ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=====000=====
TIỂU LUẬN
MÔN ĐƯỜNG LỐI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VĂN HOÁ VIỆT NAM
THỐNG NHẤT TRONG SỰ ĐA DẠNG
1
2
3
4
Sinh viên thực hiện:
Lưu Thu Thuỷ
Hoàng Khánh Hoà
Lê Hà My
Thiều Thị Mỹ Linh
:
:
:
:
1412250004
1411340009
1413340014
1417340011
Giáo viên hướng dẫn
Lớp tín chỉ
:
:
Nguyễn Thu Hải
TRIE106 (2-1617).1_LT
Hanoi – 06/2016
MỤC LỤCLỜI MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
Hội nghị lần thứ 5 khoá VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
Sản Việt Nam đã chỉ ra nghị quyết về xây dựng và phát triển một nền văn hóa có
đặc điểm: tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, thay cho quan niệm nền văn
hóa Việt Nam có nội dung xã hội chủ nghĩa, có tính chất dân tộc, có tính đảng và
tính nhân dân được nêu ra trước đây. Cùng với sự phát triển kinh tế, chính trị,
pháp luật thì văn hóa là vấn đề quan trọng và không thể thiếu trong quá trình phát
triển đất nước, được coi là bước đi đầu trong giai đoạn phát triển và hội nhập
kinh tế. Vốn dĩ, để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác người ta thường nhắc
tới văn hóa. Bởi những giá trị truyền thống được chắt lọc lâu đời đã tạo cho Việt
Nam có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng
với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Hay nói cách khác, văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng
trong cộng đồng các dân tộc. Sự đa dạng và thống nhất ấy được biểu hiện trên
nhiều mặt, từ cơ sở nền tảng tạo thành cho đến đời sống sinh hoạt vật chất lẫn
tinh thần của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Và đây cũng chính là lí do nhóm chúng em lựa chọn đề tài: “Nền văn hóa
Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng dân tộc”.
2.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là để hiểu rõ được sự đa dạng và phong phú văn hóa Việt
Nam cùng các giá trị văn hóa của các dân tộc anh em trên đất nước. Nghiên cứu
sự thống nhất văn hóa Việt Nam trải qua các thời kì lịch sử, hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Hiểu rõ các hoạt động văn hóa, sinh hoạt văn hóa,
sáng tạo văn hóa, tác phẩm văn hóa phải thể hiện được rõ nét và sâu sắc các giá
trị tinh thần của dân tộc. Đồng thời, có thêm sự hiểu biết tình hình văn hóa Việt
Nam hiện nay có xu hướng hợp tác, giao lưu văn hóa nước ngoài được mở rộng.
CÁC KHÁI NIỆM VỀ TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG
CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
1.
Tính thống nhất là gì?
Tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam là tính nhất trí, hòa quyện bình đẳng,
không mâu thuẫn với nhau, hợp lại thành một khối, có tổ chức và có sự phát
triển độc lập của văn hóa các dân tộc anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Mỗi dân tộc có truyền thống và bản sắc riêng, nhưng cả cộng đồng dân tộc Việt
Nam có nền văn hoá chung nhất.
2.
Tính đa dạng là gì?
Tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam được thể hiện giữa các lĩnh vực phong
tục tập quán, kinh tế -xã hội của mỗi cộng đồng dân tộc. Đây là nhân tố để giữ
gìn bản sắc truyền thống của dân tộc, là điểm để phân biệt vùng này với vùng
khác, mỗi vùng có những nét riêng biệt tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, vị trí
địa lý, sự tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá bên ngoài, tạo nên sự đa dạng, phong
phú của từng vùng.
Một số quan niệm về văn hoá
Không gian văn hoá: là sự tổng hoà các vùng văn hoá của các địa phương trên
bình diện tinh thần, là những nét bản sắc chung hiện hữu ở mọi vùng văn hoá, có
ở tất cả đa số thành viên trong cộng đồng dân tộc, đồng thời cũng dùng để chỉ
chỗ ở của người Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
3.
Lãnh thổ văn hoá: dùng để chỉ chỗ ở của từng nhóm dân tộc trên đất nước.
Vùng văn hoá: là vùng lãnh thổ nhỏ của một tộc người cư trú. Các yếu tố cơ bản
của văn hoá vùng bao gồm ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán,
…
NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM LÀ NỀN VĂN HOÁ THỐNG NHẤT
TRONG ĐA DẠNG
A.
1.
NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG SỰ ĐA DẠNG
Đa dạng về không gian văn hoá
Dựa vào đặc trưng văn hoá, điều kiện tự nhiên xã hội, có thể chia nước ta thành
6 vùng văn hoá chính: Tây Bắc, Việt Bắc, trung du và đồng bằng Bắc Bộ, Trung
Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ.
Vùng văn hoá Tây Bắc:
Đặc trưng ở vùng địa đầu Tổ quốc này nằm ở trang phục có màu sắc sặc sỡ, hoạ
tiết phong phú, được phân biệt theo giới tính, địa vị, lứa tuổi. Về văn hoá tinh
thần, người dân tin vào linh hồn, tín ngưỡng đa thần, họ sống chân thật giản dị.
Về văn hoá văn nghệ, họ có các điệu ca múa như múa xoè của người Thái, múa
Khèn của dân tộc Hmong hay múa Bông của người Mường.
1.1.
Vùng văn hoá Việt Bắc:
Đặc trưng của vùng này là nhân dân ở trong nhà sàn hoặc nhà đất. Trang phục
của họ thường có màu chàm. Về văn hoá tinh thần, họ có tín ngưỡng thờ thần
linh đa dạng (thờ thần bếp), mỗi gia đình có một bàn thờ tổ tiên đặt trang trọng
trong nhà. Họ sáng tạo nên chữ Nôm Tày. Ngoài ra còn có các lễ hội phong phú
(lễ Lồng tồng – xuống đồng)
1.2.
2.
2.1.
Đa dạng về thời gian, tiến trình lịch sử
Văn hoá Việt Nam thời độc lập:
Thế kỳ XV đánh dấu sự kết thúc của văn hoá Chăm Pa, văn hoá Đại Việt lên
ngôi. Về tôn giáo và tín ngưỡng, Đạo Phật trở nên thịnh hành và được coi là
quốc giáo. Các đền đài, chùa tháp được xây dựng và thấm đượm tinh thần Phật
giáo trong các công trình như chùa Thanh Đàm, chùa Báo Thiên, chùa Tiêu Độ
(thời Lê sơ). Chữ Nôm cũng bắt đầu xuất hiện ở thời Lý Trần.
Văn hoá Việt Nam giai đoạn Pháp thuộc:
Ở giai đoạn này, nền văn hoá mang đậm tính phong kiến quân chủ chuyên chế,
cùng sự tiếp xúc và giao thoa với văn hoá phương Tây. Thứ nhất phải kể đến đó
là hệ tư tưởng, là trào lưu dân chủ tư sản và tư tưởng Mác-Lenin. Các tư tưởng
tự do, dân chủ, bình đẳng được tiếp thu và phổ biến rộng rãi. Về văn hoá vật
chất, đô thị phát triển, kéo theo sự phát triển của kiến trúc đô thị, giao thông vận
tải, khoa học kỹ thuật. Văn hoá xã hội tinh thần có sự chuyển biến mạnh mẽ theo
hướng Âu hóa trên nhiều lĩnh vực (giáo dục, chữ viết, văn học, nghệ thuật… ).
Về phương diện chính trị, văn học lúc này là vũ khí của quần chúng để chống kẻ
2.2.
thù cướp nước, cổ động cho sự tiến bộ của xã hội. Việc sử dụng chữ Quốc ngữ
để sáng tác văn học đã trở nên phổ biến. Cùng với đó, các thể loại văn học mới
ra đời (kí sự, tiểu thuyết..) và các thể loại văn học cũ ngày một tiến bộ (văn
xuôi).
2.3.
Văn hoá Việt Nam từ năm 1945 đến nay:
Đặc trưng ở thời kỳ này là nền tảng lý luận mang hệ tư tưởng Mác-Lênin cùng
sự giao lưu mạnh mẽ, rộng rãi với các dân tộc trên thế giới. Bên cạnh đó: nền
kinh tế thị trường cùng ảnh hưởng của văn hoá ngoại lai cũng tác động không
nhỏ tới bản sắc văn hoá dân tộc.
B.
VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG SỰ THỐNG NHẤT
Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng dân
tộc Việt Nam có nền văn hóa chung nhất. Không có sự đồng hóa hoặc kỳ thị bản
sắc văn hóa của các dân tộc. 54 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá
trị và sắc thái văn hoá riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm
phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để
giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hoá của các dân tộc anh em.
Khẳng định một truyền thống đã trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước, 54 dân tộc anh em Việt Nam đã gắn bó keo sơn, đoàn kết một lòng,
chung một khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc, đã vượt qua muôn vàn khó khăn
gian khổ, hy sinh, cống hiến to lớn về sức người, sức của, máu xương cho sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước
1.
Thống nhất về không gian:
Theo truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, các dân tộc đều là “con rồng cháu
tiên”, đều là anh em nở ra từ “bọc trăm trứng”, 54 dân tộc từ cổ chí kim đều xuất
phát từ truyền thống con lạc cháu hồng cùng chung tay góp sức tạo nên giá trị
văn hóa và bản sắc văn hóa riêng. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tổng hợp
các giá trị tinh thần của dân tộc. Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 đã nêu rõ:
“Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững, những
tinh hoa của những cộng đồng của các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua
lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước”.
2.
Thống nhất về thời gian:
Trải qua hàng nghìn năm hình thành và phát triển, chúng ta đã tạo nên
một nền văn hoá hiện đại duy nhất. Đó là một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Và đến thời kì kinh tế thị trường như hiện nay, mở rộng giao lưu
quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước ta vẫn luôn duy trì và phát huy
những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, những
cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập chống giặc ngoại xâm, tình đoàn kết dân tộc
nổi lên như là một thứ vũ khí sắc bén nhất, mạnh mẽ nhất, là động lực chủ yếu
để có thể chiến thắng những kẻ thù tàn bạo và hiếu chiến bên ngoài.
3. Thống nhất trong các yếu tố văn hóa cơ bản
3.1.
Ngôn ngữ:
Hầu hết các dân tộc Việt Nam đều có ngôn ngữ riêng, nhưng điểm chung những
ngôn ngữ đó đều có chung nguồn gốc từ dòng Môn – Khơme của ngữ hệ Đông
Nam Á, sau chuyển biến thành tiếng Việt – Mường (hay tiếng Việt cổ) rồi tách
ra. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếng Việt và chữ quốc ngữ trở thành ngôn
ngữ phổ biến nhất. Đặc điểm của tiếng Việt là đơn âm nhưng vốn từ cụ thể,
phong phú, giàu âm sắc hình ảnh, lối diễn đạt cân xứng, nhịp nhàng, sống động
dễ chuyển đổi, thiên về đặc trưng, biểu cảm, rất thuận lợi cho sáng tạo văn học
nghệ thuật.
3.2.
Phong tục tập quán:
Theo nghĩa Hán-Việt, Phong là nền nếp đã lan truyền rộng rãi và Tục là thói
quen lâu đời. Phong tục ở Việt Nam có truyền thống lâu đời hàng ngàn năm nay,
nó đã trở thành luật tục, sâu đậm và gắn chặt trong người dân có sức mạnh hơn
cả những đạo luật. Sớm nhất được nhắc đến trong lịch sử là tục ăn trầu có từ
thời Hùng Vương trải qua hàng nghìn năm. Người Việt cùng một số dân tộc
khác vẫn giữ được tập tục này trong cuộc sống ngày nay, tục ăn trầu bắt nguồn
từ truyện “Sự tích Trầu Cau” để rồi thành biểu tượng cho tình anh em, vợ chồng
của người Việt, theo thời gian ý nghĩa của tục ăn trầu được mở rộng sang việc
giao hiếu, kết thân của người Việt Nam. Cùng ra đời từ xa xưa với tục ăn trầu là
phong tục đón năm mới hay còn gọi là Tết, Tết vừa là một phong tục đồng thời
cũng là một tín ngưỡng và cũng là một lễ hội của người Việt cùng một số dân
tộc khác. Từ Tết Nguyên Đán đón năm mới, theo thời gian với những ảnh hưởng
từ Trung Quốc, người Việt Nam bổ sung thêm vào những phong tục Tết khác
như Tết Nguyên tiêu, Tết Hàn thực, Tết Đoan ngọ, Tết Trung thu, Tết Thanh
minh
Không thấy nhắc đến sớm trong sử sách nhưng các phong tục hôn nhân, sinh
đẻ, tang lễ… cũng đã song hành với người Việt Nam từ xa xưa và đến ngày nay
vẫn là những phong tục gắn liền với đời sống người Việt Nam. Các phong tục đó
đều gắn với tính cộng đồng làng xã.
3.3.
Tín ngưỡng, tôn giáo:
Tín ngưỡng của hầu hết các dân tộc Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm: tín ngưỡng
phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng bái con người. Như
mọi nơi trên thế giới, từ thuở xa xưa các dân tộc trên đất Việt Nam đã thờ rất
nhiều thần linh. Các dân tộc thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu hình mà thực
chất là các hiện tượng thiên nhiên và xã hội chưa thể giải thích được vào thời đó.
Người xưa cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên người ta thờ rất nhiều
thần, nguyên thủy họ thờ thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng, thần Đất, thần Sông,
thần Biển, thần Sấm, thần Mưa,...những vị thần gắn với những ước mơ thiết
thực của cuộc sống người dân nông nghiệp. Đi sâu vào cuộc sống hằng ngày họ
thờ thần Nông là thần trông coi việc đồng áng, thần Lúa, thần Ngô với hy vọng
lúc nào ngô lúa cũng đầy đủ. Không chỉ các vị thần gắn với đời sống vật chất,
các dân tộc còn thờ các vị thần gắn với đời sống tinh thần của họ. Người
Việt thờ các thần Thành Hoàng, các vị anh hùng dân tộc, các vị thần trong đạo
mẫu. Họ là các vị thần có công lớn với đất nước, với làng xã, dân chúng thờ
phụng các vị thần này để tỏ lòng biết ơn và cầu mong các vị phù hộ họ. Thờ
cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đời của người Việt và
một số dân tộc khác. Họ tin rằng linh hồn của tổ tiên cũng ở bên cạnh con cháu
và phù hộ cho họ. Chính vì như vậy nên gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và
bàn thờ được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà. Ngoài các ngày giỗ, tết thì các
ngày mùng một, ngày rằm họ thắp hương như một hình thức thông báo với tổ
tiên ông bà. Nói đến tục thờ cúng tổ tiên, người ta đều biết tới một ngày giỗ tổ
chung cho cho người Việt đó là ngày giỗ tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng 3.
Trên danh nghĩa, các tôn giáo ở Việt Nam gồm: Phật giáo Đại thừa, Khổng
giáo và Đạo giáo (được gọi là "Tam giáo"). Có một số tôn giáo khác như Công
giáo Rôma, Cao Đài và Hòa Hảo. Những nhóm tôn giáo có ít tín đồ hơn khác
gồm Phật giáo Tiểu thừa, Tin Lành và Hồi giáo. Phần đông đa số người dân Việt
Nam xem họ là nhưng người không có tín ngưỡng, mặc dù họ cũng có đi đến
các địa điểm tôn giáo vài lần trong một năm. Người Việt Nam được cho là ít có
tinh thần tôn giáo, các tôn giáo thường được tập trung ở mặt thờ cúng, mặt giáo
lý ít được quan tâm.
3.4.
Văn học:
Cũng như nền văn học của các nước khác trên thế giới, văn học Việt Nam bao
gồm hai bộ phận đó là văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian là
văn học truyền miệng của người dân và văn học viết gồm có văn học chữ Hán,
văn học chữ Nôm và văn học chữ Quốc ngữ. Văn học dân gian thường ca ngợi
tài năng và lòng dũng cảm của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, trước kẻ
thù độc ác, ca ngợi lòng nhân hậu, độ lượng giúp đỡ nhau, ca ngợi tình yêu trai
gái, tình chung thuỷ vợ chồng, yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu làng xóm,
quê hương. Không những thế văn học dân gian Việt Nam còn là vũ khí đấu tranh
chống lại những thói hư tật xấu của con người, chống lại những bất công thối nát
trong xã hội. Bằng ngôn ngữ dân gian giàu hình ảnh, bằng nghệ thuật nhạc điệu
sinh động, văn học dân gian Việt Nam đã thấm sâu vào lòng người một cách tự
nhiên và rất dễ dàng truyền lại cho đời sau.
Trong văn học viết, chữ Hán và chữ Nôm được sử dụng trong một thời gian dài.
Từ đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi, với sự phát triển của
công nghệ in ấn cùng với những tiếp xúc với văn học phương Tây, văn học Việt
Nam xuất hiện các thể loại văn học mới, văn xuôi chiếm vị trí quan trọng trên
văn đàn cùng với thơ ngự trị trước đó.
3.5.
Nghệ thuật
• Kiến trúc và trang trí:
Kiến trúc và trang trí là các loại hình nghệ thuật xuất hiện rất sớm trong lịch sử
xã hội loài người và luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau bởi tính đặc thù của
nó. Kiến trúc và trang trí đều có ý nghĩa thực dụng rất rõ nét; một mặt nó là lĩnh
vực tinh thần – sáng tạo nghệ thuật ; mặt khác nó là lĩnh vực vật chất – sáng tạo
trong sản xuất vật chất. Đặc trưng ngôn ngữ của nghệ thuật kiến trúc là ở trong
hai tính năng phục vụ lợi ích và thẩm mỹ, thì tính năng phục vụ lợi ích có ý
nghĩa nội dung, mang tích mục đích, tính năng thẩm mỹ mang ý nghĩa hình
thức. Các công trình của Việt Nam quy mô thường không lớn, nhưng thường là
sự kết hợp hài hoà giữa công trình chính và cảnh quan xung quanh, đặc biệt là
sử dụng hồ, ao, sông ngòi để điều tiết khí hậu và tạo cảnh quan.
• Điêu khắc:
Điêu khắc là loại hình nghệ thuật không gian, nó phản ánh hiện thực bằng hình
khối không gian ba chiều có thể tích. Tính độc đáo của hình tượng của điêu khắc
mà đối tượng là con người thường thể hiện ở việc xây dựng tư thế, động tác điển
hình có tính khái quát cao liên quan tới tính cách đặc trưng của nhân vật. Nền
mỹ thuật bắt đầu với điêu khắc cổ được thể hiện trên mặt trống đồng Đông
Sơn của cư dân Lạc Việt, trải qua các thời kỳ cùng với những ảnh hưởng từ bên
ngoài đã tạo ra nền điêu khắc Việt Nam phát triển rực rỡ vào các
thời Lý, Trần, Lê qua các công trình tôn giáo và cung điện các vương triều. Bên
cạnh các công trình kiến trúc và điêu khắc của người Việt thì nền điêu khắc kiến
trúc Việt Nam được bổ sung các kỹ thuật tinh xảo trong việc xây dựng các công
trình tôn giáo tín ngưỡng của người Chăm và người Khmer Nam Bộ.
• Hội họa:
Hội họa là nghệ thuật không gian mặt phẳng – tìm không gian ba chiều trên mặt
phẳng. Tuy chỉ ghi được một khoảnh khắc của hành động, song nó vẫn có khả
năng thể hiện được ý nghĩa của cử chỉ, động tác của đối tượng và nó cũng thể
hiện được hình khối của đối tượng dưới những hình thức cụ thể khác nhau.
Hội họa có ưu thế đặc biệt trong việc phản ánh thế giới với mọi màu sắc phong
phú, tinh tế của nó và hòa sắc của tác phẩm làm cho nó có sức biểu hiện sâu sắc,
tế nhị về tình cảm.
Ở Việt Nam, hội họa xuất hiện muộn hơn so với tranh lụa, tranh truyền thần,
tranh thờ, tranh chân dung, tranh sơn mài, tranh khắc gỗ, hội họa cung đình và
dòng tranh dân gian Việt Nam gồm tranh Tết, tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống.
Đề tài tranh dân gian thường giản dị và gần gũi với đời sống dân dã, mỗi bức
tranh đều có ý nghĩa tượng trưng và đều được cách điệu hoá. Cùng với các môn
nghệ thuật hiện đại khác, mỹ thuật hiện đại Việt Nam cũng có những bước tiến
dài từ đầu thế kỷ 20 với ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây thời Pháp thuộc,
với các trường phái lãng mạn, hiện thực, ấn tượng, trừu tượng, siêu thực,...mặc
dù chịu nhiều ảnh hưởng của phương Tây nhưng khuynh hướng mỹ thuật hiện
đại của Việt Nam vẫn gắn liền với lịch sử đất nước.
• Âm nhạc:
Âm nhạc là loại hình nghệ thuật thời gian, chiếm lĩnh nhịp điệu, tiết tấu, âm vực;
nghĩa là nó sử dụng âm thanh để thể hiện tâm tư, tình cảm, tư tưởng và những
mong muốn của con người. Hình tượng của nghệ thuật âm nhạc được xây dựng
trên nền tảng của bảy nốt nhạc với các thăng trầm của nó biến hoá vô tận như là
các chữ cái của ngôn ngữ. Đối với âm nhạc, tình cảm không chỉ là đối tượng
phản ánh gần gũi, sinh động, tinh tế nhất mà còn là phương tiện để trình bày một
chân dung cuộc sống rộng lớn, đa dạng và phong phú hơn nhiều.
Âm nhạc cổ truyền Việt Nam cũng có truyền thống lâu đời, bắt đầu với chầu
văn, quan họ, ca trù, hát ví, dân ca, vọng cổ, nhạc cung đình,...của người Việt và
bên cạnh đó là âm nhạc dân gian của các dân tộc khác như hát lượn của người
Tày, hát Sli của người Nùng, hát Khan của người Ê Đê, hát dù kê của người
Khmer...Cùng với các môn nghệ thuật hiện đại khác, nền âm nhạc hiện đại Việt
Nam từ những năm 1930 được hình thành và phát triển đến ngày nay được gọi
là tân nhạc Việt Nam với các dòng nhạc tiền chiến, nhạc đỏ, tình khúc 19541975, nhạc vàng, nhạc hải ngoại và nhạc trẻ. Tính đến tháng 12 năm 2013, 6
trong số các hình thức âm nhạc cổ truyền Việt Nam là dân ca quan họ, ca
trù, nhã nhạc cung đình Huế, hát xoan, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây
Nguyên (bao gồm cả âm nhạc Cồng Chiêng) và đờn ca tài
tử được UNESCO vinh danh là kiệt tác di sản truyền khẩu văn hóa phi vật thể
của nhân loại (ở Việt Nam cũng thường gọi là Di sản văn hóa phi vật thể của thế
giới).
• Sân khấu:
Sân khấu là loại hình nghệ thuật tổng hợp có lịch sử lâu đời. Bằng sự kết hợp
nhiều loại hình nghệ thuật khác như văn chương, hội họa, kiến trúc, âm nhạc,
múa và hiện nay còn bao gồm cả điện ảnh. Sân khấu tạo nên các hình tượng
nghê thuật sống động đối với công chúng nghệ thuật. Ngôn ngữ đặc trưng là
hành động (hành động hình thể, hành động tâm lý, hành động ngôn ngữ), thông
qua diễn xuất của diễn viên. Hành động sân khấu là hành động kịch, hành động
mang tính xung đột, nhằm biểu hiện tư tưởng của kịch mang tính nhất quán chứ
không phải bất kỳ hành động có tính chất ngẫu nhiên nào.
Sự ra đời và phát triển của sân khấu dân gian Việt Nam gắn liền với đời sống
nông nghiệp, múa rối nước là nghệ thuật dân gian của người nông dân làm
ruộng nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, thường được biểu diễn trong dịp hội hè,
những lúc nông nhàn, múa rối nước là một nghệ thuật tổng hoà giữa các nghệ
thuật điêu khắc, sơn mài, âm nhạc, hội hoạ và văn học. Cùng với múa rối nước
là các môn nghệ thuật chèo, tuồng, cải lương góp phần làm phong phú nền sân
khấu cổ truyền Việt Nam. Từ đầu thế kỷ 20, cùng với những ảnh hưởng của sân
khấu phương Tây, nghệ thuật sân khấu hiện đại Việt Nam được bổ sung thêm
các môn nghệ thuật kịch, hài kịch, xiếc, ảo thuật, múa, ballet, opera…
• Điện ảnh:
Điện ảnh là loại hình nghệ thuật trẻ, xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên,
sau khi ra đời nó đã trở thành loại hình quan trọng bậc nhất xét về tính quần
chúng rộng lớn của nó, đáp ứng cao nhu cầu thẩm mỹ của thời đại. Sự ra đời của
điện ảnh gắn liền với tiến bộ của khoa học – kỹ thuật và công nghệ; nó kết hợp
các thành tựu của khoa học và công nghệ với các phuơng tiện của nhiều loại
hình nghệ thuật khác tạo cho điện ảnh có tính tổng hợp cao nhất. Phương tiện
ngôn ngữ của điện ảnh cũng là hành động nhưng nó khác với sân khấu. Ở đây
hành động nhân vật vẫn là yếu tố hạt nhân, nhưng đồng thời nghệ thuật quay
phim, dựng phim, cũng có một ý nghĩa quyết định.
Điện ảnh Việt Nam xuất hiện muộn, trải qua nhiều giai đoạn. Ban đầu là những
thể loại phim do người Pháp thực hiện từ những năm 1920. Tới thập niên 1930,
cùng với sự ra đời của các môn âm nhạc, mỹ thuật hiện đại, điện ảnh cũng bắt
đầu được người Việt Nam thực hiện. Tiếp đó sau sự chia cắt đất nước, điện ảnh
Việt Nam tại hai miền đều có những hướng phát triển riêng cùng với những ảnh
hưởng từ bên ngoài là hai nền điện ảnh miền Bắc và điện ảnh miền Nam. Sau
những năm 1975 nền điện ảnh Việt Nam do nhà nước thực hiện. Tới giai
đoạn Đổi Mới, từ những năm 1986 sự tham gia của tư nhân vào lĩnh vực điện
ảnh đã tạo ra dòng phim “mỳ ăn liền”, dòng phim này thịnh hành trong những
năm đầu của thập niêm 1990 và tự kết thúc vai trò của mình từ những năm 1995
nhường chỗ cho dòng phim đương đại Việt Nam.
LỜI KẾT
Kết luận:
Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dang, là sự
hòa quyện bình đẳng và phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc cùng sinh
sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Hơn 50 dân tộc trên đất nước ta đều có những giá trị và bản sắc văn hóa riêng.
Các giá tri và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt
Nam thống nhất và củng cố sự thống nhất dân tộc.
2. Tài liệu tham khảo:
2.1.
Giáo trình Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2011)
2.2.
/>2.3.
/>1.