Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Phân tích SWOT của Sắn Việt Nam tại thị trường Nam Phi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.98 KB, 3 trang )

Cơ hội:










Việt Nam có quan hệ thương mại với trên 130 quốc gia, ký kết hơn 100 hiệp định thương
mại song phương và đa phương trong đó có các hiệp định quan trọng như: các hiệp định
của ASEAN nhằm thực hiện AFTA, hiệp định APEC, hiệp định thương mại Việt _ Mỹ.
Đặc biệt ngày 6/11/2006, Việt Nam chính thức thành là viên thứ 150 của tổ chức thương
mại thế giới (WTO). Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển
nhanh và mạnh nền kinh tế của nước ta. Thị trường được mở rộng. Các doanh nghiệp nói
chung sẽ có điều kiện chủ động tham gia chính sách thương mại toàn cầu, những phân
biệt đối xử như hạn ngạch, rào cản được bãi bỏ, các ưu đãi thuế quan đối với hàng nông
sản được thực hiện để phát triển kinh tế, thương mại; hệ thống luật pháp minh bạch, rõ
ràng, dễ thu hút các nhà đầu tư trong nước, ngoài nước tạo điều kiện để phát huy thế
mạnh vốn có của các doanh nghiệp.
Châu Phi nói chung và Nam Phi nói riêng hứa hẹn sẽ trở thành thị trường xuất khẩu chủ
lực đối với nhiều mặt hàng của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5%/năm
và là khu vực giàu tiềm năng về dầu mỏ, khí đốt, công nghệ sinh học, công nghệ hóa
dầu…. Theo thống kê của Bộ Công thương, năm 2010, kim ngạch xuất nhập khẩu 2 chiều
giữa Việt Nam và châu Phi đạt gần 2,6 tỷ USD, năm 2011 là 3,5 tỷ USD. Trong 8 tháng
đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang châu Phi đạt 1,8 tỷ USD.
Châu Phi sản xuất 147 triệu tấn sắn mỗi năm, vẫn là khu vực dẫn đầu sản lượng sắn toàn
cầu với dự báo sản lượng năm 2020 sẽ đạt 168,6 triệu tấn. Sắn chiếm tỷ trọng cao trong
cơ cấu lương thực ở lục địa này với mức tiêu thụ bình quân khoảng 96 kg/người/năm.


Nhu cầu lương thực ngày càng tăng tại Nam Phi. Nhu cầu sắn làm lương thực chủ yếu tại
vùng Sahara Nam Phi ở cả hai dạng củ tươi và sản phẩm chế biến ước tính khoảng 115
triệu tấn, tăng hơn năm 2005 khoảng 1 triệu tấn
Diện tích sắn của Việt Nam dự kiến ổn định khoảng 450 nghìn ha nhưng sẽ tăng năng
suất và sản lượng sắn bằng cách chọn tạo và phát triển các giống sắn tốt có năng suất củ
tươi và hàm lượng tinh bột cao, xây dựng và hoàn thiện quy trình kỹ thuật canh tác sắn
bền vững và thích hợp vùng sinh thái.

Thách Thức:



Với VN thì Nam Phi vẫn là thị trường mới, trong khi đó Nam Phi lại là một thị trường
quen thuộc của nhiều nước khác, do vậy mức độ cạnh tranh thương mại trở nên gay gắt.
Nam Phi hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường thông qua hệ thống các siêu thị bán
buôn, bán lẻ có mạng lưới phủ khắp các vùng miền của Nam Phi. Đó là hệ thống siêu thị
đa quốc gia và hệ thông siêu thị nội địa như: hệ thống Makro, Metro, Woolworth,… hay
Pick n, pay, Spar, Supe spa, Checkers… ổn định từ các kênh thương mại riêng. Điều đó
cho thấy hàng hóa của các nước khác (nếu không phải là bạn hàng truyền thống) mà vào
1|Page









được thị trường Nam Phi là cả một bài toán khó đòi hỏi phải có thời gian, công sức mới

có thể mang lại hiệu quả.
Việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu sẽ có góp phần hạn chế sự phụ thuộc quá nhiều
vào một thị trường truyền thống, có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp Việt Nam bị ép
giá.
Diện tích sắn của Việt Nam khó có khả năng gia tăng trong những năm tới do sự cạnh
tranh của các loại cây khác cũng như do quy hoạch sử dụng đất.
Sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam nói chung kém và hiệu quả kinh tế chưa cao do
chất lượng nông sản của chúng ta chưa thật sự ổn định, giá thành sản xuất vẫn còn cao so
với thế giới; cộng thêm chi phí trung gian khá cao làm cho khả năng cạnh tranh về giá
của nông sản Việt Nam bị giảm sút
Điều kiện sinh thái, môi trường ngày càng xấu, làm ảnh hưởng đến khí hậu thời tiết. Lũ
lụt, mưa bão, hạn hán ngày càng thường xuyên và trầm trọng hơn dẫn đến việc hạn chế
tốc độ gia tăng sản lượng nông sản.

Điểm mạnh:





Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực quan trọng đứng hàng thứ ba sau lúa và ngô. Cây sắn
hiện nay đã chuyển đổi vai trò từ cây lương, thực thực phẩm thành cây công nghiệp hàng
hóa có lợi thế cạnh tranh cao. Sản xuất sắn là nguồn thu nhập quan trọng của các hộ nông
dân nghèo do sắn dễ trồng, ít kén đất, ít vốn đầu tư, phù hợp sinh thái và điều kiện kinh tế
nông hộ.
Việt Nam hiện đã trở thành điển hình tiên tiến của châu Á trong việc ứng dụng công nghệ
chọn tạo và nhân giống sắn lai (Kawano, 2001; Reinhardt Howeler, 2004).
Toàn quốc hiện có 8 nhà máy chế biến tinh bột sắn và sản xuất cồn với tổng công suất
ước khoảng 7 triệu tấn củ tươi/năm, và 6 nhà máy chế biến nhiên liệu sinh học (ethanol)
đang được triển khai, tạo thuận lợi cho sản xuất sắn. Các nhà máy này có địa điểm xây

dựng trải rộng trên toàn quốc, thuận lợi cho việc thu mua nguyên liệu và giảm chi phí vận
chuyển. Ngòai ra, còn có trên 4000 cơ sở chế biến sắn lát, tinh bột sắn thủ công có công
suất dưới 10 tấn củ tươi/ngày nằm rải rác ở hầu hết các tỉnh trồng sắn, chủ yếu ở các tỉnh
phía Nam như Tây Ninh, Đồng Nai.

Điểm yếu:


Công tác xúc tiến thương mại, khả năng tiếp thị, quảng bá, xây dựng thương hiệu, nhãn
hiệu sản phẩm ... và công tác đầu tư đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật để tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh chưa đáp ứng kịp theo yêu cầu diễn biến
của thị trường. Công tác tiếp thị còn yếu kém, kinh phí cho hoạt động tiếp thị chưa được
quan tâm đúng mức.
2|Page









Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung chưa có kinh nghiệm về hệ thống pháp luật và
kinh doanh quốc tế như kinh nghiệm giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, kỹ năng
sử dụng các công cụ pháp lý, hệ thống hỗ trợ pháp luật.
Việc thay đổi chính sách chưa bắt kịp với các cam kết WTO đã khiến ngành nông nghiệp
không phát huy được hết tiềm năng của mình.
giá trị gia tăng của hàng hóa nông sản nước ta vẫn còn rất thấp, khả năng cạnh tranh chưa
cao so với các đối thủ khác trên thị trường. Nguyên nhân do hàm lượng công nghệ, giá trị

gia tăng trong các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn thấp. Đa số các mặt hàng xuất
khẩu đều dưới dạng thô hoặc sơ chế nên giá trị thu được chưa cao. Chất lượng thấp, công
nghệ chế biến lạc hậu, mẫu mã chưa hấp dẫn, giá thành sản xuất cao dẫn đến cạnh tranh
kém, bị ép giá trên thị trường; Thiếu nguồn thông tin về thị trường xuất khẩu cũng như xu
hướng tiêu dùng tại một số thị trường cụ thể.
Năng lực tìm kiếm thị trường của các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp còn yếu; dự
báo thông tin giá cả thiếu chính xác, đặc biệt doanh nghiệp luôn lấy lợi ích của mình làm
mục tiêu kinh doanh mà bỏ quên người nông dân, người trực tiếp làm ra sản phẩm. Các
cơ quan chức năng, các doanh nghiệp chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng
thương hiệu cho hàng hóa nông sản Việt Nam.

Diễn biến diện tích và sản lượng sắn tại Việt Nam giai đoạn 2001-2011 (Nguồn: TCTK 2012)

3|Page



×