi thế của di sản văn hóa thế giới, thành
phố Festival để phát triển du lịch, dịch vụ, thương mại. Môi trường du lịch
được cải thiện, sản phẩm du lịch phong phú, đa dạng hơn; tính chuyên nghiệp
20
của Festival Huế, Festival nghề truyền thống, hoạt động văn hóa, lễ hội ngày
càng cao và có chất lượng, thu hút khách du lịch đến với Huế. Lượng khách
đến Huế năm 2015 đạt trên 2 triệu người, tăng 1,37 lần so với năm 2010; trong
đó, khách quốc tế tăng 1,65 lần.
Chất lượng các hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông,
chuyển giao công nghệ, khám chữa bệnh kỹ thuật cao, đào tạo nguồn nhân
lực,... tăng nhanh. Các siêu thị, tuyến phố thương mại, khách sạn, nhà hàng
được đầu tư nâng cấp, khẳng định vị thế trung tâm dịch vụ, thương mại của tỉnh
và khu vực. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng bình quân 22,2%/năm; doanh thu
dịch vụ tăng bình quân 27,5%/năm; doanh thu du lịch tăng 17,8%/năm; thời
gian lưu trú khách du lịch bình quân trên 02 ngày/khách.
Tiếp tục phát huy lợi thế của Huế, chú trọng hoạt động xúc tiến đầu tư;
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn viện trợ phát triển
(ODA). Chủ động tham gia các hoạt động đối ngoại phi tập trung, đối ngoại
nhân dân, nâng cao hiệu quả hợp tác với các đối tác, tranh thủ các nguồn lực để
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao vị thế của
Thành phố.
Trong 05 năm, Thành phố tiếp nhận 3 dự án ODA, tổng vốn 220 triệu
USD; thu hút đầu tư công nghệ phần mềm 1,1 triệu USD (Công ty phần mềm
BRYCEN, Tập đoàn phúc lợi xã hội AOMORI, Công ty FUZI DATA,...); tiếp
nhận nguồn viện trợ không hoàn lại cho các công trình phúc lợi, xã hội và các
chương trình có mục tiêu gần 100 tỷ đồng. Thành phố có quan hệ hợp tác với
43 đối tác, trong đó có các thành phố, vùng lãnh thổ, các tổ chức chính phủ và
phi chính phủ; tăng 19 đơn vị so với đầu nhiệm kỳ.
Các hoạt động Festival Huế, Festival nghề truyền thống ngày càng
chuyên nghiệp, mang tầm quốc gia và quốc tế; tôn vinh và phát triển được các
ngành nghề thủ công truyền thống; phục dựng nhiều lễ hội đặc sắc, nhiều loại
hình nghệ thuật phong phú; mở rộng giao lưu văn hóa với các vùng miền trong
nước và nước ngoài; gắn bảo tồn với phát huy giá trị văn hóa, thúc đẩy phát
triển kinh tế du lịch, dịch vụ; mở rộng giao lưu hợp tác kinh tế, văn hóa với các
nước.
Huy động nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo; xây dựng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đảm bảo chuẩn hóa. Giáo dục
ngoài công lập, đặc biệt là giáo dục mầm non phát triển nhanh. Đã phê duyệt đề
21
án “Điều chỉnh mạng lưới trường mầm non, tiểu học và THCS trên địa bàn
Thành phố đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”.
Phát huy tiềm năng của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật ở các trường
đại học, trong các cơ quan, doanh nghiệp; đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng
khoa học - công nghệ nâng cao hiệu quả sản xuất công nghiệp - TTCN, nông
nghiệp đô thị, kinh doanh dịch vụ du lịch, khám chữa bệnh kỹ thuật cao;... ứng
dụng công nghệ thông tin trong cải cách hành chính, quản lý Nhà nước. Đã kết
nối mạng LAN và áp dụng rộng rãi hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN
9001:2008. Hoàn thành và chuyển giao vận hành khai thác hệ thống thông tin
địa lý tỉnh Thừa Thiên Huế (GISHue).
Hệ thống mạng lưới y tế cơ sở được đầu tư xây dựng và phát triển khá
toàn diện. Đội ngũ cán bộ y tế được chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức
khỏe ban đầu. Công tác y tế dự phòng, tiêm chủng mở rộng, phòng chống các
loại dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác phòng, chống HIV/AIDS và
ngăn chặn các bệnh, dịch nguy hiểm có kết quả. Trên 98% trẻ em trong độ tuổi
được tiêm chủng đầy đủ. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 6,5%, 22/27 phường
đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về Dân số - KHHGĐ,
Thành phố nhiều năm liền đạt được các chỉ tiêu về giảm tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên và giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,9% năm
2015; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên 10 %.
1.3.2.2. Tình hình và kết quả công tác phòng, chống tham nhũng ở thành
phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
a) Tình hình xây dựng chương trình, kế hoạch về phòng, chống tham
nhũng
Quán triệt Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/5/2012 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XI) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng
phí”, và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Chính phủ, Tỉnh ủy, UBND tỉnh,
Thường vụ Thành ủy. Công tác phòng, chống tham nhũng là một trong những nhiệm
vụ then chốt nhằm giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội và góp phần phát triển
kinh tế xã hội tại địa phương; UBND thành phố đã ban hành Kế hoạch số 578/KHUBND ngày 11/4/2014 về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2014 và đã tổ
chức thực hiện kế hoạch nêu trên. Đồng thời, xây dựng Kế hoạch kiểm tra công
22
tác phòng, chống tham nhũng ở cơ quan, đơn vị theo chương trình phòng, chống
tham nhũng hàng năm nhằm chỉ đạo, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng
trên địa bàn thành phố. Trong đó, đã chú trọng triển khai thường xuyên công tác cải
cách hành chính và công khai, minh bạch trong hoạt động, gắn với triển khai thực
hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở để nhân dân tham gia giám sát, góp phần
phòng ngừa, hạn chế các hành vi tiêu cực, tham nhũng. Chỉ đạo các ban, ngành có
liên quan rà soát, kiến nghị bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản có
liên quan đến công tác phòng chống tham nhũng. UBND thành phố đã ban hành Kế
hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020; kiến
nghị sửa đổi, bổ sung các quy định trên các lĩnh vực: quản lý đất đai, sử dụng ngân
sách nhà nước, quản lý tài sản và phân cấp quản lý tài sản, đầu tư xây dựng, minh
bạch tài sản và thu nhập, chuyển đổi vị trí công tác, cải cách hành chính,...
Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức tổng kết công tác
phòng, chống tham nhũng hàng năm để tổng kết kinh nghiệm, gắn với việc tổ
chức để cán bộ, đảng viên cam kết không tham nhũng và thực hiện “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” về cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, góp
phần đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và tệ tham
nhũng trong cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
b) Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt pháp luật về phòng, chống
tham nhũng
Thực hiện Luật phòng chống tham nhũng số 55/2005/QH11 đã được sửa
đổi bổ sung một số điều theo Luật số 01/2007/QH12 và Luật số 27/2012/QH13;
Nghị định 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính phủ về minh bạch tài sản
thu nhập; ngày 28/11/2013, UBND Thành phố đã tổ chức hội nghị quán triệt
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật phòng chống tham nhũng năm 2013
và các nghị định, văn bản có liên quan cho các cơ quan của Đảng, mặt trận,
đoàn thể, phòng, ban chuyên môn, đơn vị sự nghiệp; các trường mầm non, tiểu
học, trung học cơ sở và 27 phường thuộc thành phố Huế.
Đã chỉ đạo các cơ quan liên quan triển khai tuyên truyền, phổ biến Luật
Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Đất
đai, Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tiếp công dân năm
2014,...và các nghị định, văn bản hướng dẫn có liên quan, thông quan các kênh
tuyên truyền như Đài truyền thanh thành phố, Cổng Thông tin điện tử thành
23
phố, Bản tin tư pháp,...và các trạm phát thanh của các phường để mọi người dân
hiểu, chấp hành pháp luật và tham gia tích cực trong công tác phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí.
Bên cạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thành phố đã tổ chức
triển khai rộng rãi đến tận cơ sở cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”; ký kết không tham nhũng, lãng phí đối với từng
cá nhân, đơn vị và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Việc thực hiện Chỉ thị 10/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ: UBND thành
phố đã giao trách nhiệm cho Phòng Giáo Dục phối hợp với Phòng Nội Vụ và các
đơn vị liên quan, nghiên cứu triển khai thực hiện Chỉ thị nói trên, đưa nội dung
phòng, chống tham nhũng vào giảng dạy tại các cơ sở giáo dục đào tạo.
c) Công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị
Việc công khai, minh bạch trong giải quyết thủ tục hành chính, sử dụng
ngân sách nhà nước, mua sắm tài sản công, tuyển dụng, sử dụng và chuyển
đổi vị trí công tác đối với công chức, viên chức, quản lý dự án đầu tư, thủ
tục thuế,… đã được triển khai thực hiện nghiêm túc. UBND thành phố đã
chỉ đạo bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của thành phố, phường tổ chức
niêm yết công khai và thực hiện nghiêm túc Bộ danh mục thủ tục hành
chính thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp thành phố, cấp phường
để nhân dân và doanh nghiệp biết khi đến giao dịch.
Về công khai minh bạch tài sản, thu nhập: chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa
phương, các ban ngành, đoàn thể trên địa bàn thành phố tiếp tục tổ chức thực
hiện công tác lập danh sách các đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập
theo Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/07/2013 của Chính phủ về minh
bạch tài sản, thu nhập. Đến nay, 100% các cơ quan, đơn vị, các phường triển
khai thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập theo đúng quy định.
Định kỳ chuyển đổi vị trí công tác là một trong những biện pháp phòng,
ngừa tham nhũng. Căn cứ Nghị định 150/2013/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm
2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
158/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ quy định danh
mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với
cán bộ, công chức, viên chức, UBND thành phố chuyển đổi vị trí công tác đối
với 18 nhân viên kế toán trường học thuộc Phòng Giáo dục và Đào tạo thành
24
phố (Tiểu học: 11 viên chức; trung học cơ sở: 09 viên chức) và 02 công chức
Phòng Tài chính - Kế hoạch và Phòng Quản lý đô thị thành phố.
Thực hiện Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg ngày 24/8/2007 của Thủ tướng
Chính phủ về trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân
sách. Đã có 162/163 đơn vị thuộc Thành phố thực hiện việc trả lương qua tài
khoản; riêng Ban Đầu tư Xây dựng thành phố Huế (36 người) đang chi trả
lương bằng tiền mặt. Việc trả lương qua tài khoản được thực hiện bằng hình
thức chuyển khoản qua Kho bạc Nhà nước để kiểm soát theo dõi, quản lý, đối
chiếu theo quy định, hạn chế thấp nhất việc giao dịch bằng tiền mặt nhằm
phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng.
d) Kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống
tham nhũng
Trong năm 2014 đã tổ chức thanh tra, kiểm tra 02 cuộc, tại 02 đơn vị là
trường THCS Phạm Ngọc Thạch và trường THCS Lý Tự Trọng. Qua thanh tra
đã phát hiện một số sai sót nhỏ trong quá trình quản lý điều hành của các đơn
vị; Thanh tra Thành phố đã có kết luận và các đơn vị đã kịp thời sửa chữa, khắc
phục và thực hiện nghiêm túc kết luận của Thanh tra. Tuy nhiên, qua kiểm tra
nhận thấy công tác tự kiểm tra để chủ động phòng, ngừa tham nhũng ở một số cơ
quan, đơn vị, địa phương còn chạn chế; lãnh đạo một số đơn vị thiếu quan tâm
thường xuyên việc chấp hành chế độ báo cáo về phòng, chống tham nhũng, công
tác tuyên truyền còn nhiều hạn chế.
e) Kết quả thanh tra góp phần phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham
nhũng
Đã tiến hành 05 cuộc thanh tra trên các lĩnh vực tài chính - ngân sách, việc
thực hiện nghĩa vụ thuế đối với các doanh nghiệp do Chi cục Thuế thành phố
quản lý, thanh tra việc chấp hành pháp luật về chi trả, miễn thủy lợi phí và
thanh tra việc quản lý, sử dụng đất công,… Qua thanh tra đã thu hồi số tiền
1.211.855.519 đồng nộp vào ngân sách nhà nước; Đồng thời, xử lý kỷ luật đối
với Chủ tịch, Công chức địa chính do đã vi phạm quy định của pháp luật về
quản lý đất đai, quản lý và sử dụng ngân sách,…
f) Việc tiếp nhận và xử lý đơn thư tố cáo tham nhũng
Đơn, thư tố cáo có liên quan đến tham nhũng gửi đến cấp ủy, chính quyền
các cấp, các ngành trong thời gian qua phần lớn là mạo danh, nặc danh, tạo
nên sự lúng túng trong chỉ đạo xem xét, giải quyết của các cấp, các ngành. Số
25