Cơ sở văn hóa Việt Nam
I.
1.
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Hiện nay, nước ta với sự phát triển nhanh chóng và xu thế hội nhập
đã kéo theo những thay đổi ít nhiều về vấn đề văn hóa Việt Nam. Trong đó,
âm nhạc Việt Nam là lĩnh vực có sự thay đổi khá nhiều. Ngày nay, những
bản nhạc dân tộc đặc sắc, những khúc dân ca ngọt ngào của các vùng
miền có lẽ đã dần được thay thế bởi các bản nhạc trẻ, các bản nhạc sôi
động từ nền văn hóa các nước trên thế giới. Bên cạnh sự phát triển âm
nhạc mạnh mẽ đó, với công nghệ hiện đại người ta đã tạo ra rất nhiều các
loại nhạc cụ với tính năng đa dạng, phát ra nhiều âm thanh số khác nhau
để bản nhạc trở nên hay hơn. Một phần không thể thiếu trong âm nhạc,
nhạc cụ không những thể hiện đời sống tinh thần phong phú và đa dạng
của các dân tộc mà qua đó còn thấy được những nét văn hóa riêng, những
quan niệm và cách nghĩ, phong tục và tập quán riêng của họ. Đặc biệt, mỗi
nhạc cụ đều có những âm thanh thú vị, độc đáo, thể hiện những sắc thái
riêng ẩn chứa trong đó là một nền văn hóa đa dạng đã được hình thành
trong suốt một chặng đường dài của lịch sử. Vì vậy, các nhạc cụ dân tộc
nước ta cũng rất cần được bảo tồn, phát huy để duy trì và làm đậm đà
thêm bản sắc dân tộc của nước ta.
Đó là lí do nhóm em quyết định chọn đề tài : “Giới thiệu sáo trúc –
nhạc cụ dân tộc Việt Nam” nhằm giới thiệu đến các bạn một nhạc cụ mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc cũng như góp phần gìn giữ vẻ đẹp, và tôn
vinh văn hóa nước nhà.
2.
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ thực trạng bảo quản và phát huy giá trị các loại
nhạc cụ truyền thống của các dân tộc Việt Nam nhằm củng cố kiến thức về
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
1
Cơ sở văn hóa Việt Nam
nhạc cụ “sáo trúc” mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Đặc biệt,
trước sự du nhập của nhiều loại nhạc nước ngoài, thì yêu cầu bảo vệ và
phát huy giá trị của nhạc cụ dân tộc truyền thống, là một việc làm hết sức
cấp thiết và cần được quan tâm.
Do đó với đề tài này, nhóm chúng tôi nghiên cứu những nội dung cơ
bản sau:
•
•
•
•
•
II.
Nguồn gốc của sáo trúc Việt Nam.
Các loại sáo ở Việt Nam.
Đặc điểm, cấu tạo, nguyên liệu làm sáo ngang.
Giá trị thơ ca gắn liền với cây sáo Việt Nam.
Sáo trúc – nhạc cụ mang đậm bản sắc dân tộc cần được bảo tồn.
KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Nguồn gốc của sáo trúc Việt Nam:
Chưa có tài liệu nào ghi chính xác thời gian xuất hiện nhạc cụ sáo
trúc ở Việt Nam, nhưng cây sáo là nhạc cụ thổi hơi có từ thời kì cổ đại,
được nhiều nước sử dụng với rất nhiều hình dạng, cấu tạo khác nhau.
Thêm vào đó, từ xưa Việt Nam ta có diện tích trồng tre nứa rất lớn vì thế
mà ắt hẳn cây sáo được người Việt Nam sử dụng từ rất lâu đời. Hình chạm
nổi trên phiến đá chân cột chùa Phật Tích (Hà Bắc) xây dựng vào thời Lí
(khoảng thế kỉ thứ XI) đã miêu tả một dàn bát âm cổ, trong đó có người
đang biểu diễn thổi sáo trúc. Cũng có câu chuyện tương truyền rằng: có
người tiều phu vào rừng chặt nứa, thấy con ong đục một cái lỗ trên thân
cây, khi gió thổi vào lỗ đó nó đã phát ra âm thanh réo rắt vui tai, từ đó
người dân đã sáng tạo ra cây sáo bằng việc khoét những cái lỗ trên đoạn
trúc, nứa rồi dùng hơi để thổi và trở thành cây sáo ngày nay.
Từ bao đời nay, sáo trúc đã gắn với đời sống văn hóa tinh thần của
người Việt Nam từ Bắc vào Nam, từ đồng bằng đến trung du. Có thể nói
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
2
Cơ sở văn hóa Việt Nam
rằng sáo trúc là hình ảnh tượng trưng cho đồng quê Việt Nam bốn mùa yên
ả. Nhắc tới sáo trúc Việt Nam người ta liên tưởng ngay đến hình ảnh
những cậu bé mục đồng ngồi trên lưng trâu, thổi khúc nhạc đồng quê ngọt
ngào, hình ảnh này ta thấy nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật như tranh
dân gian Đông Hồ, đĩa sứ Bát Tràng.
2.
Các loại sáo ở Việt Nam:
Nước ta sử dụng rất nhiều loại sáo như :
•
Mèo (hay sáo H’Mông): là nhạc cụ của người H’Mông ở miền Bắc Việt
Nam. Loại sáo làm bằng ống tre nứa như sáo ngang có lam (lưỡi gà)
bằng đồng. Bên dưới cây sáo, gần lỗ thổi có thêm 1 lỗ bấm. Cách thổi
của sáo Mèo khác với sáo thông thường. Sáo Mèo Việt Nam phân biệt
thành 2 loại riêng là sáo Mèo nam và sáo Mèo nữ (sáo Mèo nam có
đường kính ống sáo lớn hơn hẳn sáo Mèo nữ).
Hình 1: Sáo Mèo
Ngày xưa sáo H’Mông chỉ là nhạc cụ độc tấu cho số lượng người nghe
hạn chế. Tuy nhiên nó còn là phương tiện giao duyên hữu hiệu của các
chàng trai đối với con gái trong bản làng. Ngày nay nhiều nghệ nhân đã
tăng cung bậc, âm vực và độ vang của nhạc cụ này để giúp nó có khả
năng hòa tấu với những nhạc cụ khác hay độc tấu có dàn nhạc đệm.
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
3
Cơ sở văn hóa Việt Nam
•
Sáo bầu: Có hình dạng một quả bầu hồ lô với phần đầu dùng để thổi,
phần đáy cắm liền với 3 cây sáo ngắn: một cây thổi chính và 2 cây dùng
để bè, kèm theo đó 3 miếng lưỡi gà. Thân quả bầu đóng vai trò như hộp
âm của cây sáo, bên ngoài có thể được vẽ, khắc trang trí hoa văn. Hai
ống phụ chỉ để tạo hoà âm.
Hình 2: Sáo Bầu
Cũng như các loại nhạc cụ sáo, âm lượng của nó tương đối nhỏ, song
âm thanh của cây sáo chính rất êm dịu, dưới âm nền của hai cây sáo
phụ, khiến người nghe có một cảm giác mang vẻ đẹp kín đáo, mông
lung. Bởi vì âm thanh láy nền của nó mượt mà thướt tha như ̀ tiếng tơ
lụa bay theo chiều gió, cho nên người ta còn gọi Sáo Bầu là “Sáo Bầu
tơ”. Sáo Bầu thường dùng để thổi các bài sơn ca, đặc biệt là sành về
thổi những bản nhạc trôi chảy, giai điệu thường ngân dài, hợp âm phong
phú, âm thanh du dương hài hòa, có thể bày tỏ tư tưởng tình cảm của
người thổi.
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
4
Cơ sở văn hóa Việt Nam
• Sáo dọc (tiêu): Loại sáo dọc này sử dụng đầu ngậm để thổi nên dễ điều
khiển luồng hơi vào thân sáo để phát ra tiếng hơn sáo ngang. Tuy nhiên,
loại sáo này ít được sử dụng phổ biến và đôi khi bị nhầm với tiêu vì
cùng thổi dọc. Điểm khác biệt cơ bản giữa sáo dọc và tiêu là ở kích
thước, chiều dài, lỗ thổi và vị trí các lỗ bấm.
• Sáo ngang của người Kinh
3.
Hình 3: Sáo dọc
Đặc điểm cấu tạo, nguyên liệu làm sáo ngang:
Sáo ngang là loại sáo có 6 lỗ bấm và 1 lỗ thổi, lúc đầu sáo ngang có
6 lỗ bấm cách đều nhau nhưng về sau không còn được sử dụng, thay vào
đó người ta cải tiếng các lỗ bấm sao cho nó nằm ở đúng vị trí theo hệ
thống cung (Do, Re, Mi, Fa, Sol, La, Si). Nguyên liệu chính để tạo nên một
cây sáo trúc có thể là trúc, tre, nứa… những nguyên liệu rất gần gũi, thân
thuộc với người dân Việt Nam. Ngày nay, người ta còn làm sáo bằng
những vật liệu như kim loại, nhựa, thủy tinh, sành sứ,… nhưng âm thanh
tạo ra có lẽ không trong trẻo và mang âm hưởng quê hương như tre trúc.
Sáo ngang Việt Nam khác với sáo Trung Quốc, Nhật Bản, và sáo phương
Tây bởi lẽ cấu tạo của sáo Việt Nam đơn giản hơn rất nhiều vì thế mà âm
thanh của nó rất trong trẻo, ngân nga trầm bổng và đi vào long người một
cách mê hoặc. Căn cứ vào âm thanh mà cây sáo phát ra khi bịt hết các lỗ
bấm mà nó có tên gọi khác nhau (Ví dụ: sáo Sol, sáo La…) và bởi lẽ đó
mà khi người nghệ sĩ biểu diễn bài sáo thường chọn cây sáo phù hợp với
giai điệu bản nhạc. Ngày nay, cây sáo trúc còn được cải tiến với 10 lỗ
bấm, có khả năng thể hiện linh hoạt hơn, đủ mọi loại bài bản, ở các loại
giọng, với âm vực rộng trên hai quãng tám. Nhưng dù cải tiến, cây sáo
mang âm trầm hay cao thì khi tiếng sáo cất lên đều làm cho người nghe
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
5
Cơ sở văn hóa Việt Nam
thấy nhớ nhà, nhớ người thân yêu,
đầu ngõ, nhớ những kỉ niệm đầm vui
những khung cảnh thơ mộng.
nhớ quê hương, nhớ bờ tre
tươi của tuổi thơ, vẽ nên
Sáo trúc không chỉ đơn thuần biễu
diễn độc tấu các bản
nhạc, mà nó còn có thể đệm hát, hòa tấu với
các dàn nhạc cổ
truyền, dàn nhạc nhẹ, nhạc thính phòng. Với âm
giàu màu sắc dân gian sáo trúc không chỉ được
sắc độc đáo,
người
Việt Nam yêu thích mà còn chiếm được cảm tình
của
bạn bè quốc tế.
III.
1.
KIẾN THỨC VẬN DỤNG
Giá trị thơ ca gắn liền với cây sáo Việt Nam
Đối với quê hương Việt Nam, tiếng sáo là âm thanh thân thiết, gần
gũi nhất. Hình ảnh cậu bé ngồi trên lưng trâu thổi sáo giữa cánh đồng
chiều luôn làm những đứa con xa quê chạnh lòng.
“Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi
Bên rừng thổi sáo một hai kim đồng
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn…”
(“Tiếng sáo thiên thai” Thế Lữ)
Và tất nhiên hình ảnh tiếng sáo trúc quê hương cũng đi vào lòng
người qua các bài thơ:
“Lưng trời tiếng sáo trúc bay
Ngân nga trầm bổng đắm say lòng người...
Thiên nhiên ,cảnh sắc mây trời
Hòa trong tiếng sáo trên môi ngọt ngào.
Khi lắng đọng,lúc vút cao.
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
6
Cơ sở văn hóa Việt Nam
Mê ly tiếng sáo...đi sao đành lòng?
Bờ tre nghiêng ngọn vút cong
Vít cơn gió giữa thinh không quay về
Nâng tiếng sao trúc nơi quê
Của người thôn nữ các khuê dịu dàng
Anh nghe tấu khúc mơ màng
Bàn tay em lướt nhẹ nhàng tiếng tơ...
Tấu khúc tha thiết câu thơ
Tiếng lòng ngân mãi bao giờ quên đây...?”
(Thương
Giang)
Không biết từ khi nào cây sáo, tiếng sáo đã gắn liền với đời sống tinh
thần nhân dân Việt Nam, chỉ biết từ ngày xửa ngày xưa đã nghe tiếng sáo
vọng về trong câu chuyện cổ tích bà kể: Từ một câu chuyện mà hầu hết
trong chúng ta, ai cũng đã từng được đọc, được nghe kể: Sọ Dừa. Tiếng
sáo Sọ Dừa chăn trâu, cô con gái út phú ông nghe thấy, bị thu hút và từ đó
dõi theo, đem lòng yêu quý chàng.
Cho đến truyện cổ tích dân tộc Mường: Chàng Sáo nàng Hoa.
Chuyện kể về chàng trai với tài năng thổi sáo, tiếng sáo của chàng có thể
làm lay động cỏ cây vạn vật, lay động cả thánh thần. Cũng vì thế mà chàng
có tên là Sáo. Và chính tiếng sáo ấy đưa chàng đến với số phận bị quan
lang của bản ghen ghét đố kị, bắt làm người ở và hành hạ nhẫn tâm.
Nhưng vì tiếng sáo ấy mà nàng Hoa - con gái quan lang đem lòng yêu
chàng say đắm, dù bị muôn vàn khó khăn cách trở, họ vẫn đến được với
nhau, dìu nhau qua bao giông tố để rồi cùng hóa đá, được bên nhau vĩnh
hằng, tương truyền nơi họ hóa đá, tiếng sáo vi vu vẫn văng vẳng, hay đến
lạ thường.
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
7
Cơ sở văn hóa Việt Nam
Đi từ truyện cổ tích, tiếng sáo là món ăn tinh thần nuôi dưỡng tâm
hồn trẻ thơ. Lớn hơn, ta lại bắt gặp nó trong thơ cổ điển:
“Khói chiều mờ thôn trước thôn sau,
Nửa có nửa không nắng nhạt màu.
Theo còi mục tử, trâu về xóm,
Hai hàng xuống ruộng, cò trắng phau.”
Dịch nghĩa:
Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như khói,
Bóng chiều tà nửa không, nửa có.
Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết,
Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng.
(“Thiên trường vãn vọng” - Trần Nhân
Tông).
Và còn rất nhiều bài thơ khác, đi suốt lịch sử thơ ca Việt Nam, tiếng
sáo vẫn luôn tồn tại như 1 phần không thể thiếu của đời sống tâm hồn Việt.
Không những thế, nó lại còn xuất hiện trong văn chương, sách sử, đó là
tiếng sáo của Trương Lương trên núi Cối kê đã làm xiêu lòng tám nghìn
quân hạng Võ, là tiếng sáo rợ Khương hoang đã hắt hiu, là tiếng trúc của
Cao Việm Ly não nùng bên bờ Dịch Thủy, là khúc Lạc Mai Hoa trong thơ Lý
Bạch, tiếng sáo nổi lên đủ cho hoa mai buồn bã mà rụng xuống đầy sân…
tiếng sáo gọi bạn tình những đêm tự tình mùa xuân, đánh thức bản năng
sống
trong
con
người
Mị
(vợ
chồng
A
Phủ
-
Tô
Hoài).
Đó là về mảng văn học, và tất nhiên cây sáo còn gắn liền với con người
Việt qua nhiều phương diện nghệ thuật khác như âm nhạc: “tiếng sáo diều
tuổi thơ” (Hoàng Thành), “tiếng sáo” (Phạm Minh Tuấn), “cây sáo trúc”
(Thanh Tuấn).
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
8
Cơ sở văn hóa Việt Nam
Nói đến hội họa thì nhớ đến tranh Đông Hồ “chăn trâu thổi sáo”, các
bức tranh đồng quê thường hay xuất hiện hình ảnh những em bé ung dung
thổi sáo trên lưng trâu.
Như vậy, cây sáo, tiếng sáo đã gắn liền với đời sống tinh thần người
Việt từ xa xưa. Xuất hiện nhiều trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật của
dân tộc.
2.
Sáo trúc – nhạc cụ mang đậm bản sắc dân tộc cần được bảo
tồn.
Đối với mỗi dân tộc trên thế giới, âm nhạc truyền thống bao giờ cũng
giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là di sản Văn hóa phi vật thể vô cùng quý
báu, là tinh hoa sáng tạo của bao thế hệ, là cơ sở phát triển nền văn hóa
âm nhạc của mỗi dân tộc trong tương lai. Trong thời đại hiện nay, thời đại
của công nghệ thông tin, thời đại kinh tế thị trường thì vấn đề bản sắc văn
hóa của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia càng giữ vai trò quan trọng hơn bao giờ
hết. Chính vì vậy mà tiếng sáo trúc cũng như các nhạc cụ cổ truyền khác
cần được các thế hệ trẻ ngày nay gìn giữ như giữ gìn một vẻ đẹp tâm hồn
con người Việt Nam.
Phải chăng sáo trúc Việt nam với cấu giản dị thô sơ, đã phản ánh cái
tâm hồn tràm lắng nhiều hoài cảm của một dân tộc nhược tiểu mà lịch sử
là một chuỗi đấu tranh gian khổ, lâu dài với thiên nhiên khắc nhiệt và với
ngoại xâm, đau nhục lê thê mà vinh quang thì ngắn ngủi.
Tiếng sáo vẳng lên là ta đã thấy nhớ nhà, nhớ người thân yêu, nhớ
bờ tre đầu ngõ, nhớ bụi chuối sau vườn, nhớ những kỉ niệm mến thương,
nhớ hồi đầm ấm tươi vui cũng như ngày khổ đau, nước mắt. Tiếng sáo gợi
dậy thời thơ ấu, tiếng sáo vẽ nên những đêm trăng, tiếng sáo gọi hồn
những mối tình dang dở, tiếng sáo làm ta gắn bó với quê hương. Dầu
không được sử dụng bởi đôi bàn tay của người nhạc sĩ lành nghề, tiếng
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
9
Cơ sở văn hóa Việt Nam
sáo của những buổi trưa hè vẳng lên từ khoảng đồng lộng gió, nghe sao
vẫn véo von gợi buồn man mác mơ hồ.
Tiếng sáo khởi lên từ đâu không ai biết. Người nào thổi ta cũng
không hay. Có thể là một chàng nông dân, dưới bóng mát gốc cây hay một
chú mục đồng trên mình trâu đang thả điệu véo von theo từng mây lơ
lửng. Cái hồn sầu Đông Á hắt hiu nhưng dễ dàng cất lên từ những chiếc
sáo tre, sáo trúc của Việt Nam, của Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản hay của
những thổ dân tiểu đảo ven biển Thái Bình Dương mà sáo tây phương
không thể thực hiện được.
Hình 4: Cậu bé thổi sáo trên lưng trâu
Trở lại với quê hương Việt Nam, tiếng sáo là âm thanh thân thiết,
gần gũi nhất với tâm hồn người Việt. Không ai nghe tiếng sáo mà không
bồi hồi. Chơi sáo không mất nhiều tiền, cũng không cồng kềnh bất tiện.
Bất cứ đâu, bên đồng, trong rừng, trên bãi biển, trong khách thính, chỉ cần
nâng sáo lên là đủ hấp dẫn người nghe.
...Hiện nay, sáo trúc đang được các bạn trẻ đón nhận một cách nồng
nhiệt và say mê. Trên cả nước có rất nhiều câu lạc bộ sáo trúc lớn với
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
10
Cơ sở văn hóa Việt Nam
hàng nghìn thành viên tham gia như: câu lạc bộ sáo trúc miền Nam, câu
lạc bộ sáo trúc miền Bắc, câu lạc bộ sáo trúc Đam Săn,... và ở hầu hết các
trường đại học đều có câu lạc bộ sáo trúc của các bạn sinh viên với số
lượng thành viên khá đông. Các bạn trẻ ngày nay không chỉ học cách sử
dụng sáo để thổi nên những bản nhạc êm đềm mà còn học cách chế tạo ra
được cây sáo trúc. Một nghệ sĩ sáo trúc nổi tiếng chia sẽ: “Thấy các bạn trẻ
đam mê, muốn giữ lại hồn của dân tộc, cái đặc trưng của âm nhạc Việt
Nam thì mừng lắm. Vì vậy, ngay bản thân tôi cũng muốn hướng dẫn cho
lớp trẻ để thế hệ này trở thành những sứ giả âm nhạc, giữ lại được cái hồn
cốt của tiếng sáo trúc.” Bấy nhiêu đó cũng đủ thấy những khát khao trong
lòng các nghệ sĩ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung muốn giữ lấy
hồn thiên song nước, giữ lấy nét đẹp văn hóa tự lâu đời.
IV.
KẾT LUẬN
Như vậy, truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử truyền lại,
được các thế hệ sau kế thừa gìn giữ và phát huy trong thời đại của mình,
tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa, trong đó âm nhạc không
thể thiếu trong đời sống của mỗi quốc gia. Cây sáo, tiếng sáo xuất hiện
nhiều trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật của dân tộc, gắn liền với đời
sống tinh thần người Việt từ xa xưa đến nay. Không chỉ sáo trúc mà còn có
các nhạc cụ truyền thống khác đã mang lại âm thanh gợi hồn, véo von.
Chính con người Việt Nam chúng ta mà còn góp phần thiết thực vào việc
giữ gìn sự đa dạng các biểu đạt văn hóa bản sắc dân tộc trong kho tàng
văn hóa thế giới. Đồng thời là một minh chứng sống động về sức sống,
sức lan tỏa của nhạc cụ truyền thống Việt Nam trong dòng chảy hội nhập
của văn hóa thế giới. Trên cơ sở phát huy đó, thế hệ trẻ hiện nay đã được
giữ gìn bản sắc âm nhạc Việt Nam. Chính vì vậy, xu hướng ngày nay ngày
càng phát triển và hội nhập đã kéo theo những thay đổi rất lớn, chúng ta
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
11
Cơ sở văn hóa Việt Nam
cần phải bảo tồn và giữ gìn giá trị âm nhạc đặc sắc văn hóa bản sắc dân
tộc.
V.
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN
• />%E1%BB%A5%29
• />• />• />
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
12
Cơ sở văn hóa Việt Nam
GVHD: TH.S TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU
13