Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Nghiên cứu thơ ca của tuệ trng thượng sĩ trần tung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.89 MB, 81 trang )

1

Tuệ Trung Thượng sĩ – Trần Tung
(1230 – 1291)

A. PHẦN MỞ ĐẦU


2

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1.
Lý do khách quan
Tuệ Trung Thượng sĩ - Trần Tung là một nhân vật tiêu biểu của văn hóa đời
Trần. Cuộc đời và sự nghiệp của ngài là tấm gương sáng trong sự nghiệp Thiền học
và văn học thời Lý – Trần. Tuệ Trung là một Thiền sư minh đạo có con mắt thông
tuệ trong “biển pháp” và “vườn Thiền” Việt Nam: Pháp hải độc nhãn / Thiền lâm
tam giác. Cuộc đời của ông vẫn đang tồn tại những vấn đề nghi vấn đang chờ lời
giải đáp minh xác nhất. Sự nghiệp Thiền học và Văn học của ngài trở thành kho
Thiền quý báu cho hậu thế.
Giữa vườn thiền đa sắc ấy, sáng tác của Tuệ Trung Thượng sĩ còn khá nhiều
so với một số tác giả cùng thời. Tác phẩm của ông hiện còn gồm ba phần: Đối cơ,
Tụng cổ và thi ca. “Mỗi phần đều có một vị trí riêng, một gam màu riêng trong bức
tranh về đời sống tinh thần của ông” [31, tr3]. Các nhà nghiên cứu về Tuệ Trung
Thượng sĩ thường hướng ngòi bút nghiên cứu của mình về phía những sáng tác thơ
ca mà còn chưa thực sự chú ý tới những sáng tác Đối cơ, hoặc nếu có thì chỉ xuất
hiện dưới dạng những ví dụ minh họa. Trong khi đó Đối cơ hàm chứa cả một hệ
thống những tư tưởng Phật giáo sâu sắc, có giá trị to lớn về khía cạnh tôn giáo nói
riêng và văn hóa nói chung. Nghiên cứu giá trị tư tưởng trong Đối cơ của Thượng sĩ
Trần Tung còn đang là mảnh đất chưa có nhiều cây bút đào sâu khai thác nên chúng
tôi lựa chọn phần Đối cơ làm đối tượng nghiên cứu. Hơn nữa, về mặt nghệ thuật và


văn bản học của Đối cơ chưa có một công trình nào dày công khảo sát và nghiên
cứu.
Trong Đối cơ, Chúng tôi đã nghiên cứu và tạm nêu tên các tư tưởng mà
Thượng sĩ truyền tải trong Đối cơ: đó là tinh thần phá chấp, tư tưởng Vong Nhị
kiến, quan niệm về Tâm; con đường giải thoát. Mỗi tư tưởng đều để lại ấn tượng
sâu sắc và mang giá trị ý nghĩa to lớn, đặc biệt hơn cả là tư tưởng Vong Nhị kiến. Tư
tưởng này chưa được các nhà nghiên cứu đào sâu một cách bài bản. Chính bởi vậy,
trong khuôn khổ báo cáo này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu về tư tưởng Vong Nhị kiến
trong Đối cơ của Tuệ Trung Thượng sĩ - Trần Tung.
Mặt khác, văn bản Đối cơ chưa được khảo sát một cách kĩ lưỡng về mặt văn
bản học. Chỉ có duy nhất một công trình nghiên cứu văn bản học của Nguyễn Thị
Thanh Chung là “Nghiên cứu thơ ca của Tuệ Trng Thượng sĩ Trần Tung”. Công


3

trình này chủ yếu khảo sát văn bản thơ ca, còn văn bản Đối cơ chưa được khai thác
sâu. Vì vậy, vấn đề văn bản học của Đối cơ vẫn đang hứa hẹn giới nghiên cứu đào
sâu.
Một lí do khác nữa khiến chúng tôi lựa chọn đề tài này là bởi Tuệ Trung
Thượng sĩ là một cây đại thụ trong rừng Thiền Việt Nam, đóng góp của ông là
không thể phủ nhận, song do còn xa lạ với sách giá khoa cũng như chất uyên áo rất
khó lí giải trong các tư tưởng của ngài nên độc giả có tâm lí ngại tiếp nhận như lời
của Hòa Thượng Thích Thanh Từ: Quyển Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục là một
“tác phẩm trác tuyệt, triết lý uyên thâm, văn chương thanh thoát”. Thế mà, rất ít
người Việt Nam chịu đọc, vì lẽ rất khó hiểu. Tư tưởng Vong Nhị kiến cũng còn rất
xa lạ và là vấn đề vô cùng trừu tượng, khó nắm bắt đối với độc giả. Chính bởi vậy,
chúng tôi mạnh dạn tiếp nhận và nghiên cứu sáng tác của Tuệ Trung Thượng sĩ, cụ
thể là tư tưởng Vong Nhị kiến trong phần Đối cơ.
1.2. Lý do chủ quan

Không chỉ bởi những nguyên nhân khách quan như trên, nguyên nhân chủ
quan cũng khiến chúng tôi lựa chọn đề tài này. Thứ nhất, bản thân người viết rất
ham mê tư tưởng Phật giáo, có niềm yêu thích sâu sắc với các sáng tác của Tuệ
Trung Thượng sĩ, đặc biệt chú ý tới phần Đối cơ. Tư tưởng Vong Nhị kiến khơi gợi
lòng say mê tìm hiểu của bản thân tác giả. Thứ hai, vấn đề nghiên cứu này lại rất
phù hợp với chuyên ngành cũng như chuyên môn, sở thích của người viết. Không
chỉ vậy, chúng tôi nhận định rằng đề tài này có khả năng được nghiên cứu ở cấp độ
cao hơn nữa bởi “độ mở” của hệ thống tư tưởng hết sức phong phú, sâu sắc của các
đối cơ.
Xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan trên, chúng tôi
quyết định xây dựng và triển khai đề tài: Khảo cứu tư tưởng Vong Nhị kiến trong
Đối cơ của Tuệ Trung Thượng sĩ – Trần Tung.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Cuộc đời sự nghiệp của Tuệ Trung Thượng sĩ và những tư tưởng của ngài
được giới nghiên cứu để tâm đào sâu nghiên cứu trong nhiều năm qua. Về Thượng
sĩ và các tư tưởng của ngài không chỉ là bộ phận nhỏ trong đối tượng nghiên cứu mà
còn là trung tâm của rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài chuyên luận, bài viết,
… Vậy các nhà nghiên cứu đã góp công trong việc tìm hiểu cây đại thụ trong rùng


4

Thiền ấy như thế nào, bên cạnh đó những vấn đề nào còn bỏ ngỏ? Lịch sử nghiên
cứu phần sáng tác Đối cơ như thế nào cũng như lịch sử nghiên cứu tư tưởng Vong
Nhị kiến ra sao? Trong phần này, chúng tôi sẽ giải quyết câu hỏi này theo sự khảo
sát các chuyên luận; bài viết và các công trình khoa học luận án, luận văn về Tuệ
Trung Thượng sĩ – Trần Tung và tư tưởng của ông trong các sáng tác, đặc biệt chú
ý tới mảng Đối cơ.
2.1. Chuyên luận
2.1.1. Chuyên luận “Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục giảng giải” của Thích Thanh

Từ.
Đây là một chuyên luận có giá trị lớn về các sáng tác của Tuệ Trung Thượng
sĩ, đặc biệt chuyên luận đã rút gần khoảng cách giữa sáng tác của Thượng sĩ với độc
giả. Trong lời đề tựa chuyên luận này, Thích Thanh Từ đã viết: “… Quyển Thượng sĩ
ngữ lục là một tác phẩm trác tuyệt, triết lý uyên thâm, văn chương thanh thoát. Thế
mà rất ít người Việt Nam chịu đọc vì lẽ rất khó hiểu. Muốn cho đa số người Việt Nam
hiểu được những tác phẩm hay của tổ tiên mình, hàng Phật tử Việt Nam biết rõ
đường lối tu hành của các bậc tiền bối, chúng tôi mạo muội giảng giải ra” [23, tr6].
Trong chuyên luận này tác giả Thích Thanh Từ đã công phu dịch và giải nghĩa toàn
bộ Thượng sĩ ngữ lục. Phần Đối cơ cũng được Thích Thanh Từ dịch nghĩa và giảng
giải rất tỉ mỉ, sâu sắc. Ông chia Đối cơ thành 11 phần (chúng tôi chia thành 25 đối
cơ). Tuy vậy, Thích Thanh Từ chủ yếu đi sâu minh giải ý nghĩa các bài thơ; giảng
giải các câu chuyện trong Đối cơ và Tụng cổ. Ông không đề cập tới nội dung tư
tưởng tôn giáo khác tồn tại trong những tác phẩm đó, cũng như không đề cập tới
hình thức nghệ thuật của Đối cơ.
Chúng tôi đánh giá công trình chuyên luận này là một hướng tiếp cận rất hữu
ích cho những hậu thế tìm hiểu về Thượng sĩ ngữ lục cũng như về tư tưởng của Tuệ
Trung Thượng sĩ. Tuy nhiên, theo như đánh giá của một số nhà nghiên cứu cho
rằng: Thượng sĩ ngữ lục giảng giải nói chung và phần giảng giải Đối cơ nói riêng là
hướng tiếp cận tác phẩm “tập trung vào nội dung tôn giáo bỏ qua nhiều phương
diện khác về nội dung và nghệ thuật, chưa giúp cho người đọc hiểu được cái hay,
cái đẹp của văn chương”. Chính vì nhận ra những “địa hạt” còn chưa được khai phá
này chúng tôi mạnh dạn tiến hành khảo sát và nghiên cứu phần Đối cơ về mặt văn
bản học, nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
2.1.2. Chuyên luận Tuệ Trung - Nhân sĩ, Thượng sĩ, Thi sĩ” của Nguyễn Duy
Hinh.
Chuyên luận này gồm có ba chương. Chương 1: “Tuệ Trung nhân sĩ” đã xác


5


định vị trí của Tuệ Trung trong lịch sử nước nhà, cũng như trong lịch sử Thiền tông
Việt Nam. Với những khảo cứu hết sức công phu, những cứ liệu rõ ràng, Nguyễn
Duy Hinh đã phân tích một các thuyết phục về tiểu sử Trần Tung (vấn đề mà rất
nhiều người đang tranh luận). Chương 2: “Tuệ Trung Thượng sĩ”, Nguyễn Duy
Hinh đi sâu “minh giải một số vấn đề Thiền học mà Tuệ Trung đưa ra.” [5, tr6].
Tác giả tập trung nghiên cứu hai vấn đề lớn, đó là bản thể luận và giải thoát luận.
Khác với chuyên luận của Thích Thanh Từ, chuyên luận này của Nguyễn Duy Hinh
có đề cập tới những nội dung tư tưởng của tôn giáo khác (bên cạnh tư tưởng chính
là Phật giáo Thiền tông). Chương 3: “Tuệ Trung - thi sĩ”. Tác giả đi sâu nghiên cứu
“tâm hồn và nghệ thuật thơ ca của ông” [5, tr6]. Tác giả đã chia 49 bài thơ của Tuệ
Trung thành hai nhóm: Thơ Thiền lý và thơ Thiền ý. Đây là công trình nghiên cứu
khá kĩ lưỡng cả về Tuệ Trung trên ba khía cạnh cũng là ba tư cách của ông (Tuệ
Trung nhân sĩ - Thượng sĩ - thi sĩ). Về nội dung tư tưởng, tác giả chuyên luận khai
thác theo hai hướng bản thể luận và giải thoát luận; tuy nhiên tác giả chỉ tập trung
vào các sáng tác thơ ca còn phần Đối cơ chỉ đưa vào như những ví dụ minh họa,
hoặc có phân tích cũng chưa thực sự cụ thể và cặn kẽ.
2.1.3. Chuyên luận có bài viết về con người và tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ.
Bên cạnh các chuyên luận dành toàn bộ nghiên cứu về con người và tác
phẩm của Tuệ Trung, còn có nhiều chuyên luận có bài viết về Tuệ Trung Thượng sĩ.
Chúng tôi có thể kể đến như “Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nguyễn Lang); Tư
tưởng triết học của Thiền phái Trúc lâm đời Trần (Trương Văn Chung), ….
+ Chuyên luận Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang dành một chương
nghiên cứu về Tuệ Trung Thượng sĩ (chương XI – 30 trang, từ trang 299- 330).
Ngoài việc tìm hiểu về cuộc đời của Thượng sĩ qua phần “Diện mục Tuệ Trung”,
tác giả còn đi sâu tìm hiểu và phân tích năm tư tưởng quan trọng trong các sáng tác
của Tuệ Trung Thượng sĩ, đó là: Hòa quang đồng trần; Đập vỡ thái độ bám víu vào
khái niệm; Đập vỡ khái niệm lưỡng nguyên; Phá vỡ những vấn đề giả tạo; Diệp
khúc bản lai tu cử xướng.
Như vậy, Nguyễn Lang đã gọi tên được năm tư tưởng được thể hiện trong

các sáng tác của Tuệ Trung Thượng sĩ, tuy nhiên các luận điểm tư tưởng được triển
khai chưa thực sự rõ ràng, đầy đủ và cuốn hút. Cũng như nhiều tác giả khác,
Nguyễn Lang mới chỉ dừng lại ở việc luận bàn một cách chung chung trên mảng
sáng tác thơ ca của ông, còn mảng Đối cơ cũng chỉ mang tính chất là ví dụ minh
họa để làm sáng rõ luận điểm của tác giả.


6

+ Chuyên luận Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của
Trương Văn Chung chủ yếu nghiên cứu tư tưởng triết học của Tuệ Trung Thượng
sĩ. Tác giả đã đưa ra một kết luận quan trọng rằng: “Những tư tưởng triết học Thiền
của Tuệ Trung Thượng sĩ là một bước phát triển mới trong lịch sử Việt Nam. Sự
phát triển này thể hiện ở triết lí Thiền và quan niệm nhân sinh của ông”. Như vậy,
chuyên luận này đánh giá cao tư tưởng của Thượng sĩ, tuy nhiên tác giả lại hướng
ống kính theo góc độ triết học nên những đánh giá nặng về triết học trừu tượng.
2.2. Bài viết
Không chỉ có các chuyên luận mà trên các báo, tạp chí xuất hiện khá nhiều
bài viết bàn về con người và tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ (tiêu biểu có thể kể
đến Tạp chí Triết học, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Văn học). Chúng tôi kể
tới một số bài viết như sau:
- Tuệ Trung Thượng sĩ và Thiền phong đời Trần (Đoàn Thị Thu Vân).
- Tuệ Trung Thượng sĩ với tư tưởng và sức mạnh văn hiến Việt Nam (Trần
Khê).
- Thượng sĩ ngữ lục trong văn hóa dân tộc (Thích Đức Nghiệp).
- Tìm hiểu quan điểm bản thể luận và quan điểm nhận thức luận của Tuệ
Trung Thượng sĩ (Đặng Đức Thi).
- Tuệ Trung Thượng sĩ, con mắt thông tuệ, rừng Thiền ba phía (Nguyễn văn
Hồng).
- Tư tưởng tam giáo trong Tuệ Trung Thượng sĩ (Hoàng Giáp).

- Vài suy nghĩ về Thiền tông Việt Nam (Trần Hồng Liên).
- Vài điều tâm đắc về Tuệ Trung Thượng sĩ (Lê Quốc Sử).
- Quan niệm về vong nhị kiến trong Thiền học của Tuệ Trung với phương
pháp Thiền học của Huệ Năng (Ngô Đức Diện).
….
Những bài viết kể trên phần lớn được sưu tập trong cuốn Tuệ Trung Thượng
sĩ với Thiền Tông Việt Nam (Viện Khoa học Xã hội – Trung tâm nghiên cứu Hán
Nôm, NXB Đà Nẵng, 2000).
Nhìn chung, những bài viết kể trên tập trung luận bàn về con người và tư
tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ có mối quan hệ mật thiết gắn với Thiền tông Việt
Nam. Các bài viết có nhiều ý kiến mới mẻ nhưng vẫn còn hết sức chung chung, đặc
biệt hầu hết các tác giả chỉ chuyên chú vào thi ca mà “lãng quên” mảng sáng tác
Đối cơ cũng không kém phần quan trọng và có giá trị của ngài.
2.3. Các công trình luận án, luận văn.
Năm 2000, Nguyễn Đức Diện công bố một công trình luận án tiến sĩ về Triết
học mang tên “Những tư tưởng triết học của Tuệ Trung Thượng sĩ”. Trong công
trình này tác giả đã đi sâu tìm hiểu những tư tưởng triết học của Tuệ Trung qua hai


7

nội dung chính là bản thể luận và nhận thức luận. Nhìn chung, đây là một công
trình nghiên cứu công phu và tỉ mỉ về tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ. Tác giả
đã tập trung đi sâu tìm hiểu hai khía cạnh nội dung: bản thể và nhận thức về mặt
triết học chứ không phải về mặt văn học. Chúng tôi đánh giá cao công trình này bởi
sự nghiên cứu công phu, chọn lọc kĩ lưỡng với hàm lượng tri thức rất lớn tác giả
đưa vào luận án. Đây thực sự là đóng góp tích cực, gợi mở cho những nhà nghiên
cứu sau này kế thừa và phát huy. Tuy vậy, đây cũng vẫn là ống kính của một nhà
triết học khi nghiên cứu các sáng tác của Tuệ Trung. Dù nhan đề của luận án có tính
chất nghiên cứu trên toàn bộ sáng tác của Trần Tung, nhưng luận án vẫn chuyên chú

ở phần thi ca, còn phần Đối cơ chỉ xuất hiện như những ví dụ minh họa. Hơn nữa,
vì góc nhìn của luận án dưới ống kính triết học nên về khía cạnh nghệ thuật tuyệt
nhiên không được nghiên cứu.
Năm 2003, Nguyễn Thị Thanh Chung công bố công trình luận văn “Nghiên
cứu thơ ca của Tuệ Trung Thượng sĩ - Trần Tung”. Trong luận văn này, tác giả
đã đề cập và luận bàn về những khuynh hướng cảm hứng trong thơ Tuệ Trung
Thượng sĩ - Trần Tung (cảm hứng tôn giáo; cảm hứng thiên nhiên; cảm hứng thiên
nhiên). Trong luận điểm“cảm hứng tôn giáo”, tác giả có đề cập tới bốn nội dung
tôn giáo trong thơ Tuệ Trung là: Tính Không; Chân Tâm; Vong Nhị kiến; Tinh thần
nhập thế. Điều đặc biệt chúng tôi đánh giá cao ở công trình này, đó là tác giả đã tiến
hành khảo sát về văn bản học của hai văn bản khắc in Trần triều Thượng sĩ ngữ lục
và Tam Tổ thực lục. Đây là nội dung mà những công trình khác hoàn toàn không có.
Tuy vậy, công trình này giới hạn đề tài nghiên cứu về thơ ca nên mới chỉ là những
khảo sát và nghiên cứu khái quát nhất trên các tác phẩm thơ ca và con người thi sĩ
của Tuệ Trung chứ chưa đề cập sâu sắc phần sáng tác Đối cơ. Riêng phần tư tưởng
Vong Nhị kiến mới chỉ được nhắc tới mà chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu, cặn kẽ.
Tổng kết: Những công trình mà chúng tôi vừa đề cập trên đây tập trung
vào ba nội dung cơ bản, đó là:
- Tiểu sử của Tuệ Trung Thượng sĩ:
Các công trình đều xác minh lại Trần Quốc Tảng và Trần Tung là hai nhân vật khác
nhau. Trần Tung là một trong những người đặt nền móng cho tư tưởng Thiền Trúc
Lâm Yên Tử.
Tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ:
Thượng sĩ quan niệm thế giới này là Không, đây là quan điểm gốc về bản thể luận
của Phật giáo. “Tính không của Phật giáo đạt đến giác ngộ tâm Thiền” [19, tr18].


8

Quan điểm nhận thức luận của Tuệ Trung là tư tưởng Vong Nhị kiến. Ông cho rằng

phân định thế giới này thành nhị kiến là sai lầm nên cần vong nhị kiến để đạt Đạo. Bản
thể của thế giới là không, nhưng sự hiện hữu của thế giới là có thật. Rũ bỏ cái nhìn nhị
kiến, giữ vững cái tâm an nhiên, con người cần hòa mình vào với cuộc đời. Tuệ Trung
đề cao tính nhân văn của tư tưởng Thiền. Những tư tưởng của Thượng sĩ càng chứng
tỏ ngài là một Thiên sư minh Đạo, một minh sư trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
- Thơ ca của Trần Tung:
Về thơ ca của Tuệ Trung Thượng sĩ, xuất hiện nhiều bài viết và công trình
có giá trị. Song những công trình này vẫn dừng lại ở cấp độ bình giải, thiếu một cái
nhìn toàn diện đối với sự nghiệp thơ ca của Tuệ Trung Thượng sĩ - Trần Tung.
Nhìn chung, Đối cơ là một phần quan trọng và có giá trị lớn trong sáng tác
của Tuệ Trung Thượng sĩ nhưng chưa được luận bàn nhiều, hoặc nếu có thì vẫn chỉ
là sự khái quát chung chung trong những bài bình giải, bình luận, phân tích (hoặc
dưới dạng những ví dụ minh họa). Văn bản được tiếp nhận về mặt triết học là chủ
yếu; mặt văn bản học và nghệ thuật còn chưa được đào sâu nghiên cứu một cách bài
bản. Các tư tưởng trong Đối cơ đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến nhưng vẫn
còn nặng về triết học và tôn giáo.
3. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI
Như trên đã trình bày, các công trình nghiên cứu về tư tưởng của Tuệ trung
Thượng sĩ còn khá nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ cần bàn tới, đặc biệt là tư tưởng Vong
Nhị kiến trong Đối cơ, một tư tưởng mang tính chất trừu tượng cao. Giới nghiên cứu
và độc giả phần vì Đối cơ mang tính trừu tượng cao, khó hiểu; phần vì là văn bản
chữ Hán nên không phải ai cũng hiểu được nên chúng tôi mạnh dạn tiến hành
nghiên cứu. Báo cáo khoa học này góp phần nhỏ bé vào nghiên cứu văn bản học
của Đối cơ cũng như về tư tưởng Vong Nhị kiến và giá trị nghệ thuật thể hiện tư
tưởng này. Nghiên cứu đề tài này chúng tôi sẽ trả lời các câu hỏi về mặt văn bản
học của Đối cơ; sự ra đời của tư tưởng Vong Nhị kiến; những biểu hiện cơ bản của
tinh thần Vong Nhị kiến qua các cặp phạm trù. Từ đó có được cái nhìn tổng quan về
tư tưởng Vong Nhị kiến trong sáng tác Đối cơ của Trần Tung, đồng thời có cái nhìn
so sánh với các phần sáng tác khác của ngài. Để đạt được mục tiêu trên, chúng tôi
triển khai báo cáo thành hai chương:

Chương 1: Giới thiệu văn bản.
Chương 2: Tư tưởng Vong Nhị kiến trong Đối cơ của Tuệ Trung Thượng sĩ – Trần
Tung.
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


9

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu dựa trên tư liệu văn bản Đối cơ trong Trần
triều Thượng sĩ ngữ lục và Tam Tổ thực lục. Từ đó khai thác về khía cạnh văn bản
học, nghiên cứu tư tưởng Vong Nhị kiến và giá trị nghệ thuật của các đối cơ bàn về
tư tưởng Vong Nhị kiến.
5. TÓM TẮT NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ ĐÓNG GÓP MỚI
CỦA TÁC GIẢ
Báo cáo của chúng tôi bao gồm ba luận điểm cơ bản sau;
Về mặt văn bản: Trên cơ sở giới thiệu khái quát và khảo dị hai văn bản
Trần Triều Thượng sĩ ngữ lục và Tam Tổ thực lục để thấy được đặc điểm của
phần Đối cơ trong hai văn bản này. Chúng tôi cũng cung cấp tới bạn đọc văn
bản Đối cơ ở phần phụ lục (Mục 2. Nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa, chú giải -

trang 23).
Về mặt nội dung: Chúng tôi tiến hành phân tích những biểu hiện của tư
tưởng Vong Nhị kiến thông qua ba cặp phạm trù tiêu biểu là Sinh – tử; Sắc –
không; Trọc – thanh. Với những biểu hiện này trong Đối cơ về tư tưởng Vong

-

Nhị kiến đều có sự đối sánh, liên hệ với đạo Phật và các sáng tác khác.
Về mặt hình thức: Cùng với nội dung thì hình thức của các đối cơ có những
nét độc đáo riêng trong việc biểu hiện tư tưởng Vong Nhị kiến. Chúng tôi tìm ra

những thế mạnh của hình thức đối cơ. Đó là việc sử dụng nghệ thuật hội thoại,
các bài kệ, điển cố, điển tích với những hình ảnh độc đáo, thi vị .…
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:

-

Phương pháp văn bản học được sử dụng để khảo sát văn bản Đối cơ trong hai

-

văn bản Trần triều Thượng sĩ ngữ lục và Tam Tổ thực lục.
Phương pháp phân tích được sử dụng khi chúng tôi tiếp cận đối tượng nghiên
cứu, hình thành những luận điểm về đối tượng và xác lập hệ thống luận cứ, luận

-

chứng.
Phương pháp so sánh để nhận ra những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc của đối

-

tượng được nghiên cứu, từ đó vấn đề được nhìn nhận rõ ràng hơn.
Phương pháp tổng hợp là phương pháp quan trọng để chúng tôi có cái nhìn khái
quát vấn đề, nhìn nhận vấn đề được sâu sắc và toàn diện hơn.
Những phương pháp này được sử dụng đan xen trong quá trình chúng tôi

nghiên cứu đề tài.



10

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VĂN BẢN
1.1.

Đôi nét về Tuệ Trung Thượng sĩ - Trần Tung.
Về cuộc đời của Tuệ Trung Thượng sĩ đã có nhiều tài liệu nhắc tới. Phần

đông các tác giả công nhận Tuệ Trung Thượng sĩ (1230 - 1291) là con trai của
Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương Trần Liễu, anh trai ruột của Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn, cũng là anh ruột của Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Có
tác giả lại cho rằng Thượng sĩ là Trần Quốc Tảng, con trai của Trần Quốc Tuấn.
Nói như vậy là hoàn toàn sai lầm và không có cơ sở nào cả, đó chỉ là một sai lầm do
Bùi Huy Ích, tác giả Hoàng Việt văn tuyển gây ra. Trong Thơ văn Lý - Trần, tập 1
viết: “Nhưng cũng phải công nhận rằng: cái thuyết coi Tuệ Trung Thượng sĩ là
Trần Quốc Tảng đã lộ quá nhiều khe hở”. Không ai phủ nhận sự tồn tại của một
Trần Quốc Tảng mà tên tuổi của ông vẫn được nhắc tới nhiều trong Đại Việt sử kí
toàn thư. Nhưng Trần Quốc Tảng này không có tước hiệu là Hưng Ninh Vương như
Bùi Huy Ích nói, chỉ có tước hiệu là Hưng Nhượng Vương mà thôi. Trần quốc Tảng
này lại mất vào năm 1313, tức là năm năm sau khi Trần Nhân Tông qua đời. Chính
vì vậy nó không phù hợp với bài “Truy tán” mà Trần Nhân Tông viết khi Tuệ
Trung qua đời. Qua những cứ liệu đã khảo sát, chúng tôi cho rằng Tuệ Trung
Thượng sĩ chính là con trai cả của An Sinh Vương Trần Liễu.
Trần Tung ngay từ thuở ấu thơ đã có bẩm chất thuần lương, cao thượng, có
suy xét và thẩm mĩ, học hành thông minh. Ngay từ thuở để chỏm ngài đã say mê
tinh thần Phật giáo, hâm mộ cửa Không “ngày ngày chỉ hứng thú với Thiền học làm
vui, không bận tâm đến công danh sự nghiệp”. Mặc dù không xuất gia nhưng ông là
một nhà Thiền học có bản lĩnh, thông minh, sắc sảo, một ngôi sao sáng trong vườn
thiền Việt Nam. Điều Ngự Giác Hoàng ca ngợi ông là người có “khí lượng thâm

trầm, phong thần nhàn nhã”. Trần Nhân Tông, ông Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm
Yên Tử đã đánh giá Tuệ Trung Thượng sĩ là người có con mắt thông tuệ về “biển
pháp” và “rừng Thiền”: Pháp hải độc nhãn / Thiền lâm tam giác. (Biển pháp một
ngươi - Rừng Thiền ba phía). Sự nghiệp văn chương của ngài gắn chặt với sự
nghiệp Thiền học. Toàn bộ sáng tác của ngài được tập hợp trong bộ “Tuệ Trung
Thượng sĩ ngữ lục (慧 忠 上 士 語 籙), cuốn sách ghi dấu sự nghiệp văn chương
của Thượng sĩ được đánh giá là một tác phẩm trác tuyệt, triết lí uyên thâm, văn
chương thanh thoát.


11

Cuộc đời và sự nghiệp của Tuệ Trung Thượng sĩ là một tấm gương sáng có
ảnh hưởng không chỉ đến không khí Phật giáo thời Trần mà còn tác động to lớn tới
không khí học thuật đương thời. Tuệ Trung thực sự xứng đáng trở thành một minh
đạo, một minh sư có con mắt thông tuệ trong vườn Thiền Việt Nam.
1.2.

Giới thiệu văn bản
Đối cơ là một trong ba mảng sáng tác của Tuệ Trung Thượng sĩ. Đối cơ cùng

với Tụng cổ và thơ ca góp phần làm nổi bật hệ thống tư tưởng triết học Phật giáo
của Thượng sĩ. Ba phần sáng tác của Tuệ Trung Thượng sĩ hiện nay tồn tại ở dạng
khắc in chỉ còn hai văn bản đang được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán
Nôm (Đường Đặng Tiến Đông). Hai văn bản khắc in này là: Triều Trần Thượng sĩ
ngữ lục (Trúc lâm Tuệ Trung Thượng sĩ - 竹 林 慧 忠 上 士 語 籙)và bản thứ hai là
Tam Tổ thực lục (三 祖 寔 籙).Sở dĩ chúng tôi giới thiệu hai văn bản này, bởi vì
mỗi Đối cơ (văn bản con) trong từng văn bản sẽ mang những đặc điểm của văn bản
lớn (văn bản mẹ). Trước tiên, chúng tôi khái quát quá trình ra đời và tồn tại của hai
văn bản khắc in này như sau:

1.2.1. Đặc điểm cơ bản của Trần triều Thượng sĩ ngữ lục và Tam Tổ thực lục
Triều Trần Thượng sĩ ngữ lục (Trúc lâm Tuệ Trung Thượng sĩ - 竹 林 慧 忠 上
士 語 籙 ), khắc in năm Chính Hòa thứ 4 (1683). Kí hiệu A1932, bản chụp kí hiệu
02584 - 02585. Văn bản này có một bài Tựa của Tì kheo Tuệ Nguyên về việc trùng
san Thượng sĩ Ngữ lục vào thời Lê niên hiệu Chính Hòa năm thứ 4 (1683). Hai văn
bản hiện còn này có những đặc điểm như thế nào, chúng tôi sẽ trình bày lần lượt
dưới đây, trên cơ sở đó lựa chọn một thiện bản.
Trên cơ sở khảo sát, chúng tôi đưa ra bảng so sánh đặc điểm của hai văn bản
Trần triều Thượng sĩ ngữ lục và Tam Tổ thực lục theo 5 tiêu chí: Tình trạng văn
bản: (nhan đề, số trang, khổ sách, khung chữ, loại giấy, trang đầu tiên, rốn sách);
kết cấu văn bản; chữ viết (số chữ trên một cột, cỡ chữ, kiểu chữ, hiện tượng viết chèn
chữ, hiện tượng dùng các chữ viết tắt, giản thể, tục thể); từ ngữ; chữ húy.

BẢNG 1: SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM CỦA TRẦN TRIỀU THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC VÀ
TAM TỔ THỰC LỤC


12

Tiêu chí

Nhan đề

Trần triều

Tam Tổ thực lục

Thượng sĩ ngữ lục
Triều Trần Thượng sĩ ngữ lục


Tam Tổ thực lục

(Trúc lâm Tuệ Trung Thượng sĩ

三祖寔籙

- 竹 林 慧 忠 上 士 語 籙.

Tình
trạng
văn
bản
Ảnh chụp tên nhan đề: Trúc
lâm Tuệ Trung Thượng sĩ.

Ảnh chụp tên nhan đề:

Số trang

44 trang

Tam Tổ thực lục.
47 trang đầu

Khổ sách

16cm x 28cm

16cm x 25cm


Khung chữ

14cm x 21 cm

14cm x 21cm

Loại giấy

Giấy dó, bốn trang đầu bị rách Giấy còn cứng, dày, màu
góc mép phải dưới, bìa màu nâu sáng, bìa màu nâu.
nâu cũ.
Phía trên cùng có một dấu hình Giống Trần triều Thượng

Trang đầu

elip của Thư viện Viễn Đông sĩ ngữ lục

tiên

báo cổ Pháp. Xung quanh có ba
dấu hình chữ nhật nhỏ nằm
ngang của Thư viện Hán Nôm
đề 1967, 1986, 1991.
Rộng 1,5cm; không trang trí Giống bản Trần triều

Rốn sách

hoa văn, phần trên ghi 上 士 Thượng sĩ ngữ lục.
語 錄 , còn phần dưới là số
trang, thống nhất trên toàn văn



13

bản.
Kết
cấu
văn

Số phần

bản

8 phần:
1. Bài Tựa của tì kheo Tuệ

10 phần:
1. Tiểu dẫn của Tì kheo

Nguyên.
2. Lược dẫn Thiền Phái đồ (略

Thanh Hanh
2. Bài Tựa của Tì kheo

引 禪 派 圖)
3. Đối cơ (對 機)
4. Tụng cổ (頌 古)
5. Thơ ca
6. Thượng sĩ hành trạng (上 士


Tuệ Nguyên

行 狀) của Trần Nhân Tông
7. Chư nhân tán tụng (諸 人 贊

4. Đối cơ (對 機)

訟 – Mọi người ca tụng).

6. Thơ ca

3. Lược dẫn Thiền phái
đồ (略 引 禪 派 圖 ) của
Tì kheo Tuệ Nguyên
5. Tụng cổ (頌 古)

8. Bài Bạt của Trần Khắc 7. Thượng sĩ hành trạng
Chung

(上 士 行 狀) của Trần
Nhân Tông.
8. Chư nhân tán tụng (諸
人 贊 訟 – Mọi người ca
tụng).
9. Bài Bạt của Trần Khắc
Chung.

Số chữ trên
Chữ


một cột

viết

10. Chú thích
Không cân đối. Cụ thể:
Cân đối. Cụ thể:
8 cột / trang,
8 cột / trang,
có cột 15 chữ/cột; có cột 14- thường 14 chữ/cột;
viết đài 15 chữ / cột.
16-17 chữ/cột;
viết đài 18 chữ/cột.

Cỡ chữ

To, nét to đậm, viết không Chữ chân phương, rõ
thẳng dòng. Cụ thể:
ràng, vừa phải, đều đặn.
Trang 7b: các chữ 何 虛 吾 (Chúng tôi đưa ra hình
則 曰 饑 麼 . Đáng ra phải ảnh minh họa dưới đây về
“cắm” trên một hàng những tình trạng tiêu biểu của
chúng lại sắp lệch dòng. Các hai văn bản).
trang khác hầu như đều mắc lỗi


14

này, tiêu biểu như trang 10a,

12a,…

Nhiều kiểu chữ, không thống
Kiểu chữ

nhất. Có những trang khắc in Kiểu chữ thống nhất toàn
kiểu chữ mảnh, có kiểu chữ hơi văn bản: chữ thẳng, đều
nghiêng, hơi thô; bố cục chữ có đặn, chân phương. Cho
lúc bị xô lệch. Nếu như các thấy trình độ in ấn có tính
phần khác trong Trần triều chuyên nghiệp hơn.
Thượng sĩ ngữ lục được in bằng (Chúng tôi trình bày ảnh
nhiều kiểu chữ khác nhau thì minh họa cuối mục này –
Đối cơ trong văn bản này lại trang 15).
được in khá thống nhất bằng
kiểu chữ đậm nét. Xét trên hệ
thống văn bản Trần triều
Thượng sĩ ngữ lục ta sẽ thấy
các trang 22a, 22b, 23a, 23b,
41a, 41b in bằng một kiểu chữ
mảnh; trang 43a, 43b kiểu chữ
hơi thô, hơi nghiêng, bố cục bị
xô lệch. Có thể so với các phần
khác, phần Đối cơ được khắc in
không đồng thời với tính
chuyên nghiệp không đồng
thời.


15


Hiện tượng

Nhiều trường hợp chèn chữ, Không có hiện tượng chèn

viết chèn chữ

nguyên nhân do thiếu hoặc sửa chữ.
Cụ thể:
sai. Cụ thể:
-Trang 10b.5: ba chữ diệc vô tri -Ba chữ diệc vô tri (亦 無
( 亦 無 知 ) đột ngột được viết 知) trong Tam Tổ thực lục
nhỏ lại bằng hai chữ thông viết đều đặn (so sánh với
thường.

diệc vô tri trong Trần
triều thượng sĩ ngữ lục)

- Trang 12a.2: hai chữ không - Chữ không không trong
không (空 空) đột ngột viết nhỏ bản Tam Tổ thực lục:
lại bằng một chữ thông thường.

Chữ giản thể Dùng chữ giản thể (2 trường

Không có

hợp): chữ tương 将 (10a.8) –
dạng phồn thể là 將 ; chữ tàn
Chữ tục thể

残 (8a.2) – dạng phồn thể là 殘.

Dùng rất nhiều chữ tục thể
(43 trường hợp). Khảo sát cụ

Ít trường hợp.
(9 trường hợp)

thể ở mục 1.2.2.1. chương 1.
Viết tắt

Viết tắt những chữ sóng đôi
giống nhau (5 trường hợp).
Khảo sát cụ thể ở mục 1.2.2.2.
chương 1.

Không có


16

Từ

Có trường hợp sai hình thể dẫn tới sai về nghĩa. Có chữ sai nhưng sử dụng

ngữ

Lỗi do dùng từ đồng âm. Văn bản này không có hình thức cước chú, đây là
hình thức cước chú nên độc giả rất khó theo những khảo đính rất tỉ mỉ,
dõi.

rõ ràng, công phu tạo điều


Có hai trường hợp cần phải hiệu chính: Cụ thể: kiện cho người nghiên
chữ sư (8b.3); can (8b.4); kỉ (10a.5).

cứu. (Cụ thể chúng tôi
khảo sát ở mục 1.2.2.4.
chương 1).
Văn bản này không có
trường

hợp

cần

Chữ

chính.
Chữ Trần trong câu cuối cùng của văn bản: Không có chữ húy

húy

Trần triều Thượng sĩ ngữ lục chung (陳 朝 慧

hiệu

忠 上 士 語 錄 終 – Thượng sĩ ngữ lục triều
Trần kết thúc).

(Ảnh chữ Trần)
Chúng tôi bàn luận sâu hơn về hiện tượng chữ húy này như sau: hiện tượng

kiêng chữ húy chỉ xuất hiện trong bản Trần triều Thượng sĩ ngữ lục. Bản Tam
Tổ thực lục không có hiện tượng này. Chữ húy là chữ Trần trong câu cuối cùng
của văn bản: Trần triều Thượng sĩ ngữ lục chung (陳 朝 慧 忠 上 士 語 錄 終 –
Thượng sĩ ngữ lục triều Trần kết thúc). Chữ Trần dùng bộ xuyên bên trên, bộ
phụ bên phải, bộ đông bên trái.
Hình ảnh minh họa như sau:


17

Chữ Trần vốn là chữ húy quan trọng của thời Lê sơ, được ban bố từ thời Lê
Thái Tổ. Trong Luận án Phó Tiến sĩ khoa học “Nghiên cứu chữ húy trên các văn
bản Hán Nôm”, Ngô Đức Thọ đã chỉ rõ rằng: “Trần là tên húy của Hoàng hậu
Phạm Thị Ngọc Trần, bà vợ cả của Lê Lợi, đi theo chồng trong cuộc hành quân của
Nghĩa quân Lam Sơn vào Nghệ An tháng Chạp năm Ất Tị (tháng 1 năm 1425).
Gương hi sinh cao cả của bà có nhiều người biết, nhất là việc bà tự nguyện hi sinh
để làm vật tế thần Phổ Hộ mang màu sắc huyền thoại càng làm cho sự tích của bà
được truyền tụng lâu dài. Do đó, mặc dù triều Lê Trung Hưng không quy định về
việc viết húy nhưng vẫn có một bộ phận nhân dân chọn cách viết kiêng húy chữ
Trần để thể hiện lòng kính mộ công lao đức nghiệp thiên triều”. Chữ Trần không
được viết như thông thường, mà viết có bốn dấu nháy cá đồng thời viết đảo chữ
Trần bình thường (bộ phụ sang bên phải, chữ đông sang bên trái). Dù rằng thời Lê
Trung Hưng không bắt buộc kiêng húy nhưng vì lòng kính trọng của nhân dân nên
nảy sinh hiện tượng kiêng húy này.
Kết luận:
Trên cơ sở so sánh hai văn bản như trên chúng tôi công nhận văn bản Tam
Tổ thực lục khắc in năm Thành Thái thứ 15 (1903) được coi là thiện bản, tạo thuận
lợi cho người nghiên cứu tác phẩm của Tuệ Trung Thượng sĩ – Trần Tung. Ngoài
ra, văn bản tác phẩm của Tuệ Trung còn xuất hiện dưới hình thức ảnh ấn như trong
Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục giảng giải của Thích Thanh Từ. Văn bản này có các

dấu hiệu cắt ghép tư liệu từ văn bản Tam Tổ thực lục. Văn bản ảnh ấn gồm 91 trang,
mỗi trang 8 cột, mỗi cột 14 chữ, được cắt ghép một cách cẩu thả, vụng về. Chúng
tôi phụ lục cuối báo cáo để độc giả tiện theo dõi (mục 3, trang 43). Các tác phẩm


18

của Thượng sĩ còn xuất hiện trong các cuốn sách Tổng tập như Tổng tập văn học
Việt Nam và Thơ văn Lý Trần. Văn bản Đối cơ trong Tổng tập văn học Việt Nam
được chúng tôi phụ lục (mục 4. trang 50).
Trên đây chúng tôi đã trình bày đôi nét về tình hình hai văn bản Tuệ Trung
Thượng sĩ ngữ lục và Tam Tổ thực lục. Nhìn chung phần Đối cơ thuộc hai văn bản
này mang những đặc điểm giống như tình hình văn bản mà chúng tôi vừa trình bày
trên đây. Những đặc điểm cụ thể của Đối cơ như thế nào chúng tôi sẽ lần lượt khảo
sát.


19

(Ảnh minh họa)

1.2.2. Khảo sát văn bản Đối cơ.
Đối cơ trong bản Trần triều Thượng sĩ ngữ lục gồm khoảng 11 trang (từ


20

trang 6b.4 đến 12a.5). Đối cơ trong bản Tam Tổ thực lục gồm khoảng 12 trang (từ
trang 9a.4 đến 15a.4). Chúng tôi thống nhất chia phần Đối cơ trong hai văn bản
thành hai mươi lăm đối cơ. Việc phân chia các đối cơ (nguyên văn, phiên âm, dịch

nghĩa) chúng tôi trình bày ở phần phụ lục cuối báo cáo (mục 2. trang 23).
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi tiến hành khảo sát song song hai văn bản
này. Trước tiên, chúng tôi khảo sát tổng quan Đối cơ trong Trần triều Thượng sĩ
ngữ lục và Tam Tổ thực lục. Sau đó đưa ra bảng khảo dị đầy đủ (đính kèm trong
phần phụ lục - Bảng phụ lục số 1: Khảo dị văn bản Đối cơ trong Trần triều Thượng
sĩ ngữ lục và Tam Tổ thực lục (mục 1.1, trang 1).
Chúng tôi khảo sát văn bản Đối cơ theo những hiện tượng sau: hiện tượng
dùng tục thể; hiện tượng viết tắt; hiện tượng cần hiệu chính và hiện tượng cước chú.
Riêng đối với trường hợp chữ húy, chúng tôi tìm thấy duy nhất một trường hợp
kiêng húy (chữ Trần) trong bản Trần triều Thượng sĩ ngữ lục (trình bày ở trên). Bản
Tam Tổ thực lục không có hiện tượng kiêng húy. Trong quá trình khảo sát chúng tôi
dựa theo cuốn Hán Việt Tự điển của Thiều Chửu, NXB Thanh niên.
1.2.2.1.

Hiện tượng dùng chữ tục thể
Trước khi tìm hiểu về chữ tục thể, chúng tôi sẽ phân biệt nó với chữ chính

thể và chữ dị thể. Chữ chính thể: khi chữ Hán phát triển đến Triện văn sang Lệ thư
rồi sang Khải thư thì cách viết đã có chuẩn mực. Chữ viết hợp chuẩn mực gọi là chữ
đúng (chính tự 正 字) hoặc chữ chính thể (chính thể tự 正 体 字). Chữ được quy
chuẩn chính thức trong các cuốn từ điển, tại Trung Quốc là Khang Hi, Từ nguyên,
Từ hải, Hán ngữ đại từ điển, tại Việt Nam là các cuốn Hán Việt từ điển, Hán Việt tự
điển. Vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan, chúng tôi chủ yếu sử dụng
cuốn Hán Việt Tự điển của Thiều Chửu để tra cứu. Chữ dị thể là loại chữ đồng âm,
đồng nghĩa nhưng hình thể khác nhau, cũng gọi là tục thể, hoặc cổ thể như chữ than
bộ khẩu và bộ khiếm (Hán ngữ đại từ điển). Chữ tục thể là những chữ Hán được
dùng rộng rãi (thông tục lưu hành) nhưng hình thể chữ không được chuẩn hóa (quy
phạm) như chữ niệm có bộ khẩu và không, chữ quả có bộ thảo và chữ quả không có
bộ thảo (Hán ngữ đại từ điển).
Như vậy, theo quan niệm của Hán ngữ đại từ điển thì khái niệm tục thể đồng

nhất với khái niệm dị thể. Chúng đồng âm, đồng nghĩa nhưng có hình thức khác biệt
(do thay đổi nét, thay đổi bộ thủ, đổi thành chữ khác) với chính thể. Tuy nhiên, ở
cấp độ lưu hành rộng rãi thì chữ tục thể và dị thể có sự khác biệt. Chữ dị thể lưu


21

hành rộng rãi đến độ được chấp nhận vì tính thông dụng và sự hợp lý nên nó được
quy chuẩn trong các từ điển thành cách viết khác của chính thể. Còn chữ tục thể có
thể được lưu hành rộng rãi nhưng chưa được quy định trong các từ điển.
Trong phạm vi của báo cáo, chúng tôi sử dụng khái niệm chữ tục thể (thống
nhất với dị thể là những chữ phân biệt với chính thể). Chúng tôi không phân định
cấp độ những chữ viết khác chính thể này đã được công nhận là cách viết khác
trong từ điển hay chưa.
Theo kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng: văn bản Trần triều Thượng sĩ
ngữ lục có nhiều hiện tượng dùng chữ tục thể (46/ 49 trường hợp); văn bản Tam Tổ thực
lục chỉ có một vài trường hợp dùng chữ tục thể (6/49 trường hợp).
BẢNG 2: CHỮ TỤC THỂ
(Kí hiệu: x – là chữ viết như chữ chính thể)
STT

1

2

Viết
thường





3

Trần Triều Thượng sĩ ngữ
Phiên
âm

lục
Chữ tục thể
Xuất xứ

Tam Tổ thực lục
Chữ tục thể

Xuất xứ

x

9a.5

thị

6b.5

mỗ

6b.6

vị


6b.6



9a.6

6b.6

x

9a.7

6b.7

x

9a.8

4



thẩm

5



túng


6



phi

6b.8

7



thuyết

7a.3



9a.6

x

x

9a.8
9a.4

7a.4

9a.5


9a.8

12a.4


22

10a.3
8



khước

9



thính

10



nhiên

11

12






13



lễ





X

12b.7

7a.4

x

9b.5

7a.5

x

9b.5


12a.2

x

15a.1

7a.8

x

10a.1

7a.8

x

10a.1

12a.2

x

15a.1

7b.1

10.a2

tiêu


7b.2

x

10a.3

14



minh

7b.2

x

10a.2

15





7b.2

x

10a.3


16



nghị

7b.2

x

10a.3

17



trường

7b.2

x

10a.3


23

18




phi

thanh
19



7b.3

x

10a.4

x

7b.4

10a.5

x

7b.6

10a.8

x

7b.8


10b.2

x

11a.5

14a.2

20



danh

21



tịnh



22



hồng




23



đạo

24



thần

25



tham

26



tổ

7b.7






7b.6
7b.7

x

x

13b.8
10a.5
10b.1

8a.2

x

10b.4

8a.2

x

10b.4

8a.4

x

10b.6


8a.7

x

11a.4

8a.7

x

11a.2

x
x

11a.4

27



tượng

8a.8
8b.1

28




sở

8b.2

x

11a.4

29



hoàng

9a.3

x

11b.6

x

14a.6
11b.8

30



a




11a.8
9a.5


24

30



cước

31



biên



9a.5

x

11b.8

9a.6


x

12a.1

11a.8

x

14a.6

32



gian

33



mật

34



giản

35




quy

9a.7

x

12a.3

36



tạng

9b.5

x

12b.1

37



lưỡng

9b.8


x

12b.4

38



hạ

10a.6

39



tận

10a.8

x

13a.4

40

滿

mãn


10a.8

x

13a.4

41



diễm

10a.8

x

13a.5

42



hộ

10a.8

x

13a.5


x

9a.7

9a.7

x







12a.2

x

9a.7

12a.2

12a.2

13a.3


25




43

44



45

quyên

10a.8

x

13a.5

bạn

10b.2

x

13a.7

tuy

10b.2


x

13a.7

11b.3

x

13b.8

11a.2

x

13b.7

46



hạc



47



đa


11a.6

x

14a.4

48



đấu

11b.1

x

14a.7

49



Thiền

11b.2

x

14b.8




Qua bảng khảo sát trên chúng tôi nhận thấy có 49 trường hợp dùng chữ tục
thể. Trong đó, bản Trần triều Thượng sĩ ngữ lục rất nhiều (46 trường hợp) so với
bản Tam Tổ thực lục (6 trường hợp). Có nhiều chữ tục thể chưa được quy định
trong các từ điển nhưng lại được lưu hành rộng rãi. Hiện tượng dùng chữ tục thể là
hiện tượng phổ biến, bên cạnh đó chúng tôi còn phát hiện hiện tượng dùng chữ viết
tắt.
1.2.2.2.

Hiện tượng viết tắt

Hiện tượng viết tắt chỉ xuất hiện trong văn bản Trần triều Thượng sĩ ngữ lục
đối với những chữ sóng đôi giống nhau. Bản Tam Tổ thực lục không có hiện tượng
này.
BẢNG 3: NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2

Viết tắt
青匕
鬱匕

Viết thường
青青
鬱鬱

Phiên âm
thanh thanh

uất uất

Xuất xứ
9a.1
9a.3


×