ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ HƯỜNG
NGHIÊN CỨU NHÓM TỪ BIỂU THỊ HỌAT ĐỘNG
THỊ GIÁC CỦA CON NGƯỜI
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Hà Nội - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ HƯỜNG
NGHIÊN CỨU NHÓM TỪ BIỂU THỊ HỌAT ĐỘNG
THỊ GIÁC CỦA CON NGƯỜI
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Hà Nội - 2009
2
lêi cam ®oan
Tôi xin cam đoan trong quá trình thực hiện đề tài đã không sao chép,
coppy mà do quá trình nghiên cứu, và đề tài này của tôi đã đƣợc hội đồng
giám khảo duyệt và công nhận.
Ngƣời cam đoan
Trần Thị Hường
3
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc hết, tôi xin cảm ơn chân thành Ban Chủ nhiệm và các thầy cô
giáo trong Khoa Ngôn ngữ học - Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi tôi học tập tại Khoa.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn sâu sắc tới GS.TS Nguyễn Thiện Giáp, ngƣời thầy
đáng kính đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài luận
văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn tới các vị lãnh đạo nơi tôi đang công tác, bạn bè và gia
đình đã luôn động viên, tiếp sức cho tôi.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhƣng vẫn khó
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp của thầy cô
và các bạn để luận văn đƣợc hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Hường
4
MỤC LỤC
Trang
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
3
1. Lí do chọn đề tài
4
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
6
3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu
7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
8
4.1. Phƣơng pháp miêu tả
8
4.1.1. Thủ pháp phân tích nghĩa tố
8
4.1.2. Thủ pháp thống kê
10
4.2. Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu
10
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
11
Chương 1: Cơ sở lí thuyết liên quan
13
1.1. Lí thuyết về trƣờng nghĩa
13
1.2. Phân biệt trƣờng nghĩa và trƣờng từ vựng
19
Chương 2: Nghiên cứu nhóm từ biểu thị hoạt động thị
giác của con người trong tiếng Việt
22
2.1. Trƣờng nghĩa biểu thị hoạt động thị giác của con
ngƣời trong tiếng Việt
22
2.1.1. Xác lập trƣờng nghĩa miêu tả hoạt động thị giác của
con ngƣời trong tiếng Việt
22
2.1.2. Miêu tả trƣờng nghĩa hoạt động thị giác của con
ngƣời trong tiếng Việt
25
a. Phân tích cấu trúc nghĩa của các nghĩa tố trong trƣờng nghĩa
25
5
b. Hiện tƣợng đồng nghĩa trong trƣờng nghĩa
35
2.2. Trƣờng từ vựng của trƣờng nghĩa hoạt động thị giác
của con ngƣời trong tiếng Việt
38
2.2.1. Xác lập trƣờng từ vựng
38
2.2.2. Phân tích các ý nghĩa của nhóm từ biểu thị hoạt
động thị giác của con ngƣời trong tiếng Việt
40
2.2.3. Miêu tả trƣờng từ vựng của trƣờng nghĩa
45
Chương 3: So sánh trường từ vựng - ngữ nghĩa biểu thị
hoạt động thị giác của con người trong tiếng Việt và
tiếng Pháp
48
3.1. Số lƣợng từ thuộc trƣờng nghĩa
48
3.2. Sự tƣơng ứng về từ trong trƣờng nghĩa ở tiếng Việt và
tiếng Pháp
49
3.3. Các nghĩa tố trong trƣờng nghĩa miêu tả các từ chỉ
hoạt động thị giác của con ngƣời trong tiếng Pháp
56
3.4. Trƣờng từ vựng của trƣờng nghĩa hoạt động thị giác
của con ngƣời trong tiếng Pháp
71
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
78
6
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhƣ các ngành khoa học khác, Ngôn ngữ học là một ngành tri thức vô
cùng rộng lớn và rất hữu ích cho bất cứ ai quan tâm đến lĩnh vực này. Chúng
ta đang sống trong thế giới của từ ngữ. Khó có giây phút nào qua đi mà lại
không có ai nói, viết hoặc đọc cái gì đó. Vì “Ngôn ngữ là một hệ thống tín
hiệu âm thanh đặc biệt, là phƣơng tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của
các thành viên trong một cộng đồng ngƣời; ngôn ngữ đồng thời cũng là
phƣơng tiện phát triển tƣ duy, truyền đạt truyền thống văn hoá - lịch sử từ thế
hệ này sang thế hệ khác”.
Ngôn ngữ vốn tồn tại nhƣ một chỉnh thể thống nhất, có quy luật nội
tại chặt chẽ, với các tầng bậc đơn vị khác nhau. Các đơn vị ấy đƣợc tổ chức
thống nhất theo một quy luật riêng, theo trình tự từ thấp đến cao. Các quy luật
nhận thức, tƣ duy của các dân tộc vốn có những nét tƣơng đồng. Tuy nhiên,
những suy nghĩ giống nhau của những ngƣời nói các ngôn ngữ khác nhau lại
đƣợc thể hiện dƣới các hình thức khác nhau của ngôn từ, của chữ viết.
Vốn từ của ngôn ngữ vô cùng lớn, phong phú và đa dạng. Ngƣời ta
không thể nào nghiên cứu một cách thấu đáo toàn bộ hệ thống từ vựng và ngữ
nghĩa của nó cùng một lúc. Bằng thực tế nghiên cứu, nhiều nhà ngôn ngữ học
đã chỉ ra rằng: cần thiết phải chia nhỏ hệ thống lớn ấy thành những hệ thống
con để thuận lợi hơn cho việc nghiên cứu. Thực tế, mọi ngôn ngữ đều có thể
phân thành những nhóm từ vựng “có quan hệ gần gũi về một ý nghĩa cụ thể,
riêng biệt có ý nghĩa rất lớn, giúp chúng ta vạch ra đƣợc những cấu trúc nghĩa
cơ bản, từ đó làm cơ sở cho việc tìm hiểu chung về ngữ nghĩa của ngôn ngữ”.
Hiện nay, trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa đang là một lĩnh vực thu hút
đƣợc sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học. Trên thế
giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu về trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa nhƣ: trƣờng về các bộ phận cơ thể
ngƣời, các nhóm từ chỉ cảm xúc, chỉ màu sắc, chỉ quan hệ họ hàng, chỉ hiện
tƣợng địa lý, những từ chỉ sự nói năng, suy nghĩ, vận động, những từ gắn
7
liền với xúc giác, khứu giác và các giác tri giác nhờ các giác quan của con
ngƣời.
Một trong những vai trò của ngôn ngữ là dùng để mô tả những gì
chúng ta nhận biết đƣợc từ thế giới bên ngoài thông qua các giác quan. Trong
các giác quan, có lẽ thị giác đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn trong
khối lƣợng thông tin của thế giới bên ngoài, đƣợc hấp thụ vào trong kho tàng
kiến thức của mỗi cá nhân. Những cơ quan giúp chúng ta tích luỹ thông tin có
thể là mắt, mũi, tai, chân tay... và dĩ nhiên là khi chúng ta tƣờng thuật lại
những thông tin chúng ta có đƣợc, những thông tin đó đã trải qua một quá
trình lọc của nhận thức và điều đó mang theo tính chủ quan cảm nhận của
từng chủ thể riêng biệt. Những trải nghiệm mà chúng ta có đƣợc đều liên quan
đến cơ thể về mặt sinh học. Nói cách khác, chúng ta chỉ có thể nói về những
thứ chúng ta nhận thức đƣợc, hiểu đƣợc. Và những thứ mà chúng ta nhận thức
đƣợc xuất phát từ những trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày.
Langacker cho rằng để hình thành nên giá trị khái niệm của nghĩa và
ngữ pháp, chúng ta cần quan tâm đến vai trò của những trải nghiệm về không
gian và thị giác trong việc hình thành nên những yếu tố khác nhận thức. Ông
nhấn mạnh vai trò của thị giác vừa mang tính chất bao phủ, nghĩa là sâu rộng,
ở đâu cũng tồn tại, vừa mang tính chất rất quan trọng. Hiện tƣợng bày tỏ việc
hiểu hoặc biết nghĩa của một câu hay một sự vật, hiện tƣợng thông qua thị
giác là hiện tƣợng điển hình. Chính điều này cho chúng ta thấy đƣợc cách
thức mà ngôn ngữ phản ánh mối quan hệ giữa những cảm nhận về mặt sinh
học và quá trình ý niệm hoá tinh thần.
Thị giác không chỉ đóng vai trò quan trọng giúp chúng ta định vị
trong không gian mà còn giúp chúng ta xác lập những quan điểm cụ thể của
từng cá nhân và từ đó đƣa ra những nhận xét về sự vật, hiện tƣợng phản ánh
quan điểm của mình. Cùng một sự vật, hiện tƣợng trong thế giới khách quan,
nhƣng thông qua lăng kính tri nhận của ngƣời nói hoặc viết, chúng ta có thể
đƣa ra những phát biểu mô tả khác nhau về mặt ngôn ngữ. Điều này chứng tỏ
ngôn ngữ bị ảnh hƣởng lớn bởi cảm nhận tri giác, đặc biệt là cơ quan thị giác
của con ngƣời.
8
Nghiên cứu trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa của nhóm từ biểu thị hoạt
động thị giác của con ngƣời là một khía cạnh khá thú vị. Chúng ta đều biết,
trong các giác quan của con ngƣời, đôi mắt thƣờng biểu thị nhiều cảm xúc
nhất. Mọi niềm vui, nỗi buồn, sự tức giận hay lo âu đều thể hiện trong “cửa sổ
tâm hồn” ấy. Bằng những hiểu biết còn khá khiêm tốn của mình, tôi mong
muốn bƣớc đầu có thể khảo sát và nghiên cứu cấu trúc của nhóm từ biểu thị
hoạt động thị giác của con ngƣời trong sự so sánh giữa tiếng Việt và tiếng
Pháp. Qua đó nhằm phát hiện ra những điểm giống và khác nhau giữa hai
ngôn ngữ trong quá trình biểu thị cảm xúc ở mỗi quốc gia trong cùng một
trƣờng nghĩa. Điều này có ý nghĩa rất sâu sắc cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn,
đặc biệt là trong lĩnh vực dạy và học ngoại ngữ, dịch thuật. Học một ngôn ngữ
là học cả nền văn hoá của dân tộc ấy. Vì vậy, nghiên cứu ngôn ngữ gắn liền
với những biểu hiện văn hoá là vô cùng cần thiết. Đề tài nghiên cứu của tôi rất
mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình trong nghiên cứu
trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa.
2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là cấu trúc nghĩa của nhóm từ biểu
thị hoạt động thị giác của con ngƣời trong tiếng Việt. Chúng ta có thể thấy từ
trong tiếng Việt vốn dĩ đã mang tính khái quát cao, đồng thời vẫn mang tính
mềm dẻo, uyển chuyển trong vận dụng.
Trên cơ sở tiếng Việt, tiến hành đối chiếu với cấu trúc nghĩa của
các từ trong tiếng Pháp; từ đó rút ra sự tƣơng đồng và khác biệt của nhóm
từ này trong tiếng Pháp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Ở đây, tôi chỉ dừng lại khảo sát và
nghiên cứu đặc điểm của các từ chỉ hoạt động của thị giác trong tiếng Việt và
tiếng Pháp. Các từ tiếng Việt đƣợc khảo sát, nghiên cứu và phân tích dựa trên
“Từ điển tiếng Việt” của Hoàng Phê. Các từ tiếng Pháp đƣợc xác định dựa
trên cơ sở các từ tiếng Việt dịch chuyển sang và khảo sát, phân tích dựa trên
Từ điển Việt - Pháp (Dictionnaire Vietnamien - franỗais), Từ điển Pháp Việt (Dictionnaire Franỗais - vietnamien), của Nhà xuất bản Khoa học Hà
Nội, Từ điển Pháp - Pháp - Việt của Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, 2005,
9
Từ điển Le Petit Larousse, Imprimerie Carteman - Tournai, 1992. Qua việc
nghiên cứu này, chúng ta sẽ một phần nào đƣợc sáng tỏ thêm đặc điểm cấu
trúc của nhóm từ biểu thị hoạt động thị giác của con ngƣời trong hai ngôn ngữ.
3. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU
Đề tài “Nghiên cứu nhóm từ biểu thị hoạt động thị giác của con
người trong tiếng Việt và tiếng Pháp” nhằm mục đích sau:
Khảo sát cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm từ biểu thị hoạt động của mắt
trong tiếng Việt và tiếng Pháp.
Rút ra những điểm giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ.
Thấy đƣợc những đặc trƣng về văn hoá của hai dân tộc thông qua
việc nghiên cứu nhóm từ vựng - ngữ nghĩa này.
Ngoài ra, đề tài còn có một ý nghĩa nhất định cả về mặt lí luận và
thực tiễn.
Về mặt lý luận: khảo sát, nghiên cứu và đối chiếu cấu trúc nghĩa của
một nhóm từ trong tiếng Việt và tiếng Pháp, góp phần bổ sung những lí thuyết
nghiên cứu về trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa; đồng thời đem đến một bức tranh
ngữ nghĩa với những điểm tƣơng đồng và dị biệt ở hai ngôn ngữ trong cùng
một trƣờng nghĩa. Việc khảo sát và nghiên cứu trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa
trong tiếng Việt và tiếng Pháp là tƣơng đối khó khăn vì hai ngôn ngữ hoàn
toàn không có quan hệ họ hàng với nhau, thuộc loại hình ngôn ngữ khác
nhau; hai nƣớc, hai dân tộc nói hai thứ tiếng này lại ở hai khu vực rất khác
nhau, có những đặc điểm văn hoá, lịch sử, phong tục khác nhau... Tuy nhiên,
việc nghiên cứu sẽ góp phần nhỏ bé trong việc làm sáng tỏ những khác biệt về
ngôn ngữ và văn hoá giữa tiếng Việt và tiếng Pháp, đồng thời bổ sung thêm lí
thuyết so sánh đối chiếu các ngôn ngữ.
Về mặt thực tiễn: Việc khảo sát cấu trúc nghĩa của nhóm từ biểu thị
hoạt động của mắt trong hai ngôn ngữ giúp cho làm sáng tỏ những đặc trƣng
về trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa này ở hai dân tộc khác nhau; đồng thời làm
sáng tỏ cấu trúc trƣờng nghĩa trong hai ngôn ngữ, từ đó giúp cho việc biên
10
dịch đạt hiệu quả hơn. Thực tế, việc dạy và học ngoại ngữ cũng nhƣ dịch
thuật ở nƣớc ta còn gặp nhiều thiếu sót. Sở dĩ là do vốn tri thức từ vựng - ngữ
nghĩa về ngoại ngữ hay ngôn ngữ cần chuyển dịch là chƣa thực sự đầy đủ,
nhiều khi quá trình dịch thuật còn diễn ra một cách khiên cƣỡng, chƣa phản
ánh đúng đặc trƣng ngôn ngữ và văn hoá của dân tộc sử dụng ngôn ngữ ấy. Vì
vậy, việc tìm ra cấu trúc nghĩa của một nhóm từ trong hai ngôn ngữ sẽ giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về nghĩa của các từ, sử dụng chúng một cách chính xác
hơn, đồng thời giúp cho việc dịch thuật từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia
trong cùng một trƣờng nghĩa thuận lợi hơn.
Nhìn chung, có thể thấy rằng, động từ trong tiếng Việt quả thật là
một loại từ gói ghém trong nó và kéo theo nó khá nhiều vấn đề có liên quan
tới cả mặt lí luận lẫn thực tiễn của ngôn ngữ học nói chung, của Việt ngữ học
nói riêng. Theo tác giả Nguyễn Kim Thản, có lẽ rằng từ “khoảng trời” động từ
tiếng Việt, có thể nhìn thấy đƣợc nhiều hiện tƣợng của cả “bầu trời” tiếng
Việt không phải là điều quá đáng và nếu nói rằng từ những đặc điểm của tiếng
Việt có thể nhìn thấy nhiều đặc điểm của những ngôn ngữ cùng loại hình thì
không xa sự thật là bao nhiêu. Vì vậy, việc nghiên cứu động từ tiếng Việt vẫn
còn là những vấn đề khá phức tạp, cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Từ đó,
chúng ta có thể so sánh đối chiếu với động từ trong các ngôn ngữ khác.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tôi tập trung đi sâu
nghiên cứu động từ biểu thị hoạt động thị giác của con ngƣời trong tiếng Việt
và tiếng Pháp. Với hiểu biết còn hạn còn hạn chế của mình, tôi hy vọng đóng
góp một phần nhỏ bé trong việc nghiên cứu vấn đề này.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phƣơng pháp miêu tả
4.1.1. Thủ pháp phân tích nghĩa tố
Thủ pháp pháp phân tích nghĩa tố có vai trò quan trọng trong việc
xác định cấu trúc nghĩa của trƣờng nghĩa. Thủ pháp này giúp chúng ta phân
chia nội dung nghĩa của từ thành các nghĩa tố khác nhau. Mỗi từ đƣợc cấu
thành từ một số nghĩa tố nhất định theo những quan hệ xác định nào đó.
11
Thủ pháp phân tích nghĩa tố còn cho phép chúng ta có thể miêu tả
một số lƣợng lớn các từ của ngôn ngữ tự nhiên bằng một số lƣợng hữu hạn
các nghĩa tố. Bởi vì từ vựng là sự kết hợp của các thành tố ngữ nghĩa, mọi
nghĩa đều có thể chia ra thành những yếu tố nghĩa nhỏ nhất không thể chia
nhỏ đƣợc hơn nữa. Ngƣời ta cho rằng, có thể miêu tả tất cả các từ của ngôn
ngữ bằng một số hữu hạn các nghĩa tố nhƣ vậy. Những tƣ tƣởng này có cả ở
Mĩ, Pháp, Nga và các nƣớc khác. Đối với ngữ vị học của Hjemslev, tất cả cái
hiểu biện và cái đƣợc biểu hiện của tín hiệu có thể phân tích thành các đơn vị
có tính chất yếu tố tạo thành của chúng. Những đơn vị nhƣ vậy L.Hjemslev
gọi là các cấu hình (figure). Phân tích thành tố ở Mĩ xuất phát từ nhân học
ngôn ngữ (linguistic anthropology). Theo cách phân tích này, các đơn vị đƣợc
phân tích ra thành một chuỗi các đặc trƣng ngữ nghĩa (semantic features), hay
các thành tố nghĩa (components). Đây chính là một quá trình phân tích nghĩa
của từ thành các nét khu biệt tối thiểu, tức là phân tích thành những yếu tố đối
lập với những yếu tố khác. GS.TS Nguyễn Thiện Giáp (Các phương pháp
nghiên cứu ngôn ngữ, Nhà in ĐHQGHN, 2009) đã cho chúng ta thấy đƣợc
những quan niệm khác nhau về đặc điểm của nghĩa tố nhƣ sau:
i) Nghĩa tố là yếu tố nhỏ nhất của khái niệm, nó có tính chất liên
ngữ.
ii) Nghĩa tố là yếu tố thu đƣợc bằng kinh nghiệm trong khi nghiên
cứu một ngôn ngữ riêng biệt. Các đơn vị từ vựng chỉ đƣợc phân tích đến bƣớc
có thể phân biệt nghĩa vị này với nghĩa vị khác nhờ tối thiểu một yếu tố. Nhờ
những yếu tố thu đƣợc trong thủ thuật phân tích đó mà một đơn vị ngữ nghĩa
cụ thể có thể đƣợc miêu tả rõ ràng khác với đơn vị ngữ nghĩa khác. Quan
niệm này hàm ý rằng, các yếu tố nhƣ thế cũng có thể là một tổ hợp các yếu tố.
iii) Nghĩa tố là cấu hình ngữ nghĩa có đƣợc một cách tiên nghiệm.
Nó có giá trị nhƣ cái bẩm sinh phổ quát.
“Nghĩa tố là bộ phận nhỏ nhất trong thông báo một đơn vị ngôn ngữ”
(GS.TS Nguyễn Thiện Giáp - Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2003).
12
Có nhiều cách thức khác nhau để phân tích nghĩa tố trong nội dung
nghĩa của từ. Chúng ta có thể dựa vào từ điển tƣờng giải để phân tích các
nghĩa tố, cũng có thể phân tích nghĩa tố bằng cách đối lập từng cặp từ với
nhau để tìm ra các nghĩa tố tồn tại trong nội dung nghĩa của từ.
Khi xác định thành phần nghĩa tố của một đơn vị từ vựng, ngƣời ta
đề cập đến những loại nghĩa tố khác nhau, bởi từ vừa là đơn vị từ vựng, vừa là
đơn vị ngữ pháp, nó cũng có thể bao hàm cả một số sắc thái tu từ đặc biệt. Do
đó, trong một từ cần phải chia ra những nghĩa tố từ vựng và nghĩa tố ngữ
pháp, đồng thời phân tích thành tố nghĩa có quan hệ với việc phân tích cú
pháp.
Thủ pháp phân tích nghĩa tố không áp dụng với những từ cô lập. Kết
cấu của nghĩa tố chỉ có thể rõ ràng nếu chúng ta xem xét từ trong mối quan hệ
với những đơn vị ngôn ngữ khác.
4.1.2. Thủ pháp thống kê
Trong luận này, ngoài thủ pháp phân tích nghĩa tố chúng tôi còn
áp dụng thủ pháp thống kê để thống kê miêu tả các từ trong trƣờng nghĩa.
Thủ pháp thống kê sẽ giúp chúng ta có đƣợc những thông tin định
lƣợng về cấu trúc nghĩa cũng nhƣ đặc trƣng của trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa
miêu tả hoạt động của mắt trong hai ngôn ngữ: tiếng Việt và tiếng Pháp.
4.2. Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu
Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu là một hệ thống các thủ pháp phân
tích đƣợc sử dụng để phát hiện cái chung và cái riêng trong các ngôn ngữ
đƣợc so sánh. Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu tạo ra khả năng phát hiện
những đặc điểm kết cấu của các ngôn ngữ khác nhau.
Nhiệm vụ của việc so sánh - đối chiếu trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa là
xác định sự giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ về mặt cấu trúc, hoạt
động và sự phát triển của chúng; phát hiện và vạch ra những đặc điểm của các
ngôn ngữ còn bị giấu kín khi nghiên cứu một ngôn ngữ. Phƣơng pháp so sánh
- đối chiếu cũng đƣợc sử dụng để phát hiện những quy luật và khuynh hƣớng
đặc trƣng tiêu biểu cho các ngôn ngữ, giúp chúng ta xác định các yếu tố tƣơng
đƣơng giữa các ngôn ngữ.
13
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG
14
Chương 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN
1.1. LÍ THUYẾT VỀ TRƢỜNG NGHĨA
Lí thuyết trƣờng nghĩa (theory of semantic fields) xuất phát từ những
tiền đề của trƣờng phái Humboldt mới và phần nào từ những tƣ tƣởng của F.
de Saussure về tính hệ thống của ngôn ngữ và những phƣơng pháp cấu trúc
trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ. Có nhiều cách
hiểu khác nhau về khái niệm trƣờng nghĩa, nhƣng có thể quy vào hai khuynh
hƣớng chủ yếu.
Khuynh hƣớng thứ nhất quan niệm trƣờng nghĩa là toàn bộ những
khái niệm mà các từ trong ngôn ngữ biểu hiện. Đại diện cho khuynh hƣớng
này là L. Weisgerber và J. Trier. Hai ông chịu nhiều ảnh hƣởng của học
thuyết về “hình thái bên trong của ngôn ngữ” của Humboldt mới trong ngữ
nghĩa học. Đây là trƣờng phái chủ trƣơng sự phân chia từ vựng của ngôn ngữ
bị quy định trƣớc “bởi hình thái bên trong của ngôn ngữ”. Cơ sở ngôn ngữ
học của Weisgerber là khái niệm thế giới trung gian của ngôn ngữ. Ông thay
thế sự phân tích các từ bằng sự phân tích các khái niệm trong “tinh thần” của
một ngôn ngữ nào đó. Ông thừa nhận sự thống nhất giữa mặt bên ngoài (ngữ
âm) và mặt bên trong (khái niệm) của ngôn ngữ nhƣng ông lại coi sự thống
nhất đó có tính chất song song hoàn toàn và đơn giản. Do đó, ông phủ nhận
hiện tƣợng đa nghĩa và đồng nghĩa của các đơn vị từ vựng. Nhiều từ (các tên
riêng) là ở ngoài ngôn ngữ. L. Weisgerber không giải thích sự khác nhau của
những mô hình cấu tạo từ mà coi đó là kết quả của sự khác nhau trong tƣ duy
các dân tộc.
Lí thuyết trƣờng của J. Trier phù hợp với luận điểm của Weisgerber
về sự tồn tại trong ngôn ngữ những phạm vi khái niệm đƣợc tổ chức một cách
có hệ thống. Lý thuyết trƣờng nghĩa xuất phát từ những tiền đề của trƣờng
phái Humboldt mới và phần nào những tƣ tƣởng của F de Saussure về tính hệ
thống của ngôn ngữ và những phƣơng pháp kết cấu trong việc nghiên cứu mối
quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ. Theo quan điểm của ông và những ngƣời
15
kế tục ông, mặt nghĩa của ngôn ngữ là một kết cấu chặt chẽ, đƣợc phân chia
ra thành những trƣờng hoặc những phạm vi khái niệm một cách rõ ràng.
Những phạm vi đó tồn tại trong ý thức ngôn ngữ của một cộng đồng ngôn
ngữ nào đó. Tất cả thành phần từ vựng đƣợc phân bố theo những phạm vi
hoặc những trƣờng đó. J. Trier đã giả định sự song song giữa trƣờng khái
niệm và trƣờng từ vựng, tức là giữa bình diện nội dung và bình diện biểu
hiện. Theo ông, trƣờng từ vựng bao phủ lên trƣờng khái niệm nhƣ một cái
hình ghép, cái áo khoác hay tấm vải phủ. Một từ chỉ có ý nghĩa khi nằm ở
trong trƣờng, nhờ những quan hệ của nó với các từ khác cũng thuộc trƣờng
ấy. Ông viết: “Trong hệ thống, tất cả chỉ nhận đƣợc ý nghĩa qua cái toàn thể.
Có nghĩa là từ của ngôn ngữ nào đó không phải là đại diện tách biệt của ý
nghĩa, ngƣợc lại, mỗi một từ có ý nghĩa chỉ là vì có các từ khác liên hệ với
nó”. Rõ ràng, cơ sở lí luận của lí thuyết trƣờng nghĩa là duy tâm, nó thoát li
thực tế nhận thức thế giới, tách rời hẳn ngôn ngữ với chức năng tự nhiên của
nó là một phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời để sa vào một
lĩnh vực các tƣ tƣởng thuần tuý. Thực ra, ý nghĩa của từ không đồng nhất với
khái niệm. Cách quan niệm trƣờng nghĩa là cấu trúc của những khái niệm liên
quan lẫn nhau, nhƣ thế chƣa bao gồm các đơn vị ngôn ngữ là ý nghĩa. Các
trƣờng khái niệm đƣợc phân xuất trên cơ sở logic thuần tuý, không phải dựa
trên tài liệu ngôn ngữ.
Khuynh hƣớng thứ hai cố gắng xây dựng lí thuyết trƣờng nghĩa trên
cơ sở các tiêu chí ngôn ngữ học. Trƣờng nghĩa không phải là phạm vi các
khái niệm nào đó nữa mà là phạm vi tất cả các từ có quan hệ với nhau về
nghĩa. Những trƣờng nghĩa đƣợc xây dựng trên cơ sở ngôn ngữ học cũng rất
phong phú và đa dạng. Trong cuốn “Giáo trình ngôn ngữ học”, GS.TS
Nguyễn Thiện Giáp đã trình bày rất cụ thể về khuynh hƣớng này nhƣ sau:
Ipsen đã căn cứ vào hình thái và chức năng của các từ để xây dựng
trƣờng nghĩa. Theo ông, trƣờng nghĩa bao gồm các từ có quan hệ họ hàng
với nhau về tiêu chí hình thái và ý nghĩa. Ví dụ: những tên gọi kim loại
trong các ngôn ngữ Ấn - Âu đều có hình thái giống trung và hoạt động ngữ
16
pháp tƣơng tự nhau. Ngƣời ta thƣờng gọi những trƣờng nghĩa kiểu này là
“trƣờng từ vựng - ngữ pháp”.
M. Konradt - Hicking lại xây dựng trƣờng nghĩa căn cứ vào các từ
ghép. Mỗi kiểu trƣờng nghĩa, trong đó từ rời với tƣ cách thành tố của từ ghép
đóng vai trò là thành viên của trƣờng. Theo ông, trong phạm vi một trƣờng từ
vựng duy nhất, tức là trong các từ ghép, chỉ có thể tập hợp các từ thuộc cùng
một phạm vi biểu tƣợng. Ví dụ: cặp từ đồng âm Eule “con chim” và Eule
“cái bàn chải” của tiếng Đức nằm trong hai trƣờng cấu tạo từ khác nhau.
Eule
“con chim”
Eule
“cái bàn chải”
Eulennest
“tổ cú”
Keheule
“bàn chải bàn”
Eulenaugen
“mắt cú”
Handeeule
“bàn chỉ tay”
Ở đây, các thành tố Nest, Augen đã nhập vào lĩnh vực những biểu
tƣợng gắn liền với chim chóc, còn các thành tố Keh, Hande lại thuộc về các
biểu tƣợng gắn liền với bàn chải.
Một kiểu trƣờng nghĩa khác gọi là “trƣờng từ vựng - cú pháp” do
Mỹller và Porzig xây dựng trƣờng nghĩa căn cứ vào các ý nghĩa ngữ pháp của
các quan hệ. Các ông cho rằng ý nghĩa của từ lệ thuộc vào những liên hệ cú
pháp. Vì vậy, trƣờng của các ông là những quan hệ đơn giản gồm động từ
hành động và danh từ chủ thể hành động hay danh từ bổ ngữ, tính từ và
danh từ...
Tuy nhiên, kiểu trƣờng nghĩa đƣợc xem là phổ biến nhất đƣợc gọi là
“nhóm từ vựng - ngữ nghĩa”. Theo quan điểm của Weisgerber, sự phân chia
ngữ nghĩa của một hệ thống ngôn ngữ đƣợc xác định không phải bởi những
mối quan hệ có thực trong thực tế khách quan, mà đƣợc xác định bởi những
nguyên tắc nằm trong bản thân ngôn ngữ, trong kết cấu ngữ nghĩa của nó.
Mỗi dân tộc có các nguyên tắc phân chia thế giới bên ngoài của mình, có quan
17
điểm của mình đối với thực tế xung quanh; do đó hệ thống ngữ nghĩa của các
dân tộc cũng khác nhau, đồng thời các trƣờng của chúng đƣợc xây dựng nên
cũng không trùng nhau. Vì vậy, Weisgerber thích dùng thuật ngữ “trƣờng từ
vựng”, “trƣờng ngôn ngữ” hơn.
Tiêu chuẩn để tập hợp các từ vào nhóm từ vựng - ngữ nghĩa này
thƣờng rất khác nhau. Ngƣời ta có thể dựa vào sự tồn tại của các từ khái quát,
biểu thị các khái niệm ở dạng chung nhất, trừu tƣợng nhất và trung hoà. Các
từ này đƣợc dùng nhƣ cái máy đo đạc và phát hiện ý nghĩa phạm trù chung,
trên cơ sở đó, tập hợp tất cả các thành phần còn lại của trƣờng. Bên cạnh đó,
còn có các nhóm từ vựng - ngữ nghĩa biểu thị một khái niệm nào đó tồn tại
trong cuộc sống. Chẳng hạn: nhóm từ chỉ cảm xúc, nhóm từ chỉ thực vật,
nhóm từ biểu thị màu sắc...
Các từ đồng nghĩa và trái nghĩa cũng là những nhóm từ vựng - ngữ
nghĩa. Nhiều nhà ngôn ngữ học đã khảo sát các từ đồng nghĩa và các từ trái
nghĩa với tƣ cách là các trƣờng ngữ nghĩa.
Đặc biệt, ngƣời ta cũng coi là trƣờng nghĩa cả những kết cấu ngữ
nghĩa của các từ nhiều nghĩa. Giữa các nghĩa khác nhau của một từ nhiều
nghĩa thƣờng có một yếu tố ngữ nghĩa chung tạo nên cái gọi là trục ngữ
nghĩa. Toàn bộ các nghĩa khác nhau của một từ tạo ra một trƣờng nghĩa nhỏ
nhất.
Hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ là vô cùng lớn và phức tạp. Vì
vậy, ngƣời ta không có cách nào để hiểu một cách thấu đáo từng đơn vị ấy
cùng một lúc. Những liên hệ về mặt ngữ nghĩa giữa các đơn vị từ vựng không
hiện ra trực tiếp giữa các từ đƣợc lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Tuy nhiên,
những liên hệ ngữ nghĩa ấy sẽ hiện ra khi các từ đƣợc đặt trong những hệ
thống con thích hợp. Nói cách khác, “tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng
và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những
tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng” (Đỗ Hữu Châu). Những tiểu hệ thống
ngữ nghĩa ấy đƣợc gọi là trƣờng nghĩa.
18
Nhƣ vậy, lí thuyết trƣờng nghĩa là một trong những lí thuyết ngữ
nghĩa đã và đang đƣợc vận dụng một cách rộng rãi để nghiên cứu từ vựng của
rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Ƣu điểm của lí thuyết này ở chỗ nó cho phép
chúng ta nghiên cứu từ vựng của một ngôn ngữ trong sự so sánh với các ngôn
ngữ khác (cùng hoặc không cùng nguồn gốc và loại hình). Hiện nay, ngƣời ta
đang cố gắng xây dựng những lí thuyết trƣờng nghĩa dựa trên các tiêu chí
ngôn ngữ học. Trƣờng nghĩa không phải là phạm vi các khái niệm nào đó nữa
mà là phạm vi tất cả các từ có quan hệ lẫn nhau về nghĩa. Những trƣờng nghĩa
đƣợc xây dựng trên cơ sở các từ nhƣ thế cũng có nhiều kiểu khác nhau. Mặc
dù có nhiều quan điểm đa dạng về những vấn đề cá biệt nhƣng vẫn có thể
nhận thấy hai con đƣờng chủ yếu trong việc khảo sát các trƣờng nghĩa.
Theo thuật ngữ của GS.TS Nguyễn Thiện Giáp, chúng ta có các loại
trƣờng nghĩa sau:
Các trường đối vị: Thuộc vào các trƣờng đối vị là những lớp hạng
các đơn vị từ vựng đa dạng, có chung một tiêu chí ngữ nghĩa nào đó: các
nhóm từ vựng - ngữ nghĩa của các từ, các từ đồng nghĩa, các từ trái nghĩa,
toàn bộ các ý nghĩa liên hệ lẫn nhau của từ đa nghĩa, hệ thống cấu tạo từ, các
từ loại và các phạm trù ngữ pháp của chúng.
Các tiêu chuẩn để thống nhất các từ thành một nhóm từ vựng - ngữ
nghĩa duy nhất có thể rất khác nhau. Weisgerber (1962) đã viết: “Trƣờng từ
vựng hoạt động với tƣ cách là cái toàn thể, do đó để nhận thức ý nghĩa của
các thành tố riêng biệt của nó cần phải trình bày tất cả các trƣờng và đi tìm vị
trí cảu thành tố này trong kết cấu của nó”. Theo quan điểm của ông, sự phân
chia ngữ nghĩa của hệ thống ngôn ngữ đƣợc xác định không phải bởi những
mối quan hệ có thực trong thực tế khách quan, mà đƣợc xác định bởi những
nguyên tắc nằm trong bản thân ngôn ngữ, trong kết cấu ngữ nghĩa của nó.
Mỗi dân tộc có các nguyên tắc phân chia thế giới bên ngoài của mình, có quan
điểm của mình đối với thực tế xung quanh, do đó các hệ thống ngữ nghĩa của
các ngôn ngữ cũng khác nhau, cũng nhƣ các trƣờng đƣợc xây dựng nên của
chúng không trùng nhau. Do đó, Weisgerber cho rằng cần phải rút ra những
nguyên tắc là cơ sở của sự phân chia từ vựng thành các trƣờng từ trong bản
19
thân ngôn ngữ. Các trƣờng ngôn ngữ (từ vựng) lại đƣợc chia ra thành các
trƣờng một tầng và các trƣờng nhiều tầng. Việc chia cắt các trƣờng một tầng
đƣợc quy định bởi một quan điểm nào đó, tức là đƣợc cắn cứ vào một tiêu
chí, một diện nào đó. Ví dụ về sự phân chia nhƣ vậy có thể có loạt số từ, các
thuật ngữ họ hàng... Còn sự phân chia ra các trƣờng nhiều tầng thì đƣợc dựa
vào nhiều diện khác nhau.
Cho đến nay, chƣa có quan niệm thống nhất về các từ đồng nghĩa.
Quan niệm rộng nhất về từ đồng nghĩa cho rằng, các từ đồng nghĩa bao gồm
cả các hình thức từ đồng nhất về nghĩa vị từ vựng hoặc nghĩa vị ngữ pháp nào
đó. Quan niệm hẹp nhất về từ đồng nghĩa cho rằng, từ đồng nghĩa bao gồm
những hình thức từ đồng nhất về tất cả nghĩa vị từ vựng và nghĩa vị ngữ pháp
[...]. L.M.Vaxiliev, 1969 (Sự đồng nhất và sự khu biệt của các từ đồng nghĩa
từ vựng) trong Những vấn đề lí luận và phương pháp luận của tiếng Nga
quan niệm các từ đồng nghĩa từ vựng là các lớp hạng ngữ nghĩa của các từ
(các dạng thức từ) đồng nhất về tất cả nghĩa vị từ vựng và ngữ pháp, vốn có
đối với từ chủ đạo của lớp hạng này. Nói cách khác, tất cả các nghĩa vị của
dạng thức từ chủ đạo phải đƣợc lặp lại với tính cách là bất biến thể trong các
ý nghĩa của toàn bộ tất cả các thành phần của nhóm đồng nghĩa. Do đó, dung
lƣợng và kết cấu của nhóm đồng nghĩa với tính cách là trƣờng ngữ nghĩa
đƣợc quy định bởi chỗ chúng ta lấy nghĩa vị - hình thức từ nào làm hạt nhân.
Các từ trái nghĩa không phải cái gì khác là các lớp hạng ngữ nghĩa của các từ
(hình thức từ) mà các thành phần của chúng gắn bó với những sự đối lập có
tính trái ngƣợc. Cần phân biệt 4 kiểu trái nghĩa:
i) Quan hệ tƣơng phản: đây là những nhóm từ chỉ tham số với nghĩa
kích thƣớc, số lƣợng, cƣờng độ, đại lƣợng. Ví dụ: cao - thấp, dài - ngắn, nhiều
- ít, to - nhỏ, nóng - lạnh, mỏng - dày...
ii) Quan hệ ngƣợc hƣớng. Ví dụ: ra - vào, lên - xuống, tiến - lùi...
iii) Quan hệ mâu thuẫn. Ví dụ: đúng - sai, trái - phải, sống - chết, yêu ghét, tốt - xấu...
iiii) Quan hệ nghịch đảo. Ví dụ: mua - bán...
20
Về nguyên tắc, mối quan hệ trái nghĩa là mối quan hệ đối xứng: một
trong hai từ trái nghĩa thuộc một cặp nào đó phức tạp hơn về mặt ngữ nghĩa
so với từ kia. Những từ có quan hệ tƣơng phản thể hiện sự đối lập về mức độ
của các thuộc tính, phẩm chất của sự vật, hiện tƣợng.
Đặc biệt, ngƣời ta cũng coi là trƣờng nghĩa cả những kết cấu ngữ nghĩa
của các từ nhiều nghĩa. Giữa các nghĩa khác nhau của một từ nhiều nghĩa
thƣờng có một yếu tố ngữ nghĩa chung tạo nên cái gọi là trục ngữ nghĩa.
Toàn bộ các nghĩa khác nhau của một từ tạo ra một trƣờng nghĩa nhỏ nhất
[34 - 35].
Ngƣời ta còn xếp cả từ loại, tiểu loại vào những nhóm từ vựng - ngữ
nghĩa. Từ loại cũng thuộc trƣờng đối vị, tức là các lớp hạng ngữ nghĩa - ngữ
pháp của các từ, bởi vì các từ thuộc vào một từ loại hoặc một tiểu loại cũng có
cùng một ý nghĩa khái quát chung. Chẳng hạn, ý nghĩa sự vật ở danh từ, ý
nghĩa hành động ở động từ, ý nghĩa tính chất ở tính từ. Bởi vì các nghĩa tố cú
đoạn và các vị trí cú đoạn tƣơng ứng với chúng là cơ sở của sự đồng nhất của
các lớp từ này, cho nên có ngƣời gọi chúng là các lớp cú đoạn. Với tƣ cách là
các lớp ngữ nghĩa - cú đoạn của các từ, các từ loại có hai sự phân loại bên
trong. Một mặt, chúng đƣợc chia ra các tiểu loại của từ nhƣ danh từ động vật
và danh từ chỉ sự vật vô tri, các tính từ chỉ phẩm chất và quan hệ, các động ừt
chỉ hành động và trạng thái. Mặt khác, các từ loại đƣợc chia ra các lớp hình
thái từ, thống nhất bởi các ý nghĩa ngữ pháp bất biến về cách, số, giống,
thời, thể... [34 - 36].
Các trường cú đoạn: là những lớp từ có quan hệ chặt chẽ với nhau
về mặt sử dụng nhƣng không bao giờ gặp trong một ví dụ cú pháp. W. Pozig
là ngƣời đầu tiên nghiên cứu những trƣờng này. Ông cho rằng: ý nghĩa của từ
lệ thuộc vào những liên hệ cú pháp, vì thế ông chú ý đến những mối liên hệ
đƣợc quy định về mặt ngữ nghĩa giữa động từ hành động và danh từ chủ thể
hành động hay danh từ bổ ngữ, tính từ và danh từ... Sau này, Mỹller cũng
nghiên cứu về vấn đề này. Các trƣờng cú đoạn của hai ông nghiên cứu phản
ánh sự tập hợp nhóm thực tế của các từ theo thuộc tính về sự kết hợp của
chúng và có thể chia ra làm hai kiểu: một mặt, các từ đƣợc thống nhất trong
21
ngữ đoạn chỉ trên cơ sở cộng đồng của các nghĩa tố cú đoạn của chúng, tức là
sự kết hợp về nghĩa. Thuộc vào cú đoạn ngữ nghĩa nhƣ thế có các nhóm trừu
tƣợng nhất kiểu “chủ ngữ + vị ngữ”, “chủ ngữ + vị ngữ + tân ngữ”. Mặt
khác, là các từ đƣợc thống nhất trong cú đoạn không những chỉ trên cơ sở sự
đồng nhất của các nghĩa tố cú đoạn (sự kết hợp ngữ nghĩa) của chúng mà cả
trên cơ sở sự cộng đồng của các thuộc tính về sự kết hợp về hình thức của
chúng.
Các trường tổng hợp: Theo I. M. Vaxiliev thì trƣờng tổng hợp đƣợc
cấu tạo trong khi phức hợp các trƣờng nghĩa có tính chất đối vị và cú đoạn.
Các trƣờng nhƣ thế chẳng hạn là các loạt cấu tạo từ bao gồm các từ loại khác
nhau cùng với các cặp sóng đôi có tính chất đối vị của chúng. Nói chung,
chúng ta đề cập tới các trƣờng nghĩa tổng hợp trong tất cả các trƣờng hợp khi
vị trí của các ngữ đoạn ngữ nghĩa trừu tƣợng đƣợc làm đây không phải bằng
các nghĩa vị cụ thể riêng biệt mà bằng các lớp đối vị của chúng (các trƣờng
đối vị).
Sự phân tích các trƣờng nghĩa sẽ bắt đầu sau khi phân xuất đƣợc
chúng. Nhiệm vụ của việc phân tích trƣờng nghĩa là xác định tính hệ thống
của những liên hệ về nghĩa giữa các yếu tố trong trƣờng.
Trong luận văn chúng tôi khảo sát chính là kiểu trƣờng đối vị. Các từ
vị có liên hệ với nhau về mặt ngữ nghĩa, cụ thể là cùng chỉ các hoạt động thị
giác của con ngƣời.
1.2. PHÂN BIỆT TRƢỜNG NGHĨA VÀ TRƢỜNG TỪ VỰNG
Có ngƣời quan niệm trƣờng nghĩa là cả những kết cấu ngữ nghĩa của
các từ nhiều nghĩa. Giữa các nghĩa khác nhau của một từ nhiều nghĩa thƣờng
có một yếu tố ngữ nghĩa chung tạo nên cái gọi là trục ngữ nghĩa. Nhƣng có lẽ
quan điểm này đã nhầm lẫn sang cái gọi là trƣờng từ vựng. Một điều cần thiết
khi nghiên cứu các trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa là phải phân biệt cho đƣợc
trƣờng nghĩa và trƣờng từ vựng.
Mặc dù trƣờng từ vựng đƣợc xác định thông qua một trƣờng nghĩa
cụ thể thì nó vẫn bao hàm nhiều đơn vị từ vựng thuộc các trƣờng nghĩa khác
22
và các trƣờng nghĩa này cũng tham gia xác định các trƣờng từ vựng khác. Do
vậy, một trƣờng từ vựng, vốn có phạm vi giới hạn mập mờ: một trƣờng từ
vựng nối với nhiều trƣờng từ vựng khác và đến lƣợt chúng, các trƣờng từ
vựng này cũng nối với nhiều trƣờng từ vựng khác nữa và kết quả là các
trƣờng từ vựng có thể tạo nên một mạng lƣới bao hàm tất cả kho từ vựng của
một ngôn ngữ.
Igor A Mel’cuk và một số nhà ngôn ngữ học khác phân biệt rõ
trƣờng nghĩa (champ sémantique) và trƣờng từ vựng (champ lexical). Các ông
định nghĩa về trƣờng nghĩa nhƣ sau:
“Trường nghĩa là tập hợp các đơn vị từ vựng có chung một thành tố
nghĩa có giá trị nhận diện một trường nghĩa”.
Theo các ông, đơn vị từ vựng có thể là một từ vị (lexème) hay một
đơn vị thành ngữ (phrasème). Đến lƣợt mình, từ vị đƣợc định nghĩa là một từ
xét theo một nghĩa duy nhất đƣợc xác định rõ, đi kèm với tất cả các thông tin
về sự hoạt động của nó trong một văn bản; đơn vị thành ngữ đƣợc định nghĩa
là một ngữ (locution) xét theo một nghĩa duy nhất đƣợc xác định rõ, đi kèm
với tất cả các thông tin về hoạt động của nó trong một văn bản.
Ví dụ nhƣ trong tiếng Pháp, các từ vị: bleu (xanh nƣớc biển), ver
(xanh lá cây), rouge (đỏ), rose (hồng), jaune (vàng), violet (tím), gris (xám)...
thuộc trƣờng nghĩa “màu sắc”. Các từ vị: bras (tay), jambe (chân), tête (đầu),
nez (mũi), poitrine (ngực), ventre (bụng)... thuộc trƣờng nghĩa “bộ phận cơ
thể”. Các từ vị: coeur (tim), foie (gan), estoma (dạ dày), poumon (phổi), bile
(mật)... thuộc trƣờng nghĩa “các cơ quan nội tạng”.
Mỗi từ vị nêu trên lại nằm trong một từ nhất định.
Ví dụ: BRAS có 14 từ vị, trong đó bras (tay ngƣời, tay ghế, eo biển...);
bras de la Justice (quyền lực công lý); bras de levier; bras séculier (pháp
quyền thế tục); prendre le bras de quelqu’un (đi tựa vào ai); le bras droit de
quelqu’un (cánh tay phải của ai)...
Sự tập hợp tất cả các từ này (với tất cả các từ vị của chúng) tạo nên
trƣờng từ vựng về các bộ phận cơ thể.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Xuân Hạo (dịch). Giáo trình đại cương ngôn ngữ học, F de Saussure,
NXB KHXH, 2005.
2. Đỗ Hữu Châu. Từ vựng học Tiếng Việt, NXB Giáo dục Hà Nội, 1999.
3. Lê Quang Thiêm. Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, NXB ĐHQG,
2004.
4. Lê Thị Lệ Thanh. Trường từ vựng - ngữ nghĩa các từ biểu thị thời gian
trong sự so sánh với tiếng Đức. Luận án Tiến sĩ.
5. Le Petit Larousse, Imprimerie Casterman - Tournai, 1992.
6. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ
học và tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2005.
7. Mel’cul, Igor A. Introduction à la lexicologie explicative et combinatoire,
Editions Duculot, 1995.
8. Nguyễn Kim Thản. Động từ tiếng Việt, NXB KHXH, 1997.
9. Nguyễn Ngọc Trâm. Đặc trưng ngữ nghĩa - ngữ pháp của nhóm từ biểu
thị tâm lí - tình cảm trong tiếng Việt. Luận án Phó tiến sĩ khoa học ngữ văn,
1991.
10. Nguyễn Thiện Giáp. Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, NXB
ĐHQG Hà Nội, 2009.
11. Nguyễn Thiện Giáp. Giáo trình ngôn ngữ học, NXB ĐHQG Hà Nội,
2008.
12. Nguyễn Thiện Giáp. Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2003.
13. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên). Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục,
2003.
14. Nguyễn Thiện Giáp. Lược sử Việt ngữ học - Tập 1, NXB Giáo dục,
2004.
24
15. Nguyễn Văn Hiệp. Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, 2007.
16. Nguyễn Thuý Khanh. Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa tên gọi động
vật. Luận án Tiến sĩ, 1996.
17. Nguyễn Văn Tu. Các nhóm từ đồng nghĩa trong tiếng Việt, NXB Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, 1982.
18. Nguyễn Vân Phổ. Vị từ tri giác tiếng Việt.
19. Nguyễn Thị Quy. Vị từ hành động tiếng Việt.
20. Thông tin khoa học số 5 năm 2008, NXB ĐHQG Hà Nội.
21. Tạp chí ngôn ngữ số 9 năm 2008.
22. Tạp chí ngôn ngữ số 8 năm 2009.
23. Từ điển Pháp - Việt, NXB KHXH, 1992.
24. Từ điển Việt - Pháp, NXB KHXH, 1994.
25. Từ điển Pháp - Pháp - Việt, NXB Văn hoá Thông tin, 2005.
26. Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 1997.
27. Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ, 2008.
25