Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Vai trò của công ty đông ấn hà lan (v.o.c) đối với indonesia vào thế kỷ XVI - XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.98 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC

ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA CÔNG TY ĐÔNG ẤN HÀ LAN (V.O.C)
ĐỐI VỚI INDONESIA VÀO THẾ KỶ XVI-XVIII

Giáo viên hướng dẫn: Th.S Văn Kim Hoàng Hà

TP. Hồ Chí Minh, tháng 11/2016


MỤC LỤC
Trang
Chương 1
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.......................................................................................................................................2
2.Lịch sử nghiên cứu đề tài...........................................................................................................................2
1.Tổng quan về V.O.C và quá trình xâm nhập của V.O.C ở Châu Á.................................................................6
1.1.Tổng quan về V.O.C.............................................................................................................................6
1.2.Quá trình xâm nhập của Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Châu Á...............................................................7
1.2.1.Nguyên nhân Công ty Đông Ấn Hà Lan xâm nhập vào Châu Á.....................................................7
1.2.2.Quá trình xâm nhập của Công ty Đông Ấn Hà Lan vào một số nước châu Á................................8
2. Quá trình xâm nhập của V.O.C vào Indonesia và vai trò của V.O.C ở Indonesia......................................10
2.1.Quá trình xâm nhập của V.O.C vào Indonesia8,9..............................................................................10
2.2.Sự ảnh hưởng của V.O.C đối với Indonesia trong: kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị........................14
3.Sự suy vong của V.O.C..............................................................................................................................19
3.1.Quá trình suy vong...........................................................................................................................19
3.2.Đánh giá hậu quả của V.O.C đến Indonesia sau này4........................................................................20
KẾT LUẬN....................................................................................................................................................24


TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................................................25


Chương 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Indonesia trước đây là một quần đảo giao nhau bởi 3 mảng địa chất lớn: Mảng ÁÂu, Ấn-Úc, Thái Bình Dương. Và sự ra đời về mặt địa chất của quần đảo Indonesia là do
sự tan chảy của băng vào thời kỳ băng hà – khoảng 10000 năm trước. Trải qua hàng trăm
năm đô hộ và hàng trăm cuộc khởi nghĩa, Indonesia cũng đã tự hào đứng lên và phát triển
bằng sự trưởng thành của mình.
Lịch sử của đất nước vạn đảo Indonesia, ngoại trừ những cuộc xâm lăng của các
vương triều Hồi giáo hay Ấn giáo, nó còn bị ảnh hưởng bởi các chế độ thực dân khác. Sự
ảnh hưởng từ các vương triều sẽ trở thành một trong nhiều yếu tố khiến cho Ấn giáo hay
Hồi giáo dễ dàng du nhập và lan rộng ở Indonesia. Còn đối với chế độ thực dân, các nước
Tư bản phương Tây, đã đem lại lợi ích cũng như khó khăn đối với Indonesia.
Khi nhắc đến chế độ thực dân ở Indonesia, người ta không thể bỏ qua chế độ thực
dân Hà Lan mà biểu trưng của nó là Công ty Đông Ấn Hà Lan (Vereenigde Oost-Indische
Compagnie) hay V.O.C. Công ty đã có sức ảnh hưởng rất rõ ràng bởi thế lực hùng mạnh
của nó đến đời sống kinh tế, văn hoá, chính trị của Indonesia nói riêng và các nước trong
khu vực Châu Á nói chung.
V.O.C xuất hiện làm ảnh hưởng đến hệ thống bảng chữ cái của Indonesia. Ngoài
ra, nó còn làm cho cấu trúc xã hội của Indonesia bị thay đổi nhiều. Bên cạnh đó, việc Hà
Lan xem Indonesia là một nước thuộc địa cũng sẽ ảnh hưởng lớn tới chính sách bóc lột
đối với nhân dân Indonesia. Kinh tế thời V.O.C cai trị cũng có nhiều biến đổi, đặc biệt là
nhóm cây nông nghiệp. V.O.C cũng là một bước đệm cho sự xâm nhập lần 2 của thực dân
Hà Lan đối với Indonesia.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đề tài về “Vai trò của công ty Đông Ấn Hà Lan (V.O.C) đối với Indonesia vào Thế
kỷ XVI-XVIII” trước đây đã được nghiên cứu bởi nhiều người, sự xuất hiện và tầm ảnh
2



hưởng của công ty này xuất hiện trong các tác phẩm, bài viết cũng như tài liệu trên mạng
của nhiều tác giả cả trong và ngoài nước.
Đối với các tác phẩm trong nước thì có công trình nghiên cứu, luận văn thạc sĩ
Châu Á học của thạc sĩ Châu Vũ Kỳ năm 2015 về:“ Vai trò của công ty Đông Ấn Hà Lan
(V.O.C) trong mối quan hệ Nhật Bản- Việt Nam thế kỷ XVII” nghiên cứu về sự hình thành
cũng như phát triển của công ty Đông Ấn Hà Lan tại Châu Á và nhất là ảnh hưởng của
công ty này lên sự phân chia đàng trong đang ngoài ở Việt Nam cùng với mối quan hệ
buôn bán với Nhật Bản, thông qua công trình nghiên cứu này, nhóm chúng tôi đã có thêm
những thông tin thiết thực hơn về nguyên nhân hình thành của công ty Đông Ấn Hà Lan
và sự xâm nhập của nó vào Châu Á.
Cuốn Lịch sử Đông Nam Á, tập IV của PSG.TS Trần Khánh do nhà xuất bản khoa
học xã hội Hà Nội phát hành năm 2012 cũng đã phân tích rõ tình hình của các quốc gia
Đông Nam Á trong thời kỳ thuộc địa và phong trào đấu tranh giành độc lập từ TK XVI
đến năm 1945, quá trình xâm nhập, tranh giành hương liệu và thuộc địa ở Đông Nam Á
hải đảo, đó là “vì mục tiêu nhanh giàu có và có nhiều quyền lực để thống trị Châu Âu từ
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha cho đến Hà Lan, Anh và sau này là Pháp và Đức đã khuyến
khích, giúp đỡ các thương gia của họ đi ra bên ngoài để tìm kiếm lợi nhuận không chỉ
bằng cơ chế pháp lý, mà cả tiền bạc và quân đội bảo vệ” (trang 22) và nhất là quần đảo
Indonesia đầy hương liệu. Hay tác phẩm Indonesia những chặng đường lịch sử của PTS.
Ngô Văn Doanh do Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội phát hành năm 1995 đã nói về
vấn đề hình thành, phát triển của Indonesia từ cổ đại cho đến hiện đại qua từng giai đoạn
lịch sử, trong đó tác giả đã viết về 200 năm thống trị của V.O.C ở Indonesia khá chi tiết.
Trong cuốn Đông Nam Á lịch sử từ nguyên thủy đến nay của G.S Lương Ninh (chủ biên)
cùng G.S Đỗ Thanh Bình và G.S Trần Thị Vinh do Nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự
thật Hà Nội phát hành viết về sự hình thành, phát triển các quốc gia Đông Nam Á đất liền
và hải đảo từ cổ đại đến ngày nay. Lịch sử Indonesia của TS. Huỳnh Văn Tòng do Bộ
giáo dục đào tạo Viện đào tạo mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1992 viết
về diễn biến của lịch sử Indonesia Từ thế kỷ XV-XVI đến những năm 1980 đã nêu lên

3


những ảnh hưởng của công ty V.O.C đến Indonesia.
Bên cạnh đó, các trang web và tài liệu nước ngoài cũng viết về vấn đề này như
cuốn Lịch sử Đông Nam Á của D.G.E.Hall do Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội
xuất bản năm 1997 đã nghiên cứu về tiến trình lịch sử của các nước Đông Nam Á, nhất là
thời kỳ trước và sau khi chủ nghĩa thực dân xâm lược, tranh giành thuộc địa, trong đó tác
giả đã phân tích một cách chi tiết về xự xuất hiện và các nguyên nhân dẫn đến sự tranh
giành, sự diễn ra các cuộc chiến do công ty Đông Ấn Hà Lan tạo nên và lí do công ty này
có thể đánh chiếm các vùng đất ở quần đảo hương liệu Indonesia tạo nên sự ảnh hưởng
lớn của mình ở nơi đây. Ngoài ra còn có các trang web trong và ngoài nước đã cung cấp
cho chúng tôi nguồn tư liệu lớn và cái nhìn khái quát hơn về vai trò của V.O.C ở
Indonesia như:
• :81/index.php?language=vi&nv=tapchi&op=Tap-chikhoa-hoc-so-34-Thang-12-2014/Su-ra-doi-cua-cong-ty-Dong-An-Ha-Lan-dau-the-kyXVII-7806.
• />• />• />Qua các công trình nghiên cứu cũng như tài liệu mà chúng tôi thu thập được vẫn
chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu riêng về công ty Đông Ấn Hà Lan từ quá
trình xâm nhập, thống trị, ảnh hưởng và quá trình sụp đổ cũng như ảnh hưởng của V.O.C
để lại ở Indonesia, mà chỉ viết một cách khái quát nhất về tình hình Indonesia trong
khoảng thời gian công ty này tồn tại hoặc tập trung vào một khía cạnh nhất định của lịch
sử đó là sự tranh giành thuộc địa và quyền lực thông qua công ty này. Vì thế với đề tài
“Vai trò của công ty Đông Ấn Hà Lan (V.O.C) đối với Indonesia Thế Kỷ XVI-XVIII”
chúng tôi muốn tổng hợp một cách rõ ràng hơn và xuyên suốt theo dòng lịch sử về vai trò
của công ty này ở đất nước Indonesia không chỉ ở một khía cạnh nhất định. Và những tư
4


liệu trên đây là phần tài liệu quý giá giúp nhóm chúng tôi có thể tổng hợp và đánh giá một
cách hoàn thiện hơn cho đề tài của mình.


5


Chương 2
VAI TRÒ CỦA CÔNG TY ĐÔNG ẤN HÀ LAN (V.O.C)
ĐỐI VỚI INDONESIA VÀO THẾ KỶ XVI-XVIII
1. Tổng quan về V.O.C và quá trình xâm nhập của V.O.C ở Châu Á
1.1. Tổng quan về V.O.C
Hà Lan thoát khỏi sự đô hộ của Tây Ban Nha, giành được độc lập sau cuộc cách
mạng tư sản vào thế kỉ XVI. Hơn nữa, vào thời điểm đó, quan hệ sản xuất mới tư bản chủ
nghĩa đã thắng thế và phát triển.
Thương nhân của Hà Lan trước kia chỉ là những người môi giới, vận chuyển hàng
hóa của phương Đông từ thủ đô Bồ Đào Nha (Litxbon) sang các nước Châu Âu. Nhưng
trước sự phát triển của Hà Lan, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha công khai tuyên bố cấm
thuyền buôn của Hà Lan vào các cảng của hai nước này. Chính vì vậy Hà Lan phải tự tìm
ra con đường riêng cho mình, đi đến phương Đông. Cuối thế kỷ XVI, các thương nhân Hà
Lan đã tổ chức ra nhiều công ty buôn bán để đi về phương Đông “Trong vòng 3 năm, Hà
Lan đã tổ chức được 14 chuyến đi về phương Đông, lợi nhuận thu được gấp 4 lần.
Phương Đông đầy vàng bạc và lời lãi kếch sù đã làm cho bọn thương nhân châu Âu cạnh
tranh nhau quyết liệt. Công ty Đông Ấn Độ của Hà Lan được thành lập (Vereenigde OostIndische Compagnie) viết tắt là V.O.C”1.
V.O.C là một công ty thương mại, khi quốc hội Hà Lan trao 21 năm nắm độc
quyền thực thi những hoạt động thực dân tại châu Á. Đây là công ty đa quốc gia đầu tiên
trên thế giới và là công ty đầu tiên sử dụng cổ phiếu. Đây là 1 công ty đầy quyền lực, sở
hữu gần như toàn bộ quyền lực của chính phủ, bao gồm có khả năng phát động chiến
tranh, bỏ tù và hành hình các tù nhân, thay mặt trong các đàm phán hiệp ước, đúc tiền và
thành lập thuộc địa.
Theo thống kê, “V.O.C làm lu mờ tất cả các đối thủ thương mại khác tại châu Á.
1

Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng (1997), Đại cương lịch sử thế giới cận đại, Hà Nội, NXB Giáo dục, trang 111


6


Từ 1602 đến 1796, V.O.C đã gửi gần 1 triệu người châu Âu làm việc cho các giao dịch
thương mại với 4.785 tàu và mạng lưới vận tải đã vận chuyển hơn 2,5 triệu tấn hàng hóa
với châu Á. Phần còn lại của cả châu Âu chỉ gửi đi 882.412 người từ năm 1500 đến năm
1795. Hạm đội vương quốc Anh (sau là Đế quốc Anh) với công ty Đông Ấn Anh, đối thủ
cạnh tranh chính của V.O.C, ở vị trí thứ 2 với 2.690 tàu và vận chuyển chỉ bằng 1/5 trọng
tải hàng hóa so với V.O.C. V.O.C hưởng lợi nhuận khổng lồ từ thế độc quyền về gia vị
trong thế kỷ XVII”2.
Thành lập năm 1602, lợi nhuận có được từ việc thu mua gia vị ở quần đảo Maluku.
Năm 1619, V.O.C thiết lập thủ phủ tại thành phố cảng với tên gọi là Jakarta, đổi tên từ tên
gọi cũ Batavia. Trong 2 thế kỷ tiếp theo V.O.C đã thiết lập các cảng giao dịch mới và bảo
vệ lợi ích của họ bằng việc xâm chiếm thêm lãnh thổ.
Công ty Đông Ấn Hà Lan là một công ty buôn bán quan trọng trên thế giới trong
hai thế kỷ, thường xuyên đóng góp 18% lãi xuất hàng năm trong vòng 200 năm. Công ty
bắt đầu tụt dốc cuối thế kỷ 18 do tình trạng tham nhũng. V.O.C phá sản và chính thức tan
rã vào năm 1800. Những quyền sở hữu và các món nợ bị chính phủ Cộng hòa Batavia của
Hà Lan chiếm giữ. Lãnh thổ của V.O.C trở thành Lãnh thổ Đông Ấn Hà Lan và bành
trướng trong thế kỷ 19 chiếm đóng cả quần đảo Indonesia và trong thế kỷ 20 thành lập
nên quốc gia Indonesia.
1.2. Quá trình xâm nhập của Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Châu Á
1.2.1. Nguyên nhân Công ty Đông Ấn Hà Lan xâm nhập vào Châu Á
Châu Á là một khu vực rộng lớn với nhiều nguồn tài nguyên và sản vật phong phú,
có giá trị rất lớn nếu được khai thác. Khi các quốc gia Phương Tây đặt chân đến vùng đất
này đã có những tham vọng tìm nguồn hương liệu mới cũng như tìm thấy được vị trí
chiến lược quan trọng trên cục hàng hải Đông-Tây lấp đầy sự giàu có cho các doanh
nghiệp tư bản phương Tây. “Là một trong những quốc gia sản sinh ra tư tưởng “trọng
thương”, ngay từ cuối thế kỉ XVI, Hà Lan đã nhanh chóng “dự nhập và dấn thân tích cực”

vào hệ thống thương mại châu Á. Trước đây, người ta thường nhắc đến sắc lệnh của vua
2

/>
7


Philip II năm 1594 nghiêm cấm không cho nhà buôn Hà Lan, Anh vào cảng Lisbon là
nguyên nhân chính của các cuộc tấn công dữ dội vào “hàng rào kín” của người Bồ Đào
Nha. Tuy nhiên cũng có phần đông các học giả Hà Lan tin rằng rất lâu trước năm 1594
người Hà Lan đã không thỏa mãn vị trí của họ là người trung gian giữa Lisbon và
Amsterdam và mong muốn đi thẳng sang phương Đông để thu lợi cho riêng mình. Tất cả
đều có thể coi là những nguyên nhân khiến cho người Hà Lan thâm nhập vào thị trường
châu Á.”3.
1.2.2. Quá trình xâm nhập của Công ty Đông Ấn Hà Lan vào một số nước
châu Á
Sau nhiều cố gắng, vào năm 1596, hạm đội tàu Hà Lan đầu tiên do Cornelis de
Houtman đã vượt qua mũi Hảo Vọng để tiến sang khu vực Đông Ấn, đặt chân thành công
đến khu vực Bantam phía Tây đảo Java. Đánh dấu sự hiện diện, thâm nhập của người Hà
Lan vào khu vực châu Á và từng bước vươn lên chi phối thị trường này. Mặc dù không
phải là những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến châu Á, nhưng vào thế kỉ XVII chính
Hà Lan đã có vai trò rất lớn làm nên thời đại “hoàng kim trong hệ thống thương mại châu
Á”. Sau các cuộc phát kiến địa lý, thị trường hương liệu phương Đông trở nên vô cùng
hấp dẫn thu hút sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các quốc gia phương Tây.
Đầu tiên, Công ty Đông Ấn Hà Lan nhảy vào đất Ấn Độ, nhưng vấp phải thương
nhân Anh có thế lực khá mạnh, nên rút về Indonesia. Sau này, Công ty Đông Ấn Hà Lan
thành lập thành phố Batavia tại một khu định cư lâu đời gọi là Jayakarta (nay là Jakarta),
Batavia trở thành một cơ sở tuyệt hảo cho việc buôn bán đồ gia vị, vốn do người Hà Lan
giữ độc quyền và cũng thu hút những thuyền buôn người Hoa và các thương nhân bản
địa. Một trong những lợi thế chiến lược của vị trí này là cầu nối để giao thương với các

nước khác như Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan và một số nước khác thuộc
khu vực Đông Nam Á. Khi công ty Đông Ấn Hà Lan xâm nhập vào thị trường Nhật Bản,
quốc gia này đã sẵn sàng chọn đối tác là Hà Lan để giao thương buôn bán. “ Có thể thấy,
vào thế kỉ XVII, Hà Lan nước tư bản phát triển, có tiềm lực kinh tế lớn nhất châu Âu.
3

:81/index.php?language=vi&nv=tapchi&op=Tap-chi-khoa-hoc-so-34-Thang-12-2014/Sura-doi-cua-cong-ty-Dong-An-Ha-Lan-dau-the-ky-XVII-7806

8


Hơn thế nữa, đây còn là quốc gia theo đạo Tin lành, một tôn giáo có khuynh hướng ôn
hòa, coi trọng tính hiệu quả và tư duy thực tiễn. Trong giao tiếp, vốn là cư dân của một xứ
đất thấp, phải sớm cấu kết cộng đồng, người Hà Lan đã rèn luyện cho mình một khả năng
giao tiếp giỏi, sự năng động, đức tính khiêm nhường, biết lắng nghe ý kiến người khác.
Chính những phẩm chất đó đã gây được ấn tượng mạnh đối với chính giới và thương
nhân Nhật Bản.”4. Công ty Đông Ấn Hà Lan đã thu được rất nhiều lợi nhuận từ Nhật Bản,
đây là nơi chúng dùng để đổi lấy bạc-loại tiền tệ phổ biến tại nhiều thị trường phương
Đông.
Ngoài ra mậu dịch tơ lụa của công ty Đông Ấn cũng rất phát triển ở thị trường
Đàng Ngoài (Việt Nam), chủ yếu hàng tơ lụa được nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản do
công ty Đông Ấn kiểm soát. “Trong những năm 1637 và 1638, mậu dịch tơ lụa của V.O.C
ở Đàng Ngoài diễn ra êm thấm do tơ lụa được mùa, đến những năm 1641-1654 là giai
đoạn lợi nhuận cao, thời kì phát đạt của nền mậu dịch tơ lụa V.O.C-Đàng Ngoài” 5.
Công ty Đông Ấn Hà Lan cũng tiếp cận đến một số thị trường như Miến Điện
(Myanmar), Xiêm (Thái Lan), Malaysia,… Đối với thị trường Xiêm (Thái Lan), công ty
Đông Ấn đã có những bước tiến đầu tiên kể từ những ngày đầu thành lập. “Năm 1601,
những thương nhân Hà Lan đầu tiên đã đến Pattani-một tiểu vương quốc chư hầu của
Ayutthaya, với sự kiện này đã mở ra mối quan hệ giữa Hà Lan-Xiêm, đồng thời nó cũng
đánh dấu một đợt xâm nhập mới, mạnh mẽ của người phương Tây ở đây. Thông qua việc

buôn bán với Trung Quốc, người Hà Lan đã nhận ra rằng Thái Lan có thể đem nhiều lợi
ích thương mại. Khi Hà Lan đến khu vực này, người dân và quốc vương đều chào đón họ
rất nồng hậu và từ đó họ tiếp tục xây dựng những thương điếm cho riêng mình ở khu
Pattani”6. Tuy nhiên, một số thị trường không đem lại nhiều kết quả cho công ty Đông Ấn
Hà Lan như trường hợp của Miến Điện. “Vào năm 1610, người Hà Lan đã đặt những
thương cục tại Mrauc U, nhưng thương cục này hoạt động không ổn định, lúc đóng lúc
4

GS.Vũ Dương Ninh, PGS. Nguyễn Văn Kim (2008), Một số chuyên đề lịch sử Thế giới (tập II), NXB ĐHQG Hà
Nội, trang 149
5
:8080/dspace/bitstream/TVDHSPDN_123456789/17741/2/000000CVv250S032006010.pd
f
6,7
/>
9


mở vì phụ thuộc nhiều vào tình hình chính trị người bản xứ, năm 1665, đã xảy ra sự kiện
mà sau đó người Hà Lan coi đó là mốc chấm dứt cho việc buôn bán của mình ở khu vực
này, đó là cuộc xung đột giữa Aracan và Bengalia. Chính vì lý do này người Anh sau này
đã có cơ hội để tạo ảnh hưởng của mình lên Miến Điện và sau đó là đặt ách thống trị lên
quốc gia này.”7.
Từ những cuộc xâm nhập của công ty Đông Ấn Hà Lan đã khẳng định sức mạnh
của mình trên biển và V.O.C trở thành một trong những công ty thương mại có hoạt động
buôn bán thành công nhất ở phương Đông. Góp phần quan trọng làm nên những “cuộc
cách mạng thương mại của thế kỉ XVII”. Sự bùng nổ của các hoạt động thương mại của
công ty Đông Ấn Hà Lan ở châu Á đã thật sự mang đến cho hệ thống thương mại châu Á
một luồng gió mới, kích thích nền kinh tế hàng hóa ở nhiều quốc gia, làm hồi sinh hoạt
động thương mại ở nhiều cảng thị Đông Nam Á. Đồng thời cũng đưa đến những thay đổi

to lớn trong cấu trúc thương mại khu vực.
2. Quá trình xâm nhập của V.O.C vào Indonesia và vai trò của V.O.C ở Indonesia
2.1.

Quá trình xâm nhập của V.O.C vào Indonesia8,9

Sau cuộc cách mạng tư sản Hà Lan năm 1566, chủ nghĩa tư bản Hà Lan phát triển
nhanh chóng, Hà Lan trở thành một cường quốc thương mại. Năm 1595 thương nhân Hà
Lan đã tổ chức ra “Công ty buôn bán” với hạm thuyền gồm 4 chiếc thuyền dưới sự chỉ
huy của Coneli Hutman. Tháng 6-1595, đoàn thuyền này cũng đã đến Java, đã mở ra con
đường chinh phục Indonesia của người Hà Lan. Công ty thiết lập thủ phủ tại Batavia (nay
là Jakarta), và thành phố này đã trở thành trung tâm của mạng lưới kinh doanh tại châu Á
của Công ty Đông Ấn Hà Lan.
Năm 1605, V.O.C đã đánh chiếm được Ambonia và sau đó là Tidore từ tay người
Bồ Đào Nha. Vào năm 1607, sau khi chinh phục được Tornate V.O.C đã ký với Tornate
hiệp ước trong đó có quy định việc cho phép người Hà Lan được độc quyền mua hương
78

/>9
/>
10


liệu. Năm 1609, V.O.C đã có thủ đoạn là mua chuộc lãnh chúa Giacacta để được xây
dựng thương điếm, các công trình nhằm phục vụ cho việc định cư đồng thời họ cũng tự
động xây dựng cả pháo đài, trước tình hình đó lãnh chúa Bantam đã kêu cứu tới người
Anh, biết được điều đó người Hà Lan đã ngay lập tứ trút giận lên người bản xứ bằng cách
“Tàn phá thành phố và xây dựng đồn trú, nhà cửa của mình. Sau khi chiếm được một số
đảo quan trọng nhất là Giacacta, công ty V.O.C bắt đầu xúc tiến chinh phục Mataram và
Bantam, đây là hai vương quốc hùng mạnh nhất của bán đảo Indonesia, ngoài ra Bantam

được coi là yết hầu của con đường thông thương tới Trung Quốc và Đông Dương.
Trong thời gian nắm quyền Jan Pieterszoon Coen được coi là người sáng lập ra
Bativia. Trong thời gian cầm quyền của mình, Coen không mở rộng mấy phạm vi lãnh
thổ tại Indonesia, ông không thể gạt bỏ được các đối thủ của mình trong việc tranh giành
quyền buôn bán tại đất nước hải đảo này. Tuy nhiên, trong thời gian nắm quyền, ông cũng
đã có những quan hệ buôn bán với Miễn Điện, Xiêm và Đại Việt. Sau khi hết nhiệm kỳ
của mình từ năm (1629-1636), ông phải nhường chức toàn quyền cho Antoie Van Diemen
(1636-1945).
Trong thời gian Antoie Van Diemen lên nắm quyền (1636-1945), ông được đánh
giá rất cao. Trong thời gian cầm quyền ông đã làm cho đế quốc Hà Lan thịnh vượng tại
vùng đất này. Ông đã mở rộng địa bàn hoạt động buôn bán tại đây, cho xây dựng những
lâu đài, tòa thị chính, trường học dạy tiếng Latinh… biến nơi đây thành khu vực định cư
lâu dài của người Hà Lan.
Người kế nhiệm tiếp theo là Van Der Lijn đã đạt được thỏa thuận với tiểu vương
quốc Agung trong việc buôn bán của mình tại vùng đất này và đổi lại công ty hàng năm
phải cử người đến thăm Mataram, đồng thời cho phép người dân Java được tự do buôn
bán tại khu vực Molucca. Trong thời gian này Hà Lan đã thi hành chính sách “mua rẻ bán
đắt” và ngoài ra còn kiểm soát chặt việc sản xuất và buôn bán cây hương liệu với mục
đích là loại bỏ những đối thủ của mình, chính vì thế mà họ đã gặp phải sự phản kháng của
người dân bản xứ.
Từ năm 1653-1678 Johan Maetsuyker lên nắm chức toàn quyền. Trong thời gian
11


cầm quyền ông đã không ngừng chinh phục các vùng đất Indonesia như Makassar (vùng
đất mà Van Diemen khao khát) và hầu như các quần đảo tại Miền Đông Indonesia nằm
trong tay người Hà Lan. Ông đánh chiếm được Palembang và chiếm đặc quyền mua hồ
tiêu tại đây.
Sau khi bẻ gãy sự phản kháng ở khu vực Molucca năm 1656 và sau khi đã đuổi
người Tây Ban Nha ra khỏi Tidore thì người Hà Lan đã làm chủ hoàn toàn Molucca. Năm

1660, thành công trong việc trục xuất người Bồ Đào Nha ra khỏi lãnh địa của mình.
Những điều khoản mà Hà Lan đưa ra đã không được Makassar thực thi nghiêm túc, dẫn
đến năm 1666 Maetsuyker cho người đến trừng trị Makassar đó là Speelman. Speelman
đã tiến đánh Tidore, tại đây Tidore đã thừa nhận quyền minh chủ của người Hà Lan và bắt
Tidore xóa bỏ cuộc tranh chấp lâu đời với Ternate. Sau khi tăng viện từ Ternate,
Speelman đã quay sang Celebes và thực hiện nhiệm vụ khó khăn là khuất phục Makassar.
Cuối cùng ngày 18-11-1667 hiệp ước Bongaya được ký kết theo đó, Makassar đã phải
công nhận quyền minh chủ Hà Lan đồng thời phải bồi thường chiến phí cho Hà Lan, hơn
nữa tại đây Hà Lan còn có quyền chiếm pháo đài. Sau khi Johan Maetsuyker qua đời,
người kế nhiệm của ông là Rijklof Van Goens và Speelman đã có những chính sách cứng
rắn để chinh phạt những vùng đất mới và với những vùng đất mà họ đã chiếm được.
Công ty V.O.C đã kiểm soát được tất cả các hải cảng ở phía bắc Java, nhờ đó Hà
Lan đã bắt đầu vươn tới được Tây Java, Semarang và các vùng chung quanh. Tính chung
từ năm 1623-1684 người Hà Lan đã làm chủ được vùng đất rộng lớn của Indonesia.
Năm 1684, Speelman qua đời, người kế nhiệm ông là Johannes Camkhuys (16841691), ông là một người uyên bác, không hiếu chiến. Chính vì lẽ đó ông đã đưa công ty
V.O.C trở thành thế lực chính trị to lớn ở Indonesia. Trong thời gian nắm quyền, ông đã
tích cực tham gia vào việc bảo vệ triều đình, dẫn tới nhiều cuộc chiến tranh xảy ra mà có
sự tham gia của Công ty, tuy nhiên theo thỏa thuận chi phí cho cuộc chiến này do triều
đình bỏ ra đền bù cho những tổn thất của Hà Lan vì Hà Lan là đồng minh.
Cùng với việc xâm chiếm đất đai của người bản xứ đồng thời tham gia vào các
cuộc chiến nội bộ tại bán đảo này đã làm tổn thương cho tinh thần dân tộc người địa
12


phương, điều đó dẫn tới những mối thù giữa người Indonesia và người Hà Lan, nhiều
cuộc khởi nghĩa đã nổ ra để chống đối chuyên quyền của người Hà Lan, như phong trào
của người Hồi giáo tại Indonesia, đặc biệt trong trào lưu đó có cả các thủ lĩnh Bantam và
tiểu vương của Mataram, ngoài ra còn có những người trước kia làm việc cho người Hà
Lan nhưng do bất mãn đã khởi binh chống lại người Hà Lan tiêu biểu là Surapati, nhân
vật này đã làm cho người Hà Lan phải mất ăn mất ngủ. Surapati và những đồng nghiệp

của ông sau một thời gian đã chiếm lĩnh và làm chủ vùng nông thôn phía Nam của
Batavia, cuối cùng cuộc khởi nghĩa này đã thất bại.
Với việc thu lợi từ những cuộc tranh giành vương quyền, VOC đã ép các vị vua kế
nhiệm dưới sự giúp đỡ của mình phải ký các yêu sách về việc kiểm soát buôn bán tại nơi
đó và buộc quốc vương nhượng bộ lãnh thổ.
Năm 1749, trước khi mất, vua ở Mataram mất, ông đã đã ký hiệp ước trao toàn bộ
chủ quyền của Mataram cho công ty V.O.C với điều kiện công ty phải đưa con trai ông
lên làm vua. Tuy nhiên, điều này vấp phải nhiều phản kháng từ một số thủ lĩnh nên đã xảy
ra chiến tranh tại đây. Trong lúc Hà Lan đang chiến tranh tại Mataram, thì tại Bantam do
tranh chấp nội bộ người Hà Lan lại phải can thiệp. Cuối cùng năm 1752 người Hà Lan
cũng đạt được thỏa thuận với tiểu vương ở đây, theo đó Vua ở đây công nhận quyền minh
chủ của công ty V.O.C và nhường cho công ty kiển soát Lampong. Và hiệp ước này đến
năm 1753 mới được thực thi tại Bantam do Hà Lan phải chinh phục những người chống
đối tại đây. Từ năm 1749 đến năm 1753, VOC đã làm chủ được hai tiểu vương quốc là
Bantam và Mataram thì Hà Lan xem như đã làm chủ được tình hình Java, trừ lãnh thổ ở
phía Đông của hòn đảo vẫn bị người Bali quấy nhiễu nhưng tình hình tại đây cũng được
ổn định vào năm 1772.
Tính đến trước khi công ty V.O.C Hà Lan đóng cửa vào 31-12-1799, người Hà
Lan hầu như là làm chủ được Indonesia. Hà Lan chiếm được các đảo Java, Palembang,
Bangiamaxin, Macaxa, Menadon, Tecnate và một số khu vực khác nữa.
Kể từ khi chiếc tàu Hà Lan đầu tiên tiến đến vào cuối thế kỷ thứ 16, cho đến năm
1799, mặc dù đảo Java do người Hà Lan thống trị, song nhiều khu vực khác vẫn duy trì
13


được độc lập trong phần lớn thời kỳ này, bao gồm: Aceh, Bali, Lombok và Borneo. Có rất
nhiều cuộc chiến tranh và xáo trộn đã diễn ra khắp quần đảo khi các dân tộc bản địa khác
nhau chống lại nỗ lực thiết lập quyền bá chủ của người Hà Lan, quyền kiểm soát của Hà
Lan bị suy.


2.2.

Sự ảnh hưởng của V.O.C đối với Indonesia trong: kinh tế, văn hoá, xã hội,

chính trị
Đối với thực dân phương Tây quần đảo Maluku là một hòn đảo phong phú gia vị.
Chính vì thế, thực dân phương Tây luôn dòm ngó và muốn sở hữu hòn đảo gia vị này.
Trước đây, hai Sultanat hùng mạnh nhất ở Maluku trong thế kỷ XV là Tidore và Terate,
vốn chiếm vai trò quan trọng trong buôn bán gia vị 10. Nhưng khi có sự thâm nhập của
thực dân phương Tây, với những vũ khí hiện đại, quyền độc chiếm gia vị của hai vị vua
này không còn như thế nữa. Đầu tiên là thực dân Bồ Đào Nha giành quyền độc chiếm từ
tay Sultanat Ternate. Sau đó là thực dân Anh qua hình thức Công ty Đông Ấn (East India
Company) và tiếp đến là thực dân Hà Lan mà tiêu biểu là công ty Đông Ấn Hà Lan
(Vereenigde Oost-Indische Compagnie).
Như đã nói ở trên, V.O.C chỉ là hình thức cho việc hợp thức hoá sự xâm lược bành
trướng lãnh thổ ở thức dân Hà Lan ở Indonesia. Trong vai trò của quốc gia xâm lược,
thực dân Hà Lan nói chung và V.O.C nói riêng cũng đã đưa ra những chính sách cai trị hà
khắc và yêu sách bóc lột thẳng tay đối với nhân dân Indonesia. Cũng chính vì lý do đó,
đời sống của nhân dân Indonesia lúc bây giờ rất khắc nghiệt và cơ cực. Sự góp mặt và can
thiệp của thực dân Hà Lan cũng đã làm cho Indonesia bi ảnh hưởng không chỉ trong thể
chế chính trị mà còn về những lĩnh vực khác.
2.2.1. Kinh tế- Xã hội
2.2.1.1. Kiểm soát cảng biển và xây dựng thành luỹ để phục vụ cho việc
10

TS.Huỳnh Văn Tòng (1992), Lịch sử Indonesia (Từ TK XV-XVI đến những năm 1980), Thành phố Hồ Chí Minh,
Bộ giáo dục đào tạo Viện đào tạo mở rộng, trang 12

14



độc quyền thương mại
“Năm 1619, Hà Lan chiếm hầu quốc Jakarta mà họ đổi tên thành Batavia. Hà Lan
muốn biến nơi đây thành trung tâm mua bán hương liệu đang do người Anh khống chế.
Vì lẽ đó, Batavia mau chóng trở thành trung tâm quyền lực của người Hà Lan ở Đông
Nam Á”11. Ngoài ra, công ty còn sử dụng hạm đội hùng mạnh của mình để khống chế các
vùng biển của quần đảo Maluku. Vì thế, việc công ty có thể làm chủ việc buôn bán hương
liệu ở quần đảo Maluku và Banda là điểu hiển nhiên. Trong khoảng 20 năm cuối thế kỷ
XVII, công ty mở rộng lãnh thổ, lấn sâu vào vùng lãnh thổ Java. Lý do là vì quan hệ giữa
công ty và Ấn Độ bị sa sút nên muốn mở rộng thương mại nông nghiệp với Java. Đặc biệt
vào thời kỳ này, hồ tiêu của Java được các nước phương Tây rất ưa chuộng nên muốn tập
trung vào khai thác tiềm năng này. Song, bên cạnh đó, chủ trương độc quyền hương liệu
vẫn khiến V.O.C thẳng tay đốt sạch những hạt hồ tiêu dư thừa.
Việc xâm lược Indonesia cũng làm tiêu tốn khá nhiều thời gian và tiền bạc của Hà
Lan. Bởi vì Hà Lan phải đầu tư nhiều các trang thiết bị và vũ khí hiện đại để phục vụ cho
sự xâm lược của mình. Theo một góc độ tích cực thì chính nhờ sự xâm lược này của Hà
Lan mà Indonesia mới có thể có cơ hội tiếp cận với những vũ khí hiện đại như thế. Và có
thể nói đây là một bước đệm nhỏ cho sự phát triển của Indonesia vào giai đoạn hiện đại.
2.2.1.2. Chế độ độc quyền mua bán sản phẩm địa phương
“Công ty đã thi hành chế độ “Hongitoch” theo đó người bản xứ chỉ được phép
trồng các loại cây gia vị đã được quy định trên một đảo nhất định, với một khối lượng hạn
chế. Sản phẩm dư thừa sẽ bị huỷ sạch” 12. Đối với chế độ độc quyền này, chế độ trồng trọt
của Indonesia đã chịu rất nhiều biến động. Chính phủ Hà Lan luôn muốn nông dân
Indonesia canh tác một lượng lớn các loại cây gia vị để xuất sang các nước phương Tây
khác. Song, lượng sản phẩm dư thừa thì Hà Lan vẫn không trả thêm tiền công cho nông
dân. Nghĩa là công sức của người nông dân và số tiền lương nhận lại không cân xứng.
11

TS.Huỳnh Văn Tòng (1992), Lịch sử Indonesia (Từ TK XV-XVI đến những năm 1980), Thành phố Hồ Chí Minh,
Bộ giáo dục đào tạo Viện đào tạo mở rộng, trang 15

12
TS.Huỳnh Văn Tòng (1992), Lịch sử Indonesia (Từ TK XV-XVI đến những năm 1980), Thành phố Hồ Chí Minh,
Bộ giáo dục đào tạo Viện đào tạo mở rộng, trang 25

15


Chính vì sự bóc lột nặng nề đó, tầng lớp nông dân của Indonesia lúc bấy giờ nếu không bị
tổn thương về thể chất thì cũng đối mặt với nạn đói triền miên và sự chết chóc thương
tâm.
Từ cuối thế kỷ XVIII, công ty tập trung chú ý vào quần đảo Java thì độc quyền
mua bán không hẳn là một chế độ nữa. Lúc bấy giờ, nó trở thành một hình thức bóc lột
gián tiếp lẫn trực tiếp. Hình thức bóc lột chủ yếu là leveringen, kontigenten, hierendiensten. Trong đó, hình thức Leveringen có ảnh hưởng nhất. Nó buộc các phong kiến địa
phương vẫn còn độc lập giao nộp những sản vật nhất định theo giá công ty quy
định.Chính nhờ chính sách này mà công ty không cần can thiệp quá sâu vào nội bộ của
Indonesia mà vẫn có thể thu lợi về cho bản thân.
Ảnh hưởng tích cực từ chế độ này đối với Indonesia là hương liệu được quảng bá
rộng rãi và trở thành những sản phẩm bán chạy đối với thị trường các nước phương Tây.
Song bên cạnh đó, do thực dân Hà Lan muốn sản xuất ra một lượng lớn nguyên liệu nên
đã sử dụng đến các trang thiết bị công nghiệp tiên tiến và hiện đại. Chính vì thế nên có thể
nói, nông dân ở Indonesia từ sớm đã có cơ hội tiếp cận với máy móc hiện đại. Và nông
dân Indonesia cũng có cơ hội tiếp cận với các quy định về tiêu chuẩn chất lượng của hàng
hoá xuất khẩu.
2.2.2. Văn hoá - Giáo dục
2.2.2.1. “Chính sách đạo đức”
“Mục tiêu của chính sách này là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho chính sách bóc lột
bằng phương pháp đế quốc chủ nghĩa của tư bản tài chánh và đồng thời nhằm giảm thiểu
mâu thuẫn giữa nhân dân Indonesia và chủ nghĩa của đế quốc Hà Lan” 13. Chính sách này
chú trọng vào việc tạo điều kiện cho người bản xứ học tiếng Hà Lan. Nhưng cũng chính
vì có chính sách này mà nhân dân Indonesia có cơ hội tiếp xúc với các dòng tư tưởng của

dân chủ phương Tây. Điều này góp phần tạo cho nhân dân có thêm trách nhiệm và nhận
thức trong việc tiên phong cho phong trào đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Và chính
13

TS.Huỳnh Văn Tòng (1992), Lịch sử Indonesia (Từ TK XV-XVI đến những năm 1980), Thành phố Hồ Chí Minh,
Bộ giáo dục đào tạo Viện đào tạo mở rộng, trang 43

16


sách này cũng là một trong những lý do làm cho làn sóng đấu tranh giải phóng dân tộc
của Indonesia ngày càng được lan rộng.
Ảnh hưởng cho việc xâm nhập trong một thời gian khá lâu của chủ nghĩa thực dân
là làm cho các nền văn hoá bản xứ lâu đời của Indonesia bị lai căn. Dẫn chứng là sự
truyền bá đạo Tin lành từ chủ nghĩa thực dân. Có thể nói, tôn giáo Tin lành lúc bấy giờ
được truyền bá cho nhân dân Indonesia là qua hệ thống chữ viết. Ngoài ra, các lĩnh vực
như ẩm thực, trang phục, âm nhạc,… của Indonesia thời bây giờ cũng bị ảnh hưởng bởi
thực dân Hà Lan.
2.2.2.2. Giáo dục
Sự xâm nhập của chế độ thực dân vào một khoảng thời gian khá lâu cũng làm ảnh
hưởng đến hệ thống chữ viết và bảng chữ cái của Indonesia. Và chính sự xâm nhập lâu
dài này cũng được coi như sự mở đường cho việc xâm nhập lần thứ hai của thực dân Hà
Lan. Vì vậy nên thực dân Hà Lan đã làm xuất hiện một hệ thống giáo dục mới trong xã
hội Hà Lan. Hà Lan cũng cho thành lập một số cơ sở giáo dục bậc đại học. Năm 1898,
chính quyền Hà Lan đã thành lập một trường để đào tạo bác sĩ. Nhiều người tốt nghiệp từ
trường này, sau đó đã đóng vai trò quan trọng trong phong trào dân tộc của Indonesia
cũng như phát triển giáo dục.Bên canh đó, chính quyền Hà Lan cũng cho thành lập một
học viện kỹ thuật vào năm 1920 để đáp ứng nhu cầu về trang thiết bị kỹ thuật tại thuộc
địa. Sukarno, Tổng thống đầu tiên của Indonesia đã tốt nghiệp học viện này, sau đó đã
lãnh đạo Cách mạng Quốc gia Indonesia. Cuộc cách mạng này đóng vai trò quan trọng

trong việc giành lại độc lập từ tay các nước thực dân đối với Indonesia.
Bên cạnh đó, Hà Lan cũng thiết lập một chế độ mới trong lĩnh vực giáo dục mà ở
đó, phụ nữ được quyền đi học. Trước đây, vào thời của các vương triều, phụ nữ ở
Indonesia chỉ được phép ở nhà lo việc đồng án. Nhưng khi có sự xuất hiện của V.O.C,
phụ nữ ở Indonesia được quyền tham gia vào giáo dục. Điều này được coi như là một
bước cải tiến có hiệu quả trong công cuộc đấu tranh bình đẳng giới của Indonesia. Hệ
thống giáo dục tại địa phương vào thời này, bao gồm cả hệ thống giáo dục pháp luật đã
17


được cải cách và đổi mới. Đây có thể coi là sự ảnh hưởng tích cực từ sự tương tác giữa
Indonesia với hệ thống thuộc địa Hà Lan.
2.2.3. Chính trị
Sự tồn tại của V.O.C được xem như một cá thể quốc gia đặc biệt do có đầy đủ các
quyền hành về chính trị như:
• Có quyền ký kết các thỏa thuận với vua vì thế mà các vương triều hùng mạnh và
độc lập của Indonesia dần dần bị ảnh hưởng, dẫn đến quá trình suy vong do sự can
thiệp mạnh mẽ của thực dân Hà Lan. Song bên cạnh đó, nền công xã nông thôn ở các
làng quê của đảo Java vẫn giữ nguyên được cấu trúc của mình. Nguyên nhân là do
chính quyền thực dân không phải thiên về chế độ của nhà nước mà là thiên về quyền
lợi thương nhân để đạt được thu nhập cao.
• Thực hiện phân chia et impera (chia để trị) nhằm kiểm soát các vương quốc ở
Indonesia để dễ dàng đàn áp, cai trị, đảm bảo lợi ích chỉ thuộc về V.O.C và người Hà
Lan mà không phải là bất cứ một người thương nhân đến từ nước khác.
• Có quyền thành lập một quân đội riêng, và quân đội này thực hiện mọi yêu cầu đến
từ V.O.C phục vụ lợi ích cho công ty này, đó là đàn áp các cuộc khởi nghĩa hòng
chống lại chính sách của công ty. Như ngày 11-3-1621, lấy lí do người dân đảo Banda
bán nhục đậu khấu với giá cao cho thương nhân nước ngoài mà Côen đã phát lệnh
trừng phạt, và một cuộc chiến đẫm máu đã diễn ra ở Banda, không dưới 15.000 người
bị giết.

• Đưa ra hàng loạt các chính sách về thương mại như định giá bán cho hương liệu,
gia vị để thu mua rẻ bán giá cao, cắt giảm hương liệu hay cây gia vị mà không hề bồi
thường, cấm bán sản phẩm cho thương nhân khác ngoài thương nhân Hà Lan, cướp
đất, bắt buộc trồng cây công nghiệp như cà phê, chàm,… nhằm mục đích giữ vững
độc quyền buôn bán hương liệu và gia vị của mình. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự
khó khăn và cực khổ của người dân Indonesia đồng thời chính các chính sách này
18


cũng mang đến cho người dân viễn cảnh chiến tranh dai dẳng giữa các vương quốc với
quân đội Hà Lan, giữa quân đội Hà Lan với các cuộc nổi dậy của người dân Indonesia.
• Quyền thành lập pháo đài nhằm kiểm soát và mang hình thức cảnh cáo đối với các
vùng đất nằm trong sự cai quản của V.O.C.
• V.O.C cũng được coi là nền tảng để Chủ nghĩa Mác-Lênin được du nhập và được
truyền bá vào Indonesia. Đây cũng là bước đệm cho việc hình thành Đảng Cộng sản
Indonesia (PKI), Đảng Cộng sản đầu tiên ở Đông Nam Á.
3. Sự suy vong của V.O.C
3.1. Quá trình suy vong
Công ty Đông Ấn Hà Lan là một công ty buôn bán quan trọng trên thế giới suốt hai
thập kỷ qua (1602 – 1799). Đây là một trong những công ty đa quốc gia đầu tiên trên thế
giới có tầm ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế cũng như nền kinh tế của các
quốc gia vùng Đông Nam Á.
Ngoài mục đích chính là kinh doanh, Công ty Đông Ấn Hà Lan còn mở rộng diện
tích bằng cách đi chinh phạt mở rộng thuộc địa. Trong suốt hai thập kỷ, V.O.C đã xây
dựng lên những cảng biển giao dịch mới và bảo vệ lợi ích, quyền lợi của họ thông qua
việc bành trướng, xâm chiếm thêm lãnh thổ. Tuy nhiên do nhiều lý do bên trong cũng như
bên ngoài tác động, công ty Đông Ấn Hà Lan đã sụp đổ vào cuối năm 1799.
Vào khoảng thế kỷ XVII VOC bắt đầu tham gia nhiều cuộc chiến từ nội bộ của các
vương quốc Indonesia cho đến các cuộc chiến tranh giành thuộc địa với các nước Châu
Âu ở Đông Nam Á vì thế mà công ty phải chi trả phí tổn cho các cuộc chiến đang diễn

ra, mặc dù sự chinh phạt này của VOC góp phần giúp Hà Lan xác định chủ quyền thuộc
địa nhưng lại gây ra nhiều tổn thất nặng nề, làm cho công ty V.O.C bị thâm hụt ngân sách
với khoản nợ lên tới 134 triệu guider.
Từ năm 1780 đến năm 1784, chiến tranh dai dẳng với Công ty Đông Ấn Anh trong
việc tranh giành quyền mua bán ở đảo Sumatera. Sau sự việc đó, sức mạnh của Công ty
19


Đông Ấn Hà Lan đã ngày càng suy giảm, người Anh đã chiếm được cơ sở của Hà Lan tại
Tây Sumatra và còn được tự do buôn bán tại Indonesia.
Đồng thời do sự quản lý yếu kém, tham nhũng trong nội bộ công ty và mặc
dù thâm hụt nhưng VOC vẫn phải chia lợi nhuận kinh doanh cho các cổ đông, chính
những điều này đã làm VOC ngày càng suy yếu và chính thức tan rã vào cuối năm 1799.
và các thuộc địa do nó sở hữu tại quần đảo Indonesia (phần lớn Java, nhiều phần
Sumatra, phần lớn Maluku và các vùng đất cảng như Makassar, Manado và Kupang) bị
Cộng hòa Hà Lan quốc hữu hóa và trở thành Đông Ấn thuộc Hà Lan.
Tóm lại trong thời kỳ công ty V.O.C cầm quyền với danh nghĩa là một công ty tư
nhân đã đi xâm lược các quốc gia Đông Nam Á, họ cũng đã bước đầu xác lập được chủ
quyền về thuộc địa cho đế quốc Hà Lan, tuy nhiên với mức chi phí quá lớn cho những
cuộc chiến tranh nhằm xác lập chủ quyền của mình tại các quốc gia Đông Nam Á, đặc
biệt là tại Indonesia đã làm cho công ty này bị thâm hụt ngân sách và cuối cùng công ty
cũng phải đóng cửa.

3.2. Đánh giá hậu quả của V.O.C đến Indonesia sau này14
Mặc dù trên danh nghĩa là một công ty tư nhân nhưng thực ra V.O.C là một bộ
phận của chính phủ Hà Lan, thay quyền chính phủ hoạt động bên ngoài thông qua thương
mại. Chính điều đó đã mang đến cho công ty này những quyền lực rất mạnh về nhiều mặt
như chính trị, kinh tế, kể cả quân sự, vì thế trong khoảng thời gian gần 200 năm có mặt và
nắm giữ hầu như mọi quyền hành về buôn bán cũng như thay chính phủ Hà Lan chiếm
đóng, kiểm soát Indonesia đã góp phần giúp Hà Lan biến nơi đây thành thuộc địa của

14

PSG.TSKH Trần Khánh, viện Khoa học xã hội Việt Nam Viện nghiên cứu Đông Nam Á (2012), Lịch sử Đông

Nam Á tập IV, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội
PTS. Ngô Văn Doanh (1995), Indonesia những chặng đường lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội
D.G.E.Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, NXB chính trị quốc gia HàNội
/>
20


mình. Trải qua các quá trình từ khi hình thành vào năm 1602 đến khi đóng cửa vào năm
1799, V.O.C đã có mang đến cho vùng đất Indonesia rất nhiều khó khăn và bên cạnh đó
cũng có rất nhiều lợi ích từ đất nước tư bản này.
Về mặt tiêu cực, thì trong quá trình tiến hành chiếm đóng và độc quyền buôn bán ở
Indonesia V.O.C đã đưa ra nhiều luật lệ như đánh thuế cao với các mặt hàng nước ngoài,
ưu tiên hàng của Hà Lan nhằm ngăn cản việc mua bán các loại hương liệu và gia vị ở
Indonesia với các thương nhân khác đặc biệt là đối thủ của Hà Lan, tùy ý định giá cho các
mặt hàng để có thể thu mua hàng hóa với giá thấp nhưng bán lại với giá cao ở thị trường
Châu Âu, họ còn chiếm cứ đất đai, buộc người dân trồng cây công nghiệp có lợi nhuận
cao cho VOC và đất nước Hà Lan như cà phê, chàm,…ngoài ra, năm 1650, họ còn hạ
lệnh triệt phá những nơi trồng hương liệu như hồ tiêu và nhục đậu khấu trên vùng
Molucca với mục đích triệt hạ sự cạnh tranh buôn bán do hương liệu với số lượng nhiều
thu hút các tay thương nhân nước ngoài tìm cách thu mua với giá cao tại nơi đây khiến
VOC mất đi độc quyền mua bán. Chính sự việc này đã phá hủy nguồn sống chủ yếu của
người dân làm cho người dân nơi đây sống trong hoàn cảnh khó khăn, nghiêm trọng hơn
là từ một đảo hương liệu Molucca đã biến thành vùng đất nghèo nàn, tan hoang cho đến
nay, 100 năm đã qua mà Molucca vãn còn là vùng đất có nền kinh tế chậm phát triển của
Cộng Hòa Indonesia.
Bên cạnh đó, V.O.C còn cấu kết với các lãnh chúa cùng nhau đàn áp, bóc lột

người dân, bắt họ phải phá bỏ hoa màu, lúa để trồng các loại cây công nghiệp như cà phê,
chàm,… dẫn đến sự khan hiếm về đất trồng lúa, thiếu lúa gạo trầm trọng làm cho người
dân trở nên đói kém, đời sống khó khăn nhưng vẫn phải lao động cho bọn quý tộc và thực
dân, thậm chí chúng còn trắng trợn cướp đất của người dân, kiểm soát đất đai, đánh thuế
cao. Và nếu như có bất kỳ hình thức chống trả nào, người dân sẽ bị đàn áp vô cùng dã
man điển hình là cuộc nổi dậy của người Hoa ở Batavia năm 1740, dưới sự đàn áp đẫm
máu của Hà Lan khiến hơn 10,000 người Hoa bị bêu đầu trên khắp đường phố Batavia.
Và các cuộc khởi nghĩa của Taruno Joyo, Surapati,… dù có những thắng lợi nhưng cuối
cùng đều bị đàn áp và thất bại.
21


Năm 1749, V.O.C tìm cách chiếm Mataram, và chia vương quốc này thành 2
vương quốc nhỏ là Solo và Jogyakarta, cả hai đều phụ thuộc vào V.O.C nhưng lại luôn bị
xúi giục gây chiến với nhau.
Chính những yêu sách và sự độc đoán của VOC đã làm cho Indonesia trở nên
nghèo đói, chiến tranh triền miên và các chính sách về đời sống xã hội không được quan
tâm dẫn đến sự giảm dân số và các hoạt động cướp biển tăng cao trên vùng đất đã từng rất
thịnh vượng.
Với những hình thức và chính sách đàn áp ấy, V.O.C thu về không ích lợi nhuận
cho mình, cho nền sự phát triển nền công nghiệp ở Hà Lan và đặc biệt là phục vụ cho
những cuộc chiến của Hà Lan với các nước tư bản khác như Anh, Bồ Đào Nha,…
Bên cạnh những khó khăn mà V.O.C đã mang lại cho Indonesia, thì sự xuất hiện
của công ty đến từ Châu Âu này cũng mang đến cho Indonesia nhiều lợi ích đáng kể.
Về mặt tích cực, thì sự khai thác của V.O.C không chỉ góp phần làm nên công
nghiệp của Hà Lan phát triển hơn mà nó cũng đặt nền móng cho sự phát triển nền công
nghiệp sau này của cộng hòa Indonesia, sự chiếm đất và ép buộc trồng cây nông nghiệp
của V.O.C đã mang đến vùng đất này các loại cây công nghiệp như cà phê, trà, thuốc lá,
cao su,… cùng những kỹ thuật tiên tiến của nền công nghiệp tư bản khiến cho người dân
nơi đây thành thạo với việc sử dụng thiết bị tiên tiến và quen với chất lượng xuất khẩu

cao ở Châu Âu, biến Indonesia thành nơi giao thương bậc nhất của Đông Nam Á trong
thời kỳ này.
Đồng thời trong khoảng thời gian chiếm đóng Indonesia, nhất là thời kỳ Van
Diemen là thống đốc, ông đã cho xây dựng lâu đài, tòa thị chính, 1 trường dạy tiếng
Latinh, 1 nhà thờ theo kiến trúc Hà Lan… V.O.C cũng chú trọng rất nhiều đến nâng cấp
cơ sở hạ tầng các cảng và giao thông, các công trình mang kiến trúc Hà Lan vẫn còn tồn
tại nhiều trên đất Indonesia cho đến ngày nay. Chữ viết Hà Lan cũng ảnh hưởng đến chữ
viết Indonesia như một số từ hiện nay vẫn còn hơn 10.000 từ mượn gốc tiếng Hà Lan như
từ buku ( nghĩa là cuốn sách),…
22


Hệ thống giáo dục tại địa phương, bao gồm cả hệ thống giáo dục pháp luật ở
Indonesia đã có kinh nghiệm về cải cách và đổi mới đây là kết quả của sự tương tác giữa
các quốc gia với nhau bởi hệ thống thuộc địa của Hà Lan.
Trong thời kỳ công ty V.O.C cầm quyền với danh nghĩa là một công ty tư nhân đã
đi xâm lược các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Indonesia,đã bước đầu xác lập chủ
quyền về thuộc địa cho đế quốc Hà Lan, tuy nhiên với mức chi phí quá lớn cho những
cuộc chiến tranh tranh giành thuộc địa và đặc biệt là tranh giành hương liệu tại Indonesia
đã làm cho công ty này bị thâm hụt ngân sách với khoản nợ lên tới 134 triệu guider( đơn
vị tiền tệ của Hà Lan) và cuối cùng công ty cũng phải đóng cửa vào năm 1799, kết thúc
gần 200 năm thống trị Indonesia, thế nhưng những giá trị cũng như những nỗi đau trong
quá trình chiếm đóng đàn áp của V.O.C luôn tồn tại trong mỗi trang sử của đất nước
Indonesia.

23


KẾT LUẬN
Trải qua 2 thế kỉ tồn tại trên quần đảo Indonesia-quần đảo hương liệu, Công ty

Đông Ấn Hà Lan không chỉ nắm quyền độc quyền về thương mại trên đất nước này, mà
còn có ảnh hưởng vô cùng lớn ở thị trường Châu Âu bởi nguồn lợi về các loại hương liệu
quý mà các quốc gia phương Tây tìm kiếm phần lớn đều được V.O.C khai thác từ
Indonesia và phân phối tại đây. Có thể nói vào lúc bấy giờ, V.O.C đã có tầm ảnh hưởng
nhất định đến thị trường quốc tế cũng như nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Chính vì nguồn lợi nhuận to lớn mà đất nước vạn đảo này mang lại, Indonesia đã
trở thành con mồi của V.O.C cũng như của đất nước Hà Lan. Con người và cả đất nước
Indonesia đã phải chịu sự bóc lột tàn bạo, hứng chịu những chính sách dã man, luôn bị
V.O.C gây chiến liên tục nhằm bành trướng lãnh thổ của mình. Sự khai thác quá mức đã
làm cho Indonesia ngày càng cạn kiệt hương liệu, tài nguyên. Để giờ đây nhiều vùng đất
ở Indonesia đã trở thành vùng đất chết, chúng ta vẫn có thể nhận ra rằng những ảnh
hưởng mà V.O.C để lại vẫn còn tác động lớn đến Indonesia trong các lĩnh vực như: chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Bước đến thế kỉ XXI, nước Cộng Hòa Indonesia với những bước tiến khả quan về
kinh tế, chính trị đã góp phần giúp đất nước Indonesia ngày càng phát triển và có nhiều
triển vọng tại Đông Nam Á hơn, bên cạnh đó Việt Nam và Indonesia hiện đang là đối tác
của nhau trong tổ chức ASEAN, EAC,… chính vì thế việc tìm hiểu về lịch sử và các tác
nhân góp phần tạo nên Cộng Hòa Indonesia sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nước bạn
trong quá trình hợp tác dài lâu mai sau.

24


×