ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===================
GIÁP THỊ THUỲ
ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ HẬU PHƢƠNG
TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ ĐẢNG
Mã số: 60 22 03 15
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Kim Đỉnh
Hà Nội - 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 5
Chương 1. ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
HẬU PHƯƠNG TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1968 ............................................... 9
1.1. Chủ trương của Đảng bộ Hà Tây ...................................................... 9
1.1.1. Những căn cứ xác định chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây 9
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây 27
1.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện ........................................................... 30
1.2.1. Xây dựng tiềm lực hậu phương về mọi mặt và bảo vệ hậu phương
30
1.2.2. Công tác giao thông vận tải 30
1.2.3. Tích cực chi viện cho tiền tuyến
Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 1 ..................................... Error! Bookmark not defined.
Chương 2. ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ HẬU PHƯƠNG TỪ NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1975Error!
Bookmark
not defined.
2.1. Hoàn cảnh lịch sử mới và nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ tỉnh Hà
Tây .................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Hà Tây bước vào giai đoạn mới
Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Chủ trương của Trung ương Đảng và của Đảng bộ tỉnh Hà Tây Error! Bookmark not defined.
2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện ................ Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Xây dựng tiềm lực hậu phương về mọi mặt và bảo vệ hậu phương
defined.
2.2.2. Công tác giao thông vận tải Error! Bookmark not defined.
Error! Bookmark not
2.2.3. Tích cực chi viện cho tiền tuyến
Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 2 ..................................... Error! Bookmark not defined.
Chương 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ................................................ 60
3.1. Nhận xét ........................................................................................ 60
3.1.1. Ưu điểm
60
3.1.2. Hạn chế
Error! Bookmark not defined.
3.2. Một số kinh nghiệm....................................................................... 70
3.2.1. Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân, dựa vào dân, xây dựng các đoàn thể quần chúng
và phát huy sức mạnh khối đoàn kết toàn dân để xây dựng, bảo vệ hậu phương và chi viện tiền
tuyến
70
3.2.2. Đảng bộ đã xác định đúng thời cơ, chủ động chiến đấu và có những phương án thích hợp để
có được thắng lợi 72
3.2.3. Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ vững
mạnh đồng thời coi trọng vai trò của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
74
Tiểu kết chương 3 ................................................................................ 77
KẾT LUẬN ............................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 81
PHỤ LỤC .................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BBT
: Ban Bí thư
BCH
: Ban Chấp hành
BCĐ
: Ban Chỉ đạo
BCT
: Bộ Chính trị
BTV
: Ban Thường vụ
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
CTPH
: Chiến tranh phá hoại
ĐLĐVN
: Đảng Lao động Việt Nam
GTVT
: Giao thông vận tải
HTX
: Hợp tác xã
NXB
: Nhà xuất bản
PKND
: Phòng không nhân dân
UBHC
: Ủy ban Hành chính
VNDCCH
: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
VNCH
: Việt Nam Cộng hòa
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong chiến tranh, bên nào có sức mạnh áp đảo thì bên đó giành thắng lợi.
Muốn có sức mạnh thì ngoài yếu tố binh khí, kĩ thuật, tư tưởng, con người còn phải
kể đến một nhân tố có vai trò hết sức quan trọng là hậu phương của cuộc chiến
tranh. Sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến là một yếu tố thường xuyên quyết
định thắng lợi của cuộc chiến tranh, vì hậu phương là nơi xây dựng và dự trữ tiềm
lực của chiến tranh về cả mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá và khoa học kĩ
thuật, là nơi chi viện nhân lực, vật lực, là chỗ dựa tinh thần cho tiền tuyến.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã chấm dứt ách thống trị tàn bạo
hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới ở Việt Nam. Để làm nên chiến
tích vang dội ấy không thể không nói tới vai trò của hậu phương miền Bắc đã hết
lòng, hết sức chi viện cho tiền tuyến miền Nam.. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IV ĐLĐVN chỉ rõ: “Không thể nào có sự thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa, suốt 16 năm qua
luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược” [26, tr.490].
Hà Tây là tỉnh có vị trí quan trọng, là hậu phương trực tiếp của Thủ đô, là áo
giáp bảo vệ suốt từ phía Nam đến Tây bắc của Hà Nội, đồng thời, nơi đây cũng là
cửa ngõ nối Thủ đô Hà Nội với vùng núi Tây Bắc. Ngày 21 - 4 năm 1965, BTV
Quốc hội đã phê chuẩn quyết định số 103-NQ/TVQH Về việc hợp nhất Hà Đông Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây. Ngay sau khi hợp nhất, Tỉnh ủy đã nắm rõ vai trò của
hậu phương và đưa ra nhiệm vụ: tiếp tục cải tạo và phát triển nông nghiệp, trên cơ
sở không ngừng phát triển các ngành kinh tế khác nhằm từng bước nâng cao đời
sống nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, sẵn sàng chi viện cho cách mạng
Việt Nam. Song song với nhiệm vụ đó là việc thực hiện tốt khẩu hiệu “Tiền tuyến
gọi Hà Tây sẵn sàng, tiền tuyến cần bao nhiêu, Hà Tây có bấy nhiêu”, bên cạnh đó,
còn có các phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”
đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trong tỉnh. Đã có biế t bao nhiêu chàng
trai, cô gái Hà Tây đã sẵn sàng dâng hiế n tuổ i thanh xuân của mình , ngày đêm nối
tiế p trong đoàn quân “Nam tiến” đi “chia lửa cùng miền Nam” ruô ̣t thit.̣ Họ hy sinh
tình yêu đôi lứa và khát vọng của riêng mình vì một tình yêu vĩ đại hơn - tình yêu
quê hương đấ t nước . Hàng ngàn người mẹ , người vơ ̣ ga ̣t nước mắ t tiễn chồ ng con
ra trận dẫu biết ngày trở về chỉ là niềm hy vọng mong manh . Họ là những đóa hoa
bấ t tử đe ̣p maĩ trong lòng dân tô ̣c Viê ̣t Nam.
Do vị trí chiến lược trọng yếu và điều kiện tự nhiên riêng của mình, Hà Tây
được xác định là một căn cứ, hậu phương vững chắc trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Cùng chung sức với quân dân miền Bắc, nhân dân Hà Tây hăng hái
thi đua sản xuất, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhằm xây dựng và
bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững chắc và lớn mạnh.Chi viện to
lớn về người và của cho tiền tuyến miền Nam,góp phần cùng quân dân miền Nam
đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược. Do đó đề tài sẽ giúp lý giải một cách khoa học
rằng, tại sao phải đối đầu với đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quốc phòng lớn
mạnh, quân đội, vũ khí hiện đại nhưng dân tộc ta vẫn giành được thắng lợi? Trong
những nguyên nhân làm nên thắng lợi này có vai trò quyết định của hậu phương
miền Bắc nói chung, hậu phương Hà Tây nói riêng.
Cho đến nay chưa có công trình nào mang tính chất chuyên khảo về hậu
phương Hà Tây dưới góc độ lịch sử Đảng. Rút ra bài học kinh nghiệm cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay khi Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh
đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ hậu phương từ năm 1965 đến năm 1975” làm đề tài Thạc sỹ lịch
sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, số lượng công trình nghiên cứu về việc thực hiện nhiệm vụ hậu
phương của miền Bắc nói chung và hậu phương Hà Tây nói riêng rất phong phú và
đa dạng, mỗi công trình lại có mục đích, góc độ nghiên cứu khác nhau nhưng hầu
như công trình nào cũng ít nhiều đề cập đến hậu phương, trong đó có vấn đề hậu
phương Hà Tây. Mối quan hệ khăng khít giữa hậu phương và tiền tuyến được thể
hiện rõ nét bằng những thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam.
Trên cơ sở các tài liệu đề cập đến Lịch sử Việt Nam giai đoạn (1954- 1975)
gián tiếp có liên quan đến đề tài như: “Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 1975 thắng lợi và bài học” của Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ
chính trị (2000), hay các tập sách tổng kết lại lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của toàn dân tộc do Bộ quốc phòng - Viện lịch sử quân sự biên soạn như:
“Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975” đã được Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội xuất bản. Những sách trên, đã khái quát một cách toàn
diện cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên phạm vi cả nước, khắc họa hậu
phương miền Bắc trong những năm tháng chống Mỹ, là nguồn tài liệu quý giá cho
tác giả trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị có cuốn “Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - thắng lợi và bài học” xuất bản năm 1995
;trình bày khái quát những sự kiện và tiến trình lịch sử chủ yếu; những nhận định,
đánh giá về sự lãnh đạo của Đảng đối với chiến tranh cách mạng Việt Nam; đúc
kết những bài học cơ bản trong sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh.Tác phẩm
có đề cập đến vấn đề hậu phương nói chung và hậu phương miền Bắc XHCN nói
riêng dưới góc độ bài học kinh nghiệm;đồng thời cho rằng hậu phương là một
trong những nội dung quan trọng nhất trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng của
Đảng.Tuy nhiên, vấn đề xây dựng căn cứ địa, thực hiện nhiệm vụ hậu phương
trong đó có hậu phương miền Bắc XHCN ở tác phẩm này chỉ trình bày mang tính
khái lược, tổng quát.
Liên quan trực tiếp đến vấn đề hậu phương, cuốn sách : “Hậu phương lớn, tiền
tuyến lớn trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)” của GS.TS Phan
Ngọc Liên, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội 2005, đã nghiên cứu về mối quan hệ
sâu sắc, bền chặt giữa nhiệm vụ cách mạng hai miền Nam - Bắc, trong đó từng bài
viết đề cập đến những đóng góp cụ thể của một số địa phương (Thanh Hóa, Hải
Phòng, Hà Nam) đối với tiền tuyến lớn miền Nam ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Cũng đề cập đến hậu phương trong chiến tranh cách mạng Việt Nam, trong cuốn
“Một số chuyên đề Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, tập I, do Bộ Giáo dục và
Đào tạo xuất bản năm 2007 có chuyên đề “Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ hậu
phương, chi viện tiền tuyến thời kỳ 1945 - 1975” của PGS.TS. Ngô Đăng Tri.
Chuyên đề có ba nội dung chính: Vai trò của hậu phương đối với tiền tuyến trong
chiến tranh hiện đại; Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện tiền
tuyến thời kỳ 1945 - 1975; những nhận xét chung và kinh nghiệm chủ yếu về quá
trình Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ hậu phương.
Hai tác giả V.I.Lênin và J.Stalin có tác có nội dung xây dựng hậu phương và
nghệ thuật chiến tranh “Tầm quan trọng của hậu phương trong chiến tranh cách
mạng”. “Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh, phải có một hậu
phương được tổ chức một cách vững chắc” [83, tr.23], đây là nội dung chủ đạo,
được Đảng quán triệt và vận dụng vào xây dựng miền Bắc XHCN trở thành hậu
phương lớn, tiền đề cho cách mạng miền Nam thành công.
Ngoài một số tác phẩm, công trình trên, còn có một số bài viết liên quan đến
vấn đề hậu phương miền Bắc như: “Miền Bắc đánh thắng chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ những năm 1965 -1972” của Nguyễn Minh Long; “Tác động
quốc tế đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam” của
PGS.TS. Trình Mưu; “Vài nét về hậu phương miền Bắc với chiến thắng Buôn Ma
Thuột và chiến dịch Tây Nguyên trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975” của
Nguyễn Hữu Đạo. Tác giả Hồ Khang với bài viết “Hậu phương miền Bắc
chuyển nhanh từ thời bình sang thời chiến - một thành công trong chỉ đạo chiến
lược của Đảng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lịch sử
Đảng, năm 1998.
Trong các công trình nêu trên, bài viết của PGS.TS. Hồ Khang và của
Nguyễn Minh Long đã phân tích khá toàn diện về hậu phương miền Bắc trong hai
cuộc chống CTPH cũng như trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài báo không thể chuyển tải đầy đủ và cụ thể
chủ trương, đường lối cũng như quá trình chỉ đạo quân dân miền Bắc xây dựng,
bảo vệ, phát huy sức mạnh, vai trò hậu phương miền Bắc trong hai cuộc kháng
chiến CTPH (1965 -1972).
Đặc biệt, người viết còn tham khảo một số tài liệu có liên quan trực tiếp đến đề
tài như cuốn “Hà Tây - lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
1945- 1975” của Tỉnh đội Hà Tây (1994) và cuốn: “Hà Tây chống Mỹ cứu nước và
xây dựng chủ nghĩa xã hội” của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Tây. Trong hai cuốn
này, các tác giả liệt kê xen kẽ các sự kiện, các cuộc chiến đấu của bộ đội địa phương,
chủ lực và dân quân tự vệ trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ ở địa
phương…Tuy nhiên, các tác giả có phần nghiêng về trình bày thành tích các trận
đánh hơn là dựng lại một bức tranh toàn diện lịch sử của cuộc chiến đấu. Năm 1992,
Tỉnh ủy Hà Tây xuất bản cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây” cuốn sách cũng thiên
về việc ghi lại những chặng đường lịch sử vẻ vang của Đảng bộ Hà Tây mà ít nêu
được mối quan hệ giữa hậu phương Hà Tây đối với tiền tuyến miền Nam. Tuy vậy,
các cuốn sách trên cũng cung cấp nguồn tư liệu phong phú, đáng tin cậy về các sự
kiện, con số cụ thể để người viết sử dụng nghiên cứu luận văn của mình, ngoài
những công trình kể trên hầu hết các huyện, các xã cũng đã viết lịch sử Đảng bộ của
mình.
Bên cạnh đó còn có cuốn Bác Hồ với Hà Tây do Tỉnh ủy Hà Tây biên soạn và
xuất bản góp phần hiểu sâu sắc hơn về sự quan tâm của Bác Hồ với Hà Tây, Hà Tây
với Bác Hồ. Hy vọng rằng, từ những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành
cho Đảng bộ và nhân dân Hà Tây nói riêng, cho đồng bào và chiến sĩ cả nước nói
chung, một Thủ đô Hà Nội mới sẽ được xây dựng và ngày càng phát triển, xứng
đáng với vị thế một nước Việt Nam trên đường hội nhập.
Ngoài ra, còn có những luận văn, luận án liên quan đến vấn đề hậu phương
của các địa phương khác trong cả nước, những bản hồi ức và bản viết tay, những
ghi nhớ của những người trong cuộc tuy tản mạn nhưng có giá trị tham khảo góp
thêm nhiều sự kiện làm cho lịch sử sinh động hơn, tính nhân dân rõ nét hơn.
Nhìn chung, những tác phẩm ở những khía cạnh khác nhau đã đề cập đến tầm
quan trọng của việc xây dựng hậu phương cho các cuộc kháng chiến, đề cập đến
các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng trong việc xây dựng các căn cứ địa
hậu phương cho cuộc chiến tranh cách mạng. Các công trình tiêu biểu kể trên, có
tác dụng gợi mở hướng nghiên cứu và là cơ sở giúp người viết hoàn thành luận văn
của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những thành quả nghiên cứu của các bậc
thầy đi trước, người viết đã định hướng nên nội dung luận văn và rút ra những đặc
điểm riêng biệt của hậu phương Hà Tây trên bình diện chung của hậu phương lớn
miền Bắc. Tuy nhiên, dưới góc độ Lịch sử Đảng thì chưa có công trình nào nghiên
cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây trong công tác thực hiện nhiệm vụ
hậu phương từ năm 1965 đến năm 1975. Chính vì vậy, đề tài luận văn tập trung đi
sâu nghiên cứu những chủ trương, chính sách chung của Đảng cũng như của Đảng
bộ Hà Tây trong việc thực hiện nhiệm vụ hậu phương từ năm 1965 đến năm 1975
và quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh, từ đó đưa ra những nhận xét cũng
như rút ra những kinh nghiệm quý báu cho những giai đoạn tiếp theo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Góp phần tái hiện sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Tây và cuộc chiến đấu anh
dũng của quân và dân Hà Tây trong thực hiện nhiệm vụ hậu phương từ năm 1965
đến năm 1975, qua đó khẳng định thành tựu, nêu lên hạn chế và rút ra những kinh
nghiệm lịch sử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu Chủ trương của Trung ương Đảng và Đảng bộ Hà Tây về thực
hiện nhiệm vụ hậu phương từ năm 1965 đến năm 1975.
- Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Tây với việc thực hiện nhiệm vụ
hậu phương từ năm 1965 đến năm 1975.
- Rút ra những ưu điểm, hạn chế và đưa ra những kinh nghiệm có giá trị thực
tiễn và lịch sử.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, luận văn được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử, phương
pháp lôgíc và các phương pháp cơ bản khác như phân tích, tổng hợp, đối chiếu,
thống kê, so sánh.
Luận văn cũng đi sâu, làm rõ những sự kiện chủ yếu, quan trọng, phản ánh
quá trình thực hiện nhiệm vụ hậu phương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây dưới tác động
các chủ trương của Đảng, các chính sách của Nhà nước bằng phương pháp lịch sử
(phương pháp đồng đại, phương pháp lịch đại), phương pháp phân tích, đối chiếu,
thống kê...
Để luận giải và rút ra những kinh nghiệm chủ yếu có giá trị lý luận và thực
tiễn, luận văn sử dụng các phương pháp lôgíc - lịch sử, so sánh và hệ thống hóa.
Một cách tổng quát, luận văn được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp của
khoa học lịch sử dưới góc độ Lịch sử Đảng, ngoài ra, có kết hợp với các phương
pháp liên ngành khác. Các phương pháp trên được vận dụng phù hợp với từng nội
dung của luận văn.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương của Đảng bộ tỉnh
Hà Tây từ năm 1965 đến năm 1975.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Công tác th ực hiện nhiệm vụ hâ ̣u phương trong kháng chiế n chố ng Mỹ
đươ ̣c triể n khai trên pha ̣m vi toàn miề n Bắ c . Đề tài không nghiên cứu trên phạm vi
rộng mà chỉ đi sâu nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hà Tây
- Đảng bô ̣ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ hâ ̣u phương trong suố t
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ . Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu của đề tài được
giới hạn trong khoảng thời gian t ừ năm 1965 đến năm 1975, đây là giai đoạn cuộc
kháng chiến chống Mỹ xâm lược được đẩy lên đến đỉnh cao.
6. Đóng góp của đề tài
- Cung cấp những tư liệu lịch sử về thời kỳ thực hiện nhiệm vụ jhậu phương,
chi viện tiền tuyến của Đảng bộ tỉnh Hà Tây trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
xâm lược từ năm 1965 đến năm 1975.
- Những thắng lợi và những thành tựu của Đảng bộ Hà Tây thời kỳ này sẽ là
tài liệu giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ địa phương.
- Những kinh nghiệm được rút ra có thể được vận dụng vào công cuộc xây
dựng, bảo vệ đất nước nói chung và Hà Tây nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài
được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương từ
năm 1965 đến năm 1968.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương từ
năm 1969 đến năm 1975
Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm.
Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ HẬU PHƢƠNG TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1968
1.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ Hà Tây
1.1.1. Những căn cứ xác định chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây
1.1.1.1. Khái quát chung về tỉnh Hà Tây
Ngày 21 - 4 - 1965, BTV Quốc hội đã phê chuẩn quyết định số 103NQ/TVQH Về việc hợp nhất Hà Đông - Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây.Hà Tây nằm
ở khu vực trung tâm của vùng Ðồng bằng Bắc Bộ. Phía Bắc giáp sông Hồng,
ngăn cách với tỉnh Vĩnh Phúc. Phía Nam giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp các
tỉnh Phú Thọ và Hoà Bình, phía Đông giáp tỉnh Hưng Yên, có diện tích
2.191,9km2 với số dân là 2.543,5 nghìn người (2006), mật độ 1.157
người/km2 (2006) gồm các dân tộc Kinh, Mường, Dao, Tày cùng sinh sống [77,
tr. 4].
Địa hình: tuy là tỉnh đồng bằng nhưng địa hình Hà Tây khá đa dạng, bao gồm
cả đồng bằng và đồi núi. Nhìn chung, địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông
Nam. Vùng núi đồi phía Tây, có độ cao tuyệt đối 300m trở lên, diện tích 704km2,
chiếm 1/3 diện tích toàn tỉnh, địa hình dốc trên 250. Cao nhất là đỉnh núi Ba Vì
1.281m, núi Gia Dê thuộc Ba Vì có độ cao 707m, núi Thiên Trù (Mỹ Đức cao 378
m, núi Bộc (Chương Mỹ) cao 245m, núi Thầy (Quốc Oai) cao 105m. Các núi đá
vôi tập trung ở phía Tây Nam tỉnh, địa hình bị chia cắt rất phức tạp, có nhiều hang
động lớn. Vùng đồi gò có diện tích trên 530 km2, chủ yếu là đồi thấp (độ cao trung
bình 100 m) xen lẫn các thung lũng. Vùng đồng bằng phía Đông có diện tích 1.444
km2 chiếm 2/3 diện tích toàn tỉnh. Độ cao trung bình từ 5 - 7 m so với mặt biển.
Địa hình vùng đồng bằng tương đối bằng phẳng, mang đặc trưng vùng đồng bằng
Bắc Bộ với nhiều ô trũng đê viền. Đất đai màu mỡ, có điều kiện thâm canh cây lúa
nước cho năng suất cao, phát triển rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày [77, tr. 5].
Đất:Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 2.191,9 km2. Trong đó, đất nông
nghiệp chiếm 55,7%, đất lâm nghiệp 6,88%, đất chuyên dùng 18,14%, đất ở đô thị
0,29%, đất ở nông thôn 5,59%, đất chưa sử dụng 13,38%. Đất đai Hà Tây có độ
phì cao, với nhiều loại địa hình nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng ngắn
ngày, dài ngày, cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp, đồng cỏ chăn
nuôi, cây ăn quả, trồng rừng. Vùng đồng bằng thuận lợi cho phát triển cây lương
thực, rau đậu, cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi lợn, vịt, thuỷ đặc sản. Vùng
đồi gò thuận lợi cho trồng cây công nghiệp dài ngày (cà phê, trẩu, sở, thông) cây
ăn quả và chăn nuôi đại gia súc. Rừng:Rừng Hà Tây không lớn, nhưng rừng tự
nhiên (vùng Ba Vì) có nhiều chủng loại thực vật phong phú, đa dạng, quí hiếm.
Hiện nay, đã xác định được 872 loài thực vật bậc cao thuộc 427 chi nằm trong 90
họ. Hà Tây có 2 khu rừng tự nhiên: rừng Quốc gia Ba Vì có diện tích 7.400 ha với
chủng loại thực vật phong phú và quí hiếm, 872 loài thực vật bậc cao thuộc 427
chi, trong 60 họ đã được xác định. Khu vực rừng tự nhiên thuộc huyện Mỹ Đức
(vùng Hương Sơn) cũng bao gồm nhiều chủng loại động, thực vật quý, hiếm [77,
tr. 6].
Như vậy, với sự phân bố về địa lý, Hà Tây trở thành địa bàn có tính chất cơ
động, có vị trí chiến lược về quân sự, là vành đai, áo giáp bảo vệ Thủ đô trong
những năm tháng chiến tranh ác liệt.
Ngoài những mặt thuận lợi, trong quá trình phát triển Hà Tây cũng gặp một số
khó khăn, phức tạp do địa hình phân bố không bằng phẳng, thấp dần từ Tây sang
Đông và từ Bắc xuống Nam, do đó về mùa mưa thường bị úng lụt, nhất là ở các
huyện phía Nam của tỉnh. Do phức tạp về địa hình nên trong tỉnh có nhiều vùng
kinh tế, văn hóa khác nhau, mặt khác, sự phân bố dân cư không đồng đều và tỷ lệ
gia tăng nhanh nên diện tích đất canh tác bị thu hẹp, gây không ít khó khăn cho
việc phát triển kinh tế.
Giao thông: Với lợi thế nằm ở khu trung tâm của vùng đồng bằng Bắc Bộ,
liền kề thủ đô Hà Nội, Hà Tây có hệ thống hạ tầng giao thông rất phát triển. Quốc
lộ 1 từ Hà Nội qua Hà Tây chạy dài tới thành phố Hồ Chí Minh. Quốc lộ 6 qua
Hòa Bình nối liền với Tây Bắc. Quốc lộ 32 qua Vĩnh Phúc nối Hà Tây với Việt
Bắc. Quốc lộ 21B từ thành phố Hà Đông đi các huyện phía Nam của tỉnh , qua Hà
Nam. Đường cao tốc Láng - Hoà Lạc là tuyến giao thông huyế́t mạch nối Hà Nội
với sân bay Hoà Lạc ở huyện Thạch Thất của tỉnh Hà Tây. Ngoài đường bộ, hệ
thống giao thông đường thuỷ của Hà Tây cũng khá thuận tiện. Sông Hồng chảy ở
phía Đông của tỉnh, theo chiều Bắc Nam. Sông Đà chảy ở vùng Tây Bắc của huyện
Ba Vì. Ngoài ra, còn có 4 con sông nhỏ chạy trong nội tỉnh tạo thành hệ thống giao
thông thủy bộ liên hoàn.
Văn hoá - xã hội: Là tỉnh có nhiều dân tộc cùng chung sống, Hà Tây có một
kho tàng văn học dân gian phong phú: ca dao, dân ca, tục ngữ, truyện thơ, truyện
cổ tích, truyện cười có giá trị văn học. Người Kinh có hát chèo, hát trống quân,
hát cò lả, hát cửa đình, múa rối nước. Người Mường có hát xéc bùa, hát ví, hát
đúm, hát ru, hát đồng dao. Nhạc cụ có trống kèn... Cồng chiêng là một loại hình
âm nhạc độc đáo của dân tộc Mường. Người Dao có múa rùa, múa chung, múa
chim. Nơi là vùng đất sản sinh ra nhiều danh nhân dân tộc tiêu biểu như Phùng
Hưng, Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Phan Huy Chú. Đồng thời là mảnh đất bảo tồn
nhiều di sản văn hóa dân tộc tiêu biểu là hàng trăm đình chùa, miếu mạo có giá trị
về kiến trúc điêu khắc, nghệ thuật tôn giáo.
Hà Tây có rất nhiều Lễ hội mang đặc trưng của Lễ hội truyền thống đồng
bằng Bắc bộ Việt Nam, mỗi làng, mỗi vùng đều có Lễ hội riêng. Mỗi Lễ hội như
một bảo tàng văn hoá sống động thể hiện rõ những nét đặc trưng văn hoá dân tộc.
Du khách sẽ bắt gặp những nghi lễ tôn thờ các vị thần linh của cư dân nông nghiệp,
để cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu hay để tôn vinh, tưởng nhớ
những vị anh hùng, những người có công lao với đất nước, với làng xã được tôn
làm phúc thần bảo hộ. Lễ hội cũng là dịp để du khách tham dự vào những trò chơi
dân gian như đấu vật, đánh cờ người, thổi cơm thi, kéo co, hội thả diều, hội chọi
gà... hay xem các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống như hát dô, hát chèo
tầu, múa rối nước, múa rối cạn...
Kinh tế: Hà Tây liền kề Thủ đô Hà Nội, có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý
thuận lợi, đất đai phong phú, cảnh quan đẹp và có điều kiện phát triển để trở thành
một khu vực vệ tinh phát triển trên cả 3 lĩnh vực: Nông nghiệp, công nghiệp và du
lịch dịch vụ.
Trong những năm qua, kinh tế Hà Tây có những bước tiến đáng khích lệ. Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỉ trọng công nghiệp từ
34,59% (năm 2002) lên 37,1% (năm 2004) và giảm dần tỉ trọng nông nghiệp từ
35,9% xuống còn 33,6%; dịch vụ giữ mức 29,5%. Cơ cấu lao động cũng có sự
chuyển dịch quan trọng, từ 70% năm 2001, giảm xuống còn 65,8% năm 2004.
Trong nông nghiệp, tỉ trọng chăn nuôi tăng lên, cơ cấu mùa vụ có sự thay đổi lớn
với việc đưa vụ đông trở thành vụ sản xuất chính. Trong công nghiệp, khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh có tốc độ tăng 20%/năm, kinh tế Nhà nước tăng
27%/năm [77, tr. 12].
Tỉnh Hà Tây phấn đấu kết hợp hài hoà các nguồn lực bên trong và bên ngoài,
nhất là vốn đầu tư, kỹ thuật, công nghệ và nguyên liệu, phát triển mạnh và đồng bộ
hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho quá trình trao đổi hàng hoá và phát triển
các loại hình dịch vụ.
Du lịch:Hà Tây là vùng đất có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, gắn liền với
các dấu tích về lịch sử phát triển của dân tộc qua đấu tranh dựng nước và giữ nước
như vùng núi cao Ba Vì với huyền thoại Sơn Tinh - Thuỷ Tinh nay là Rừng Quốc
gia Ba Vì, dưới chân núi có nhiều cảnh đẹp, xây dựng các điểm du lịch: Ao Vua,
Khoang Xanh, Suối Tiên, Thác Mơ, Suối Hai, Đồng Mô…Dãy núi đá vôi trùng
điệp phía Tây Nam tỉnh (Quốc Oai, Chương Mỹ, Mỹ Đức) có nhiều hang động độc
đáo, kỳ thú, tiêu biểu là động Hương Tích tạo nên thắng cảnh Hương Sơn nổi tiếng
trong nước và thế giới, hàng năm thu hút hàng vạn khách thập phương đến du lịch
và trẩy hội.
Nơi đây còn có nhiều đình chùa có giá trị cao về mặt kiến trúc, điêu khắc nghệ
thuật và tôn giáo: chùa Hương trong động Hương Tích nổi tiếng với danh xưng
Nam thiên đệ nhất động, chùa Đậu (Thường Tín), chùa Tây Phương (Thạch Thất)
có kiến trúc độc đáo nổi tiếng với 80 vị La Hán, chùa Thầy (Quốc Oai) là nơi tu
hành của cao tăng Từ Đạo Hạnh. Cùng với hàng trăm di tích khác đều đã được xếp
hạng quốc gia như: chùa Bối Khê, chùa Trăm Gian, chùa Trầm, đền Và, chùa Mía,
lăng Ngô Quyền, đền Nguyễn Trãi, thành cổ Sơn Tây…
Tỉnh có 3 cụm du lịch: cụm Sơn Tây - Ba Vì là du lịch văn hoá sinh thái, nghỉ
ngơi, vui chơi, giải trí, tham quan di tích lịch sử và văn hoá dân gian, nghỉ cuối
tuần. Cụm chùa Hương là du lịch tín ngưỡng, tham quan di tích lịch sử, cảnh quan
thiên nhiên, du lịch hang động. Cụm Hà Đông và phụ cận là du lịch xanh, du lịch
văn hoá trong các làng nghề và làng nông nghiệp truyền thống, du lịch thương mại.
1.1.1.2. Truyền thống yêu nước và phong trào cách mạng ở Hà Tây
Trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc Việt Nam, nhân
dân Hà Tây luôn luôn biểu hiện sáng ngời truyền thống yêu nước bảo vệ tổ quốc
thân yêu của mình qua các chặng đường lịch sử.
Kể từ cuộc xâm lược của Triệu Ðà (năm 179 trước công nguyên) đến chiến
thắng Bạch Ðằng của Ngô Quyền (năm 938) vừa đúng 1117 năm. Hơn một thiên
niên kỷ ấy nước ta bị các triều đại phong kiến phương Bắc đô hộ mà sử cũ thường
gọi là thời kỳ Bắc thuộc, nhưng đâu chỉ có Bắc thuộc, liên tục hơn một thiên niên
kỷ ấy nhân dân ta nói chung, Hà Tây nói riêng không ngừng vùng dậy đấu tranh.
Ðã có hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ từ mọi miền đất nước chống xâm lược và
đô hộ trong đó có 6 cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi đưa đến sự thành lập
chính quyền độc lập tự chủ trong một thời gian. Ðiểm nổi bật biểu hiện sáng ngời
truyền thống yêu nước của nhân dân Hà Tây là trong 6 cuộc khởi nghĩa thành công
của cả nước thì có 3 cuộc đã bùng lên đầu tiên trên quê hương Hà Tây dưới sự lãnh
đạo của những người con ưu tú của nhân dân xứ này. Những nghĩa quân đầu tiên
tham gia vào 3 cuộc khởi nghĩa đó là người dân Hà Tây.
Ðó là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 đưa đến sự ra đời của nhà
nước độc lập tự chủ trong những năm 40- 43; Cuộc khởi nghĩa của anh em Phùng
Hưng (766 - 779) với sự thành lập nền tự chủ cho đất nước trong những năm 783791; Ngô Quyền và Chiến thắng Bạch Ðằng, đánh bại quân xâm lược Nam Hán
năm 938, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên hoàn toàn độc lập tự chủ
dưới thời đại Ðại Việt (từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX)
Từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ thứ XIX,các triều đại phong kiến Trung Quốc với
tham vọng thôn tính Ðại Việt biến thành quận huyện của chúng, đã liên tục xâm
lược. Cuộc xâm lược của nhà Tống năm 981 - 1077. Cuộc xâm lược của đế chế
Nguyên - Mông 3 lần (1258, 1285, 1287), cuộc xâm lược của nhà Minh năm 1407
và của Mãn Thanh năm 1789. Các cuộc xâm lược diễn ra lúc đất nước đang gặp rất
nhiều khó khăn, thế lực quân giặc đông hơn ta gấp bội. Nhưng tiếp nối truyền
thống yêu nước sáng ngời đã hun đúc trong hơn một nghìn năm chống Bắc thuộc,
nhân dân Hà Tây đã sát cánh với nhân dân cả nước, góp phần to lớn làm nên những
võ công lừng lẫy: Bạch Ðằng, Chi Lăng, Xương Giang, Ngọc Hồi, Ðống Ða lịch
sử.
Mỗi lần chống xâm lược, truyền thống yêu nước của nhân dân Hà Tây lại
càng ngời sáng. Biết bao tấm gương xả thân vì độc lập tự do của nhân dân Hà Tây
trong kỷ nguyên Ðại Việt đã trở thành biểu tượng cho truyền thống yêu nước Việt
Nam. Nguyễn Trãi đã “thề không chung sống với giặc Minh”, chịu đựng mười năm
nằm gai nếm mật ở thành Ðông Quan, viết nên sách “Bình Ngô” dâng lên Lê Lợi.
Bình Ngô Sách trở thành tư tưởng và đường lối chiến lược đưa đến thắng lợi của
nghĩa quân Lam Sơn. Bản thân Nguyễn Trãi đã có cống hiến lớn lao có ý nghĩa
quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Cùng với Nguyễn Trãi còn có Bùi Quốc
Hưng (huyện Chương Ðức), Lý Tử Tấn (huyện Thường Tín) là những tướng soái
trọng yếu của Bộ tham mưu nghĩa quân Lam Sơn.
Còn nhiều gương mặt khác biểu hiện tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc sâu
sắc của con người Hà Tây trong lịch sử Ðại Việt như Giang Văn Minh (huyện Ba
Vì) đỗ thám hoa năm 1628, đi sứ sang Trung Quốc. Ðể bảo vệ quốc thể, bảo vệ
thanh danh của dân tộc mà ông sẵn sàng hy sinh dưới lưỡi đao cắt lưỡi của tên
trùm phong kiến nhà Minh. Ngô Thì Nhậm (Thanh Oai) tiêu biểu cho lòng yêu
nước của người trí thức đất Việt ở thế kỷ XVIII. Ông cùng với đô đốc Ðặng Tiến
Ðông (huyện Chương Mỹ) đã góp phần quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến
đánh bại 29 vạn quân Thanh xâm lược vào mùa xuân Kỷ văn phái ; còn viết chung
cuốn tiểu thuyết lịch sử quan trọng và đặc sắc là “Hoàng Lê nhất thống chí ”…
Trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước bốn nghìn năm của dân tộc, biết bao
thế hệ nhân dân Hà Tây đã thể hiện sáng ngời truyền thống yêu nước thiết tha, sẵn
sàng xả thân vì độc lập, tự do của đất nước. Truyền thống anh hùng đó đang được
những thế hệ người Hà Tây hôm nay kế thừa, phát huy trong công cuộc xây dựng
quê hương đất nước xã hội chủ nghĩa.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,Hà Ðông - Sơn Tây
(1965 hợp nhất thành tỉnh Hà Tây) là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội, là vùng đất trù
phú có tiềm năng kinh tế dồi dào và vị trí quân sự quan trọng. Trong suốt những
năm kháng chiến, Pháp và Mỹ đã cử những tên tay sai đắc lực và xảo quyệt cai trị
nơi đây vốn được coi như tai mắt - áo giáp cho cơ quan đầu não của chúng ở thủ
đô. Vì vậy, Hà Ðông, Sơn Tây trở thành mảnh đất tốt nẩy mầm phong trào cách
mạng.
1.1.1.3. Khái quát tình hình thực hiện nhiệm vụ hậu phương trước năm
1965 của tỉnh Hà Tây
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc
được hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn đặt dưới sự kiểm soát của đế quốc Mỹ,
nhân dân và các lực lượng vũ trang hai tỉnh Hà Đông - Sơn Tây phấn khởi bắt tay
vào xây dựng lại địa phương của mình, bước vào thời kỳ cách mạng XHCN theo
quyết tâm chiến lược chung của Đảng “… miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể tình
hình nào, miền Bắc cũng phải được củng cố” [52, tr.67]. Là một tỉnh có nhiều điều
kiện để phát triển kinh tế: mạng lưới giao thông dày đặc, diện tích đất canh tác
rộng, nguồn nhân lực dồi dào và còn là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội, Hà Tây hội tụ
những yếu tố để phát triển và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau chiến
tranh, hậu quả để lại còn hết sức nặng nề. Trên 40.000 mẫu ruộng bị hoang hóa lâu
ngày, nhất là ở khu cháy Ứng Hòa, trung tâm huyện Phú Xuyên, vành đai trắng
dọc đường 21A từ Sơn Tây xuống Mỹ Đức, sân bay dày đặc dây thép gai, cọc sắt,
mìn các loại… Các tuyến đê ven Sông Hồng, Sông Đà, Sông Đáy nhiều đoạn bị sụt
lở nghiêm trọng. Nhiều nơi dân cư bị mất nhà cửa, tài sản lương thực bị thiếu thốn,
đàn gia súc, sức kéo của nhân dân phục vụ sản xuất thiếu nghiêm trọng. Cùng với
đó, hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây… có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công
nghiệp thiếu nguyên liệu, máy móc thiết bị bị địch tháo gỡ, hàng vạn người làm
nghề thủ công, buôn bán gặp nhiều khó khăn. Các tệ nạn xã hội cũ, nhất là các ấn
phẩm văn hóa phản động chưa được xóa bỏ… điều này gây không ít khó khăn cho
Đảng bộ hai tỉnh Hà Đông - Sơn Tây trong quá trình khôi phục, phát triển kinh tế
từ đó thực hiện nhiệm vụ với hậu phương lớn miền Nam.
Nắm bắt được tình hình đó, cùng với nhân dân miền Bắc, quân và dân Sơn
Tây - Hà Đông bước vào thời kỳ mới, quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị, BTV
Tỉnh ủy hai tỉnh Hà Đông - Sơn Tây căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng địa
phương đề ra chủ trương, nhiệm vụ cấp bách lúc này là tiếp quản vùng giải phóng,
nhanh chóng ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục hồi
kinh tế. Đồng thời chống địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào ta di cư vào Nam và
chuẩn bị đón tiếp hàng vạn đồng bào miền Nam ra tập kết. Nhiệm vụ này đòi hỏi
sự nỗ lực rất lớn từ phía quân và dân hai tỉnh thì mới có thể sớm ổn định tình hình.
Đầu năm 1958, tình hình cả nước có những biến chuyển mới. Trong lúc nhân
dân miền Bắc tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế, văn
hóa. Ở miền Nam, chính quyền Mỹ - Diệm điên cuồng mở chiến dịch “tố cộng - diệt
cộng”, nhiều vụ thảm sát đã xảy ra. Những hành động dã man đó của đế quốc Mỹ đã
gây căm phẫn trong nhân dân, nhưng không vì thế mà người dân mất đi tinh thần, ý
chí đấu tranh mà còn tiếp thêm cho họ sức mạnh, sự dũng cảm để chiến đấu. Quân
dân miền Bắc nói chung và quân dân Hà Đông - Sơn Tây nói riêng, đã biến đau
thương thành hành động, sẵn sàng làm mọi việc vì miền Nam ruột thịt, trong đó có
tình kết nghĩa “Hà Đông - Cần Thơ”, “Sơn Tây - Tây Ninh”. Các cấp ủy Đảng,
chính quyền và các đoàn thể quần chúng hết lòng quan tâm, giúp đỡ các anh chị em
miền Nam ra tập kết.
Tháng 1 năm 1959, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ XV (mở rộng),
Hội nghị đã đưa ra phương hướng, nhiệm vụ cách mạng miền Nam và nhấn mạnh
vai trò, vị trí của miền Bắc, Nghị quyết Hội nghị Trung ương nêu rõ: “Tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là xây dựng cuộc sống mới, hòa bình, tự
do, hạnh phúc của nhân dân miền Bắc, đồng thời củng cố miền bắc thành cơ sở
vững chắc về mọi mặt, là cơ sở hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ
trong cả nước, thống nhất tổ quốc” [47, tr.90-91].
Do yêu cầu của cách mạng, ở miền Bắc, trong đó có Hà Đông - Sơn Tây phải
nỗ lực khẩn trương hơn nữa trên mọi mặt, sẵn sàng đáp ứng chi viện cho miền
Nam ruột thịt. Lần lượt trong tháng 01 và tháng 2 ở Hà Đông và Sơn Tây tiến hành
Đại hội, Nghị quyết của Đại hội của hai tỉnh nhìn chung đã thống nhất nội dung cơ
bản từ năm 1958 đến năm 1960 là phải tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa với các
thành phần kinh tế cá thể. Trong đó có cải tạo và phát triển nông nghiệp là nhiệm
vụ trọng tâm, trên cơ sở không ngừng phát triển các ngành kinh tế khác, từng bước
nâng cao đời sống của nhân dân. Củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng, sẵn
sàng chi viện cho cách mạng miền Nam. Căn cứ vào tình hình và đặc điểm kinh tế
- xã hội của tỉnh, Đảng bộ Hà Tây chủ trương tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa
một cách tích cực nhất, thận trọng, vững chắc và chu đáo.
Kết quả thu được trong công cuộc khôi phục, xây dựng và phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội trong những năm qua là sự phấn đấu liên tục của quân và dân Hà
Đông - Sơn tây. Thắng lợi đó góp phần khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn
của Trung ương Đảng, sự chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai
thực hiện nhiệm vụ của Đảng bộ Hà Đông - Sơn Tây. Từ đây, quân và dân Hà
Đông - Sơn Tây có nhiều thuận lợi cho sự phát triển ở địa phương những năm tiếp
theo và có cơ sở để làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam, cho cách
mạng Việt Nam.
Bước sang năm 1960, chấp hành Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ III (9 - 1960) và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đầu năm
1960, Nghị quyết Tỉnh ủy số 69 - NĐ/TU về nhận định năm 1960 đã xác định
nhiệm vụ của địa phương là phải tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, phát
triển nông nghiệp làm nhiệm vụ trung tâm, đồng thời phát triển công nghiệp, chuẩn
bị tốt cơ sở vật chất cho kế hoạch 5 năm lần thứ I. Bên cạnh đó, cần làm tốt công
tác quân sự địa phương, góp phần cùng quân dân cả nước giải phóng miền Nam,
thống nhất tổ quốc.
Quán triệt Nghị quyết của Tỉnh ủy, toàn tỉnh đã dấy lên phong trào thi đua
đuổi kịp và vượt “Đại Phong” trong nông nghiệp, “Duy Hải” trong công nghiệp,
“Bắc Lý” trong giáo dục. Những phong trào này có tác dụng sâu sắc tới đời sống
xã hội ở địa phương. Các HTX Thái Bạt, Phú Trạch, Trung Lập, đã đẩy mạnh công
tác cải tiến kĩ thuật, quản lý để trở thành lá cờ đầu trong tỉnh. Nhiều đơn vị sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phấn đấu liên tục để được công nhận là
những điển hình tiên tiến. Các ngành y tế, văn hóa, giáo dục xuất hiện nhiều đơn vị
điển hình. Phong trào phấn đấu trở thành “Tổ lao động xã hội chủ nghĩa” được
nhiều tầng lớp hưởng ứng.
Cùng với nhân dân, lực lượng vũ trang trong tỉnh sôi nổi hưởng ứng cuộc vận
động “Xây dựng quân đội tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy, hiện
đại” của quân ủy Trung ương, đẩy mạnh phong trào thi đua “Ba nhất”, các phong trào
này tạo nên khí thế mới, nâng cao chất lượng mọi mặt công tác, đảm bảo cho mỗi
chiến sĩ luôn chiến đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Trong 10 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ hai tỉnh Hà Đông - Sơn Tây
đã xây dựng được nền kinh tế vững chắc về cơ cấu và thành phần, năng suất đi vào
ổn định với hai nền sản xuất chính là nông nghiệp và công nghiệp. Lực lượng vũ
trang được xây dựng vững chắc, lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh được củng cố. Quân và dân ở hai tỉnh chung sức, chung lòng xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và làm hậu phương vững chắc cho
tiến tuyến lớn miền Nam.
1.1.1.4. Chủ trương của Trung ương Đảng
Từ đầu năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt
Nam bước vào thời kỳ mới. Miền Bắc với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 1965) được hoàn thành, đã nâng cao đáng kể tiềm lực kinh tế, quốc phòng của đất
nước. Ở miền Nam, quân và dân đã đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”,
đẩy quân đội Sài Gòn vào thế nguy khốn, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược
mới là chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, không những thế Mỹ thực
hiện “leo thang” CTPH bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Đầu tháng 02 1965, không quân Mỹ mở chiến dịch “Mũi lao lửa” ở miền Bắc, ném bom thị trấn
Hồ Xá (Vĩnh Linh), thị xã Đồng Hới (Quảng Bình). Từ ngày 02 - 3 - 1965, Mỹ
chuyển sang chiến dịch “Sấm rền”, đánh phá liên tục và ác liệt hơn trên suốt dải
đất khu IV (từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20). Hải quân Mỹ cho tàu chiến, máy bay
uy hiếp, bắn phá các đảo và mục tiêu ven biển nhằm phá hủy hệ thống quan sát,
báo động từ xa, chuẩn bị cho những đợt đánh phá quy mô lớn nhằm vào tiềm lực
kinh tế, quốc phòng của miền Bắc.
Âm mưu và thủ đoạn mới của Mỹ tạo ra sức ép rất lớn đối với nhân dân cả hai
miền. Để đề ra phương hướng, giải pháp giải quyết vấn đề, từ ngày 25 đến ngày 27
- 3 - 1965, BCH Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 11 (phiên họp đặc biệt)
ra Nghị quyết với nội dung chủ yếu là tập trung toàn bộ tinh thần và lực lượng vào
việc xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hội
nghị đã phân tích tình hình hai miền Nam - Bắc và chỉ rõ “cả nước có chiến tranh
với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền” [18, tr.108]. Hội nghị xác định
nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc là “Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo
vệ miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân
của địch... ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam; ra sức
giúp đỡ cách mạng Lào” [18, tr.108].
Hội nghị khẳng định: “Miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu
phương lớn, nhưng nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến
đấu cho tiền tuyến miền Nam” [18, tr.108, 109]. Khẩu hiệu chung của miền Bắc là
“Xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam”. Để phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử, Trung ương Đảng quyết định chuyển hướng miền Bắc sang thời chiến,
nhằm đối phó với tình hình đánh phá của không quân và hải quân Mỹ, đáp ứng yêu
cầu xây dựng CNXH, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Hội nghị lần thứ 11
của BCH Trung ương Đảng (khóa III) đã mở ra cho miền Bắc một thời kỳ chiến
đấu và phát triển mới.
Tiếp theo đó, ngày 5 - 3 - 1965, Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh động viên cán bộ,
thể hiện quyết tâm đánh giặc Mỹ xâm lược trong bất kỳ hoàn cảnh nào.Trong