Tải bản đầy đủ (.docx) (119 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI cổ PHẨN BẢO VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.83 KB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

NGUYỄN THỊ MINH NGHĨA

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI CỔ PHẨN BẢO VIỆT

Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân Hàng
Mã số: 60.34.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Bạch Thị Minh Huyền

Hà Nội - 2014

1


2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay, ở nước ta hoạt động của các ngân hàng thương mại đang rất thu


hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như đại bộ phận dân chúng. Đặc
biệt trong năm vừa qua, trong tình hình của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới,
hoạt động của các ngân hàng càng được chú ý tới, đặc biệt là những rủi ro có thể
xảy ra với các Ngân hàng.
Hoạt động quản lý rủi ro đóng vai trò quan trọng giúp cho ngân hàng hạn chế
được những tổn thất, thiệt hại do rủi ro gây ra, từ đó nâng cao được chất lượng hoạt
động của mình. Một hệ thống quản lý rủi ro tốt sẽ góp phần tạo niềm tin tới các
khách hàng của ngân hàng, góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng cũng như nâng
cao vị thế Ngân hàng trong môi trường cạnh tranh đầy khắc nghiệt hiện nay. Giai
đoạn 2010 -2013 giai đoạn kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng trì
trệ. Số lượng doanh nghiệp bị giải thể và phá sản trong năm 2010 và năm 2011
thống kê bằng tổng số doanh nghiệp bị phá sản tổng cộng của 20 năm trước đó.
Trong 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động thì tỷ lệ thua lỗ cũng rất cao.Vấn đề
này đã đẩy nợ xấu ngân hàng lên mức rất cao và yêu cầu về xử lý nợ xấu, cũng như
quản lý tốt những khoản nợ hiện tại, những khoản nợ tương lai là hết sức cần thiết.
Ngân hàng TMCP Bảo Việt là một ngân hàng ra đời muộn nhất trong hệ
thống ngân hàng Việt Nam mới chính thức đi vào hoạt động năm 01/2009, sự ra đời
của Bảo Việt Bank góp phần hình thành thế chân kiềng vững chắc giữa Bảo hiểm –
Ngân hàng – Chứng khoán, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đảm bảo cho sự phát triển
bền vững của tập đoàn Bảo Việt. Nhưng với một ngân hàng non trẻ như Bảo Việt lại
ra đời trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam và thế giới gặp nhiều khó khăn, tuy đã
có những bước tiến trong hoạt động kinh doanh trong những năm vừa qua, nhưng
cũng không thể tránh khỏi vấn nạn nợ xấu. Bảo Việt là một trong những ngân hàng

3


có tỷ lệ nợ xấu cao chiếm trên 6% trên tổng dư Nợ, tỷ lệ nợ xấu cũng tăng qua các
năm. Bên cạnh đó, thời gian gần đây xuất hiện loạt các bài báo có liên quan đến
những bất cập trong hoạt động tín dụng tại một chi nhánh lớn là chi nhánh Hà Nội,

bộc lộ những yếu điểm trong hệ thống quản lý rủi ro tín dụng của NHTM CP Bảo
Việt. Vì thế, vấn đề nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng mang một ý nghĩa hết
sức đối với ngân hàng trong giai đoạn hiện nay cũng như giai đoạn phát triển tới
đây.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Bảo Việt”
làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Tài Chính – Ngân hàng.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài.
- Nghiên cứu các lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng tại ngân
hàng từ đó đưa ra lý luận về quản lý rủi ro tín dụng cũng như các chỉ tiêu ảnh
hưởng tới rủi ro tín dụng.
- Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng, nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và
các giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại NHTMCP Bảo Việt
- Trên cơ sở lý luận và phân tích thực trạng rủi ro tín dụng, từ đó đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro cho hoạt động tín dụng tại NHTMCP
Bảo Việt
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, thực
trạng rủi ro tín dụng và công tác quản lý rủi ro tín dụng tại NHTMCP Bảo Việt, từ
đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng

4


- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng công tác quản lý rủi ro tín dụng tại NHTMCP
Bảo Việt, từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, hạn chế rủi ro.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài gồm:
Phương pháp khảo sát, phương pháp nghiên cứu thống kê, phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp…, đề tài cũng được sử dụng và vận

dụng các lý thuyết cơ bản, các lý luận khoa học về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro
tín dụng
5. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục. Kết cấu của luận văn bao gồm ba
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng của
NHTM
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng và công tác quản lý rủi ro tại Ngân hàng
TMCP Bảo Việt
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại NHTMCP
Bảo Việt

5


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM

1.1 Lý luận chung về tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Pháp lệnh Ngân hàng ngày 23-5-1990 của Hội đồng Nhà nước Việt Nam xác
định: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán”.
Trong các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại thì tín dụng là một nghiệp
vụ cơ bản nhất. Tín dụng được hiểu là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng
vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời gian nhất định với một chi phí
nhất định (Nguyễn Minh Kiều – 2007)
Tín dụng là phương thức huy động vốn quan trọng nhất của nền kinh tế thị

trường. Vì vậy sử dụng có hiệu quả phương thức này sẽ góp phần giải quyết nhu
cầu vốn cho sản xuất và đầu tư phát triển.
1.1.2 Vai trò của tín dụng Ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường: Tín dụng tập trung huy động nhiều nguồn vốn,
gắn liền với sử dụng vốn có hiệu quả để đầu tư phát triển kinh tế xã hội, tạo điều
kiện tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tín dụng thực sự là đòn bẩy
kinh tế kích thích các ngành kinh tế mũi nhọn phát triển cũng như mở rộng
thương mại dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn. Do đó tín dụng có vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội , Cụ thể:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng góp phần giảm số vốn nhàn rỗi trong lưu
thông và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Tín dụng cung cấp vốn cho các doanh nghiệp và các cá nhân sản xuất kinh
doanh qua đó điều tiết vốn từ nơi nhàn rỗi đến bộ phận thiếu vốn. Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ hoặc các hộ gia đình là những đối tượng khó huy động vốn
trên thị trường cũng được đáp ứng đủ nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh. Tín

6


dụng góp phần vào việc phân phối vốn, điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế,
tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Ngoài ra tín dụng còn là cầu
nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là
phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Thông qua hoạt động tín
dụng giúp các doanh nghiệp sử dụng nguồn lao động và nguyên liệu hợp lý thúc
đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội
Thứ hai, thông qua việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp và cá nhân, tín
dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
Trong mọi lĩnh vực sản xuất - kinh doanh - dịch vụ, các doanh nghiệp, hộ gia
đình hoặc cá nhân đều tìm mọi cách để gia tăng lợi nhuận, nâng cao năng suất
và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn thực hiện điều đó, các chủ thể kinh

doanh phải cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện quản lý, tìm kiếm thị trường mới do đó
cần một lượng vốn lớn và kịp thời. Tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn cung ứng
vốn cho các nhu cầu đó. Tuy nhiên, các nhà kinh doanh cần phải tìm ra nhiều
giải pháp sử dụng vốn hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn nhằm trả nợ vay tín
dụng đúng hạn cả gốc và lãi nếu không có thể dẫn tới nguy cơ phá sản. Thực
hiện được điều này trong nền kinh tế thị trường là một cuộc cạnh tranh gay gắt
và quyết liệt. Qua đó thúc đẩy sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế hàng
hoá.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ để Chính phủ điều tiết vĩ mô nền kinh
tế, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Thông qua kiểm soát khối lượng tín dụng, định hướng đầu tư cùng với lãi
suất tín dụng giúp chính phủ điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và hợp lý,
kiềm chế lạm phát. Tín dụng ngân hàng còn là công cụ để Nhà nước phát triển
các ngành, lĩnh vực kinh tế chiến lược thông qua việc tập trung vốn đầu tư cho
các ngành kinh tế mũi nhọn, kết hợp với các chương trình chính sách xã hội.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy kinh tế
đối ngoại.
Ngày nay, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi
giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang đựơc thúc đẩy mạnh cả về

7


chiều rộng và chiều sâu. Trong đó, vốn đầu tư ra nước ngoài và kinh doanh xuất
nhập khẩu hàng hoá đựơc coi là hai lĩnh vực hợp tác thông dụng nhất giữa các
nước. Nhưng thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào cũng có đủ vốn để
hoạt động. Thông qua hoạt động tín dụng, các ngân hàng là trợ thủ đắc lực, sẽ
cung cấp vốn cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, giúp các
doanh nghiệp trong nước từng bước tiếp cận thị trường quốc tế, đổi mới công
nghệ và mẫu mã sản phẩm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng tại

các thị trường quốc tế góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng đối với
nền kinh tế cũng như đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại.
1.1.3 Các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng

 Phân loại theo thời hạn
Thời hạn tín dụng là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách
hàng một khoản tín dụng và nó được xác định cụ thể ngày, tháng, năm. Hay thời
hạn tín dụng còn được hiểu là thời hạn được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân
hàng được phát ra cho đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Phân loại Tín
dụng theo thời hạn có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân hàng thương mại vì nó
phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến tính an
toàn và sinh lợi của một Ngân hàng thương mại.
Theo thời hạn tín dụng được phân thành ba loại
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng có thời hạn dưới một năm
Tín dụng ngắn hạn thường gắn với những khoản vay của doanh nghiệp để bổ
sung vào tài sản lưu động, bởi vì tài sản lưu động thường có vòng quay trên một
vòng thấp hơn một năm. Do vậy trong một năm doanh nghiệp có thể hoàn trả được
số tiền vay ở Ngân hàng.

8


- Tín dụng trung hạn: gồm những khoản tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5
năm
Các tài sản cố định như phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải, một số
cây trồng vật nuôi... các trang thiết bị nhanh hao mòn có nhu cầu nguồn vốn từ 1
năm đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: gồm những khoản tín dụng có thời hạn từ 5 năm trở lên.

Thông thường những công trình đầu tư lớn, thu hồi vốn lâu, thuộc tầm vĩ mô như:
máy móc thiết bị công nghiệp nặng, xây dựng cầu đường... có nhu cầu nguồn vốn từ
5 năm đến 10 năm có khi tới 20 năm.

 Phân loại theo hình thức cho vay
Căn cứ theo hình thức cho vay ta có các loại tín dụng sau:
- Chiết khấu: là việc Ngân hàng Thương mại ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu sau khi đã trừ đi phần thu nhập của Ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý thì Ngân hàng
không phải là nhà cho vay với chủ sở hữu thương phiếu và chỉ là hình thức trao đổi
trái quyền. Tuy nhiên đối với Ngân hàng, việc bỏ tiền ở thời điểm hiện tại để thu về
một khoản tiền lớn hơn trong tương lai với lãi suất ấn định trước được coi như là
hoạt động tín dụng, nhưng có lẽ coi đây là một hoạt động đầu tư của Ngân hàng hơn
là một hoạt động tín dụng.
- Cho vay : được hiểu là việc Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng với sự
cam kết khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định với
mức lãi suất cam kết. Cho vay được gọi là một trong các nghiệp truyền thống của
Ngân hàng Thương mại, nó được hình thành ngay từ buổi sơ khai của các Ngân
hàng, và được đánh giá là hoạt động sinh lời cao nhất cho các Ngân hàng Thương
mại.

9


- Bảo lãnh: là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay
khách hàng của mình khi khách hàng của mình không có khả năng trả nợ. Mặc dù
không phải xuất tiền ra, song Ngân hàng vẫn thu được lợi từ khách hàng nhờ uy tín
của mình. Nghiệp vụ này được đưa vào tài khoản ngoại bảng của Ngân hàng. Tuy
nhiên nếu có nghiệp vụ phát sinh tức là Ngân hàng đứng ra thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng của mình thì nó lại được đưa vào tài khoản nội bảng.

- Cho thuê: đó là việc Ngân hàng đứng ra bỏ tiền mua tài sản để cho khách
hàng thuê theo những điều kiện nhất định. Sau thời gian đó khách hàng phải trả cả
gốc lẫn lãi cho Ngân hàng. Đây là hoạt động khá mới mẻ với Ngân hàng. Tuy nhiên
hoạt động này sinh lời khá cao, nhưng nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro trong đó có
yếu tố về công nghệ. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng không những phải có chuyên
môn về nghề nghiệp mà còn có cả sự hiểu biết về kỹ thuật, về công nghệ.

 Phân loại tín dụng theo tài sản bảo đảm.
Nếu căn cứ vào tài sản bảo đảm thì ta có các loại hình tín dụng sau :
- Tín dụng đảm bảo: đó là sự cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài
sản bảo đảm thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Ngân hàng
trong trường hợp không trả được nợ. Trong trường hợp này khi khách hàng không trả
được nợ, hoặc vì sử dụng sai mục đích nguồn vốn vay dẫn đến không thanh toán được
thì Ngân hàng sẽ bán tài sản đi để thu hồi nguồn vốn. Tín dụng đảm bảo được áp dụng
đối với các khách hàng có độ rủi ro cao như khách hàng mới hay những khách hàng có
tình hình tài chính không tốt...
- Tín dụng không có tài sản bảo đảm: đó là loại hình tín dụng mà khách hàng
có nhu cầu vay vốn với một hạn mức nhất định mà không cần tài sản bảo đảm. Loại
tín dụng này thường được cấp cho các khách hàng có uy tín cao, những khách hàng
có mối quan hệ tốt và lâu dàI đối với Ngân hàng, họ có tình hình tài chính lành
mạnh, có mối quan hệ tốt với các tổ chức tài chính. Cũng có thể là các khoản vay

10


thực hiện theo chỉ thị của Chính phủ, hay Chính phủ yêu cầu không cần tài sản bảo
đảm.

1.2 Rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng

Tín dụng là kênh cung ứng vốn quan trọng cho hoạt động của các doanh
nghiệp, cá nhân, hộ gia đình, nền kinh tế. Trong hoạt động kinh doanh lại luôn có
những khó khăn dự định ban đầu có thể không đạt được theo ý muốn, đó chính là
sự xuất hiện các rủi ro. Do đó bất cứ rủi ro xảy ra đối với các chủ thể nào, lĩnh vực
nào cũng ít nhiều gây ra rủi ro cho ngân hàng.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước, RRTD trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng: là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo
cam kết.
Khi thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể, ngân hàng không dự kiến là
khoản vay đó sẽ có thể bị tổn thất. Tuy nhiên cũng như những loại hình đầu tư khác,
những khoản tín dụng đó luôn hàm chứa rủi ro. Do đó rủi ro tín dụng còn được
hiểu là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng
vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi dẫn đến làm
giảm khả năng thanh toán, giảm hiệu quả kinh doanh, gây thất thoát vốn và có thể
làm cho ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.

1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
 Rủi ro giao dịch (Transaction risk): là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên
nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay,
đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro
bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
 Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng,
khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho
vay.

11



 Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp
đồng cho vay, các loại tài sản bảo đảm, chủ thể đảm bảo, hình thức đảm bảo và mức
cho vay trên giá trị của tài sản bảo đảm.
 Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động
cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các
khoản vay có vấn đề.
 Rủi ro danh mục (Porfolio risk): là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên
nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng,
được phân chia thành hai loại là rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung
(Concentration risk).
 Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt
bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc
điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
 Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với
một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một
ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một
loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.3 Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
Theo nghiên cứu của ngân hàng Standard Chartered, nguyên nhân chủ yếu
của các khoản nợ có vấn đề xuất phát từ khách hàng chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng
56%, kế tiếp là nguyên nhân từ phía ngân hàng chiếm khoảng 27%, sốcòn lại là từ
nguyên nhân hoàn cảnh khách quan. Các yếu tố thuộc các nhóm trên vừa có tính
độc lập tương đối, vừa quan hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau, có thể làm cho hoạt
động của NHTM giảm thiểu được rủi ro, nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng
ngân hàng. Nhưng chúng cũng có thể gây ra những tổn thất, thậm chí rất lớn, dẫn
tới phá sản của một hoặc một số NHTM. Chẳng hạn sự yếu kém, thiếu đồng bộ,
thiếu nhất quán trong cơ chế, chính sách cho vay, dẫn tới tình trạng cán bộ quản lý
của NHTM, hoặc người đi vay lợi dụng, đặc biệt nguy hại khi cán bộ nắm quyền
lãnh đạo, chi phối hoạt động của NHTM bị sa sút phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
 Rủi ro tín dụng do các nguyên nhân khách quan


12


Nhóm nhân tố này bao gồm các nhân tố là: môi trường kinh tế, môi trường pháp lý,
môi trường xã hội.
 Môi trường kinh tế: Tín dụng ngân hàng cũng là một hoạt động kinh doanh do đó
nó cũng chịu ảnh hưởng tác động trực tiếp của môi trường kinh tế - xã hội. Nền
kinh tế ổn định, tăng trưởng lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín
dụng. Khi đó, quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tiến hành bình
thường, không bị ảnh hưởng của các yếu tố lạm phát, khủng hoảng sẽ làm khả năng
vay nợ và trả nợ vay không bị biến động lớn. Ngược lại, một nền kinh tế bị suy
thoái thì sức mua của người dân bị giảm sút, sản xuất bị đình trệ, tất cả những điều
đó tác động xấu đến khả năng thu hồi vốn tín dụng của ngân hàng. Khi các quan hệ
kinh tế quốc tế được mở rộng thì các biến động kinh tế không chỉ ảnh hưởng tới
một quốc gia mà còn tác động tới cả các quốc gia khác trong khu vực và trên thế
giới.
 Môi trường pháp lý: Bao gồm các quy định, quy chuẩn, các văn bản luật do Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước, các bộ ngành liên quan, hoặc các tổ chức quốc tế....ban
hành. Khi môi trường pháp lý không lành mạnh, không hoàn chỉnh tức là có sự
thiếu đồng bộ trong hệ thống các văn bản pháp luật, các giải pháp thi hành pháp luật
và sự tuân thủ không nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia kinh doanh
và các ngành có liên quan sẽ làm cho hoạt động tín dụng ngân hàng gặp nhiều rủi
ro. Môi trường pháp lý như vậy sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh không lành
mạnh giữa các doanh nghiệp, vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp và ngân hàng,
vừa tạo khe hở để kẻ xấu lợi dụng gây rủi ro cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
 Nhân tố xã hội: Môi trường xã hội là nhân tố quan trọng hình thành nên phong tục
tập quán, đạo đức lối sống của các cá nhân. Trong khi đó tín dụng là sự vay mượn
dựa trên cơ sở lòng tin. Nếu trình độ dân trí chưa cao, kém hiểu biết sẽ không hiểu
được đúng đắn về bản chất của hoạt động tín dụng, kinh doanh kém hiệu quả gây

tổn thất cho ngân hàng hoặc những người đạo đức không tốt cố tình lừa đảo trốn
nợ..., hoặc do sự thay đổi yếu tố tâm lý xã hội cũng có khả năng hạn chế việc trả nợ
của người vay.

13


Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng chịu tác động của các biến cố như thiên tai, chiến
tranh…không thể lường trước có tác động trực tiếp và ảnh hưởng nghiêm trọng tới
kế hoạch trả nợ vay của người đi vay.
Bên cạnh đó những thay đổi, điều chỉnh về cơ chế, về chính sách kinh tế vĩ mô…
cũng có thể đặt doanh nghiệp vào những tình huống khó khăn có thể kéo theo nguy
cơ thiệt hại cho ngân hàng.
 Rủi ro tín dụng do các nguyên nhân chủ quan
Rủi ro chủ quan đến từ cả hai phía Ngân hàng và khách hàng
 Rủi ro tín dụng do các nguyên nhân xuất phát từ phía ngân hàng
• Trước tiên, rủi ro tín dụng xẩy ra do sự yếu kém của đội ngũ cán bộ:
Rủi ro trong quản trị kinh doanh NHTM như một tất yếu là không thể tránh
khỏi. Song việc lựa chọn, bố trí sử dụng cán bộ, không đánh giá đúng năng lực
cũng như phẩm chất tư cách đạo đức nghề nghiệp thì sẽ dẫn đến sử dụng những
cán bộ thiếu trung thực Chúng ta phải thừa nhận rằng ở đâu chú trọng đến công
tác tín dụng, luôn tuân thủ các quy trình từ xét duyệt cho vay, kiểm tra giám sát
việc sử dụng tiền vay, thu hồi nợ, xử lý nợ nghi ngờ, nợ xấu... luôn nêu cao
phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ thì ở đó, chất lượng tín
dụng cao và kiểm soát tốt, giảm thiểu rủi ro. Ngược lại, ở đâu sự quan tâm chú
trọng không đầy đủ đúng mức thì ở đó, chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao và
thậm chí mất cả cán bộ. Thực tế cho thấy, nhiều món vay kém chất lượng, tồn
đọng không có khả năng thu hồi và có nguy cơ mất trắng đều có nguyên nhân
thẩm định sơ sài, hồ sơ có vấn đề, thiếu kiểm tra kiểm soát. Điều đó một phần là
do cán bộ làm công tác ngân hàng, nhất là cán bộ tín dụng, non kém về trình độ,

về năng lực nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng xử lý thông
tin và thẩm định dự án, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, xác định kỳ hạn
của các khoản vay chưa phù hợp, không có khả năng theo dõi các khoản tín
dụng đã cấp. Tuy nhiên còn một phần không nhỏ gây nên rủi ro tín dụng là một
bộ phận cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định... liên quan đến công tác cho vay bị
sa sút về phẩm chất, đạo đức, thiếu trách nhiệm.

14


Tư chất đạo đức kém, thiếu tinh thần trách nhiệm làm cho con người dễ
bị lôi cuốn bởi những cám dỗ vật chất có thể hành động trái đạo lý, trái pháp
luật, gây thiệt hại đáng kể cho ngân hàng. Nhiều khi vì lợi ích cá nhân mà
cán bộ tín dụng và thẩm định đã cố tình làm sai còn cán bộ quản lý lại thiếu
trách nhiệm dẫn tới khoản vay đó bị rủi ro cao. Hay trường hợp một nhóm
tập thể cán bộ quản lý trong công tác điều hành đã vô tình hoặc cố ý làm sai
mặc dù điều kiện khách hàng vay vốn có thể chưa hội tụ đủ, thậm chí không
đủ điều kiện và đã được cán bộ tín dụng, thẩm định ghi rõ nguyên nhân
trong báo cáo thẩm định là không duyệt cho vay. Theo đó cán bộ quản lý đã
bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn khách hàng hợp thức hoá hồ sơ,
thậm chí còn yêu cầu cán bộ tín dụng, thẩm định phải thực hiện theo ý kiến
chỉ đạo.
• Thứ hai là vấn đề chất lượng thông tin thấp.
Thông tin ở đây bao gồm cả thông tin tài chính và phi tài chính. Có thể khái
quát là những thông tin liên quan đến những hoạt động sản xuất kinh doanh
trước đây và nhu cầu trong hiện tại của khách hàng và những thông tin phản ánh
trình độ, năng lực quản lý, uy tín, quan hệ của khách hàng, tình hình kinh tế - xã
hội, xu hướng phát triển, quan hệ cung cầu, cạnh tranh của một ngành kinh
doanh trên thị trường. Yêu cầu đối với thông tin là phải chính xác, đầy đủ, kịp
thời.

• Thứ ba là nhân tố chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng là hệ thống các chủ trương, định hướng quy định chi
phối hoạt động tín dụng nhằm sử dụng vốn hiệu quả nhất. Nếu chính sách tín
dụng không phù hợp sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng và có thể
tạo ra nhiều rủi ro. Thí dụ như nhiều ngân hàng lại quá chú trọng vào cho vay
dựa trên tài sản thế chấp, chỉ đặt ra yêu cầu có thế chấp đầy đủ là được nhận tín
dụng, dẫn đến việc nới lỏng trong thẩm định cũng như giám sát thực hiện hợp
đồng; có khi một tài sản thế chấp được quay vòng nhiều lần để rút vốn ngân
hàng mà không bị phát hiện, nhất là khi vài ngân hàng cùng cho vay một khách

15


hàng mà khách hàng đó không trung thực. Việc tập trung tín dụng cho một số
khách hàng truyền thống thoạt xem có thể an toàn nhưng thực ra một danh mục
cấp tín dụng thiếu đa dạng lại hàm chứa rất nhiều rủi ro khi “ bỏ tất cả trứng vào
một giỏ”. Các ngân hàng có xu hướng muốn nhanh chóng tăng số dư nợ nhưng
việc mở rộng tín dụng quá nhanh cũng đe doạ gây tình trạng quá tải, vượt quá
khả năng quản lý của ngân hàng. Như vậy, một chính sách tín dung thiếu linh
hoạt, không phù hợp cũng là nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ rủi ro tín
dụng.
Một ảnh hưởng nữa góp phần tăng thêm mức độ rủi ro của các khoản tín
dụng là do các ngân hàng thường đưa ra các cam kết này, hay cam kết khác buộc
các khách hàng phải thực hiện trong khi các cam kết đó không phù hợp với điều
kiện thực tế của khách hàng vay. Phần lớn các quy định trong hợp đồng tín dụng
đều mang chế tài bảo vệ người cho vay như: Ngân hàng có quyền thay đổi lãi
suất cho vay, kiểm tra tình hình tài chính, tài sản bảo đảm tiền vay; đình chỉ cho
vay và thu hồi nợ trước hạn; thu hồi nợ bằng các nguồn khác nhau, bao gồm
phát mại tài sản bảo đảm, kiểm tra tình hình tài chính, tài sản bảo đảm tiền vay
bất cứ lúc nào… Chính tính “áp đặt này” mà trong một số trường hợp, ngân

hàng cho vay xử lý các tình huống phát sinh một cách quan liêu, không sâu sát
thực trạng, không nắm bắt được toàn bộ nội dung và bản chất của của sự việc.
Việc đưa ra các quyết định về số tiền cho vay, thời hạn cho vay... cũng dựa trên
đánh giá chủ quan của Ngân hàng mà chưa thực sự căn cứ vào nhu cầu và khả
năng thực tế của khách hàng. Ngoài ra, các ngân hàng còn chưa thực hiện
nghiêm túc những nguyên tắc quản lý kinh tế tài chính, thể lệ tín dụng; những
nguyên tắc quy chế cầm cố, bảo lãnh, thế chấp…Nhiều ngân hàng chưa trích lập
hoặc trích lập dự phòng rủi ro chưa sát với mức độ rủi ro thực tế của đơn vị
mình.
 Rủi ro tín dụng xuất phát từ phía khách hàng
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng luôn có hai chủ thể là ngân hàng và khách
hàng. Theo thống kê cho thấy, khả năng xảy ra rủi ro tín dụng xuất phát từ khách

16


hàng là phổ biến nhất bởi khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay. Nhân
tố này rất đa dạng bao gồm:
• Do khách hàng không tuân thủ các quy định, cố tình lừa đảo để chiếm
dụng vốn ngân hàng.
Nhiều trường hợp khách hàng chủ ý cung cấp các báo cáo tài chính sai lệch,
làm cho ngân hàng đánh giá sai về năng lực tài chính của họ; thậm chí có khách
hàng đủ năng lực tài chính để thực hiện các điều khoản cam kết trong hợp đồng
nhưng vẫn cố tình chây ỳ không chịu thực hiện nghĩa vụ. Việc khiếu kiện cũng
chỉ là giải pháp bị động, bất đắc dĩ, chi phí tốn kém; hơn nữa nếu các cơ quan
pháp luật điều tra thiếu khách quan, xét xử thiếu công bằng thì ngân hàng phải
chịu thiệt hại cả hữu hình lẫn vô hình.
Khi cho vay, Ngân hàng mong muốn khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích
và hiệu quả để có khả năng trả nợ gốc và lãi vay ngân hàng. Đối với các doanh
nghiệp, khi vay vốn đều có mục đích rõ ràng, phương án kinh doanh cụ thể và

khả thi; đối với các thể nhân thì có kế hoạch trả nợ cụ thể và khả thi. Tuy nhiên
khách hàng sau khi vay lại sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trả nợ
sẽ làm cho các ngân hàng bị tổn thất và rủi ro trong vấn đề thu hồi nợ.
• Do khách hàng kinh doanh thua lỗ dẫn đến mất khả năng trả nợ.
Nguyên nhân có thể do năng lực quản lý kinh doanh kém. Nếu chiến lược
kinh doanh không được quản lý hoạch định tốt sẽ ảnh hưởng đến nguồn trả nợ.
Ngân hàng cho vay dựa trên kế hoạch, chiến lược kinh doanh vì đấy là nguồn trả
nợ tốt nhất, tuy nhiên nếu sự quản lý hoạch định ấy yếu kém, sẽ làm cho phương
án kinh doanh có thể đi vào phá sản. Hoặc khách hàng mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh vượt quá khả năng kiểm soát trong khi đó chưa chú trọng tới
phát triển theo chiều sâu thì khách hàng đó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hơn nữa
nếu tỷ lệ vốn tự có trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp thấp, chủ yếu là
vốn vay ngân hàng thì doanh nghiệp sẽ lao theo những cơ hội đầy mạo hiểm,
đến khi gặp rủi ro thì ngân hàng phải gánh chịu.
• Do tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch.

17


Hiện nay báo cáo tài chính của các doanh nghiệp cung cấp vẫn chưa phải là
nguồn thông tin xác thực, chưa phản ánh đúng thực tế tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, ngân hàng không có căn cứ chính xác
đáng tin cậy dựa vào thông tin doanh nghiệp cung cấp mà phải dùng tài sản thế
chấp làm chỗ dựa để phòng chống rủi ro tín dụng.
Như vậy, khách hàng vừa là người mang lại thu nhập cho ngân hàng đồng thời
đưa lại cho ngân hàng cả những nguy cơ rủi ro. Cho nên nếu hạn chế được
những nguy cơ đó sẽ làm tăng đáng kể lợi nhuận cho ngân hàng.
Sự tiếp cận các yếu tố, nguyên nhân gây rủi ro trên đây giúp chúng ta nhìn nhận
một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan hơn, từ đó có được đề xuất phòng ngừa,
giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh của NHTM một cách hữu ích, thiết thực hơn.


1.2.4 Đánh giá và đo lường rủi ro tín dụng
1.2.4.1 Đánh giá rủi ro tín dụng
 Đánh giá RRTD
Mức độ rủi ro tín dụng cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan của mục đích vay vốn cũng như hoạt động của người vay vốn.

 Các yếu tố khách quan
Các yếu tố khách quan thường là những nhìn nhận ban đầu và tổng quát về triển
vọng của dự án cần vay vốn. Nếu dự án có triển vọng thành công cao thì rủi ro tín
dụng thấp và ngược lại. Các yếu tố này bao gồm:

• Môi trường kinh tế: thị trường, đối thủ cạnh tranh, khả năng tiêu thụ...
• Sự phát triển của ngành liên quan: nếu ngành liên quan đến dự án đang ở giai đoạn
phát triển thì dự án có nhiều khả năng thành công. Ngược lại; nếu ngành liên quan
đến dự án đang ở giai đoạn suy thoái và có nhiều công ty trong ngành làm ăn thua
lỗ thì khả năng thành công của dự án là thấp.
• Môi trường pháp lý: Luật bảo hiểm, luật lao động, luật cạnh tranh... là những điều
khoản cần được quan tâm khi đánh giá một dự án.
 Các yếu tố chủ quan

18


Các yếu tố chủ quan có thể được hiểu là tính tin cậy của doanh nghiệp đi vay
hay khả năng trả nợ của doanh nghiệp khi đến hạn. Nhân tố này được phân tích
chủ yếu dựa vào các dữ liệu kế toán của doanh nghiệp.

• Hiệu quả hoạt động hiện tại của doanh nghiệp: kết quả kinh doanh hàng quí và hàng
năm của doanh nghiệp.

• Các khoản tín dụng hiện tại và lịch sử của các khoản tín dụng quá khứ của doanh
nghiệp: Nếu hiện tại doanh nghiệp đang có các khoản vay khác và có các khoản
vay tín dụng quá hạn chưa được thanh toán hay doanh nghiệp có các khoản vay tín
dụng đã được thanh toán nhưng thường quá hạn phải chi trả... thì tính tin cậy của
doanh nghiệp là thấp, và việc cho doanh nghiệp vay tín dụng sẽ có rủi ro cao.
• Khả năng tài chính của doanh nghiệp: được căn cứ dựa vào vốn tự có, các khoản
cho vay, tài sản thế chấp, người bảo lãnh...Các ngân hàng có thể đánh giá mức rủi
ro tín dụng trên cơ sở xác định tỷ lệ tổng vốn cần vay của doanh nghiệp/vốn tự có
của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ này là cao thì rủi ro tín dụng cao, và ngược lại.
• Tính thanh khoản cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Dù doanh
nghiệp có tình trạng kinh tế tốt nhưng nếu tính thanh khoản hay khả năng huy động
tiền mặt không cao thì doanh nghiệp có nhiều khả năng phải thanh toán nợ quá hạn
quy định. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp có rủi ro tín dụng cao.
1.2.4.1 Đo lường rủi ro tín dụng
Đo lường rủi ro tín dụng: là điều mà tất cả các nhà quản lý đều rất quan
tâm vì nó giúp ngân hàng loại bỏ những khách hàng có mức độ rủi ro quá cao và
nhận biết trước những rủi ro có thể xảy ra. Nó giúp khách hàng hiểu rõ hơn
những điểm mạnh, điểm yếu của chính khách hàng để từ đó tư vấn cho khách
hàng những giải pháp đảm bảo vay vốn phù hợp. Đồng thời qua đó, ngân hàng
có thể đưa ra nhiều sản phẩm hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Theo Basel II các ngân hàng sẽ sử dụng các mô hình dựa trên hệ thống dữ
liệu nội bộ để xác định khả năng tổn thất tín dụng hay tổn thất dự kiến EL

19


(Expected Loss), theo khả năng vỡ nợ PD (Probability of Default, với mức độ tổn
thất khi vỡ nợ LGD (Loss Given Default) theo công thức sau:
EL = EAD x PD x LGD


Trong đó:
EAD (Exposure at Default): Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách
hàng không trả được nợ. Đối với khoản vay có kỳ hạn, EAD được xác định không
quá khó khăn. Tuy nhiên với khoản vay theo hạn mức tín dụng, tín dụng tuần hoàn
thì lại khá phức tạp và EAD được tính như sau:
EAD = Dư nợ bình quân + LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình
quân
LEQ: Loan Equivalent Exposure: là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng có nhiều
khả năng sẽ được khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ.
“LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân”: là phần dư nợ
khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ bình
quân.
PD (khả năng vỡ nợ): cơ sở của xác suất này là các số liệu về các khoản vay
trong quá khứ của khách hàng gồm các khoản nợ đã trả, nợ trong hạn, nợ không có
khả năng thu hồi.
LGD (tỷ trọng tổn thất ước tính): là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên tổng
dự nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ, đó chính là lãi suất đến hạn
nhưng không được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh.
LGD có thể được tính toán theo công thức sau:

20


LGD = (EAD - Số tiền có thể thu hồi)/EAD
Trong đó số tiền có thể thu hồi bao gồm các khoản tiền mà khách hàng trả và
các khoản tiền thu được từ xử lý tài sản thế chấp, cầm cố.
Ngoài ra LGD còn được tính như sau:
LGD = 100% - tỷ lệ vốn có thể thu hồi được
Tỷ lệ vốn có thể thu hồi được là khả năng thu hồi vốn của ngân hàng khi
khách hàng không trả được nợ. Hai yếu tố quan trọng nhất quyết định tỷ lệ này là

tài sản bảo đảm của khoản vay và cơ cấu tài sản của khách hàng, trong đó cơ cấu tài
sản được hiểu như là thứ tự ưu tiên trả nợ của các khoản phải trả trong trường hợp
khách hàng phá sản
Theo các công thức này, nếu mỗi món cho vay là một phép thử, ta có thể xác
định được một cách tương đối chính xác xác suất và mức độ bị rủi ro của từng loại
tài sản của ngân hàng trong từng thời kỳ, từng loại hình tín dụng, từng lĩnh vực đầu
tư,…Điều này có ý nghĩa rất quan trọng chiếu theo giác độ kinh tế.

1.2.5 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn trong kinh doanh ngân hàng và đã gây ra những
hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, thậm chí có thể lan rộng trên phạm vi toàn cầu.

 Đối với Ngân hàng thương mại
 Giảm lợi nhuận
Khi RRTD xảy ra sẽ phát sinh các khoản nợ khó đòi, sự ứ đọng vốn dẫn đến
giảm vòng quay vốn ngân hàng. Mặt khác, nó cũng làm phát sinh tăng các khoản
chi phí quản lý, giám sát, thu nợ. Trong khi các khoản thu nhập từ việc tăng lãi suất
nợ quá hạn không được bao nhiêu, vì đây chỉ là những khoản thu nhập ảo, một

21


trong những giải pháp xử lý của ngân hàng, thực tế ngân hàng rất khó có thể thu hồi
đầy đủ chúng. Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động
trong khi một bộ phận tài sản của ngân hàng không thu được lãi cũng như không
chuyển được thành tiền cho người khác vay và thu lãi. Kết quả là lợi nhuận của
ngân hàng sẽ bị giảm sút.

 Giảm khả năng thanh toán

Ngân hàng thường lập kế hoạch cân đối dòng tiền ra (trả lãi và gốc tiền gửi,
cho vay, đầu tư mới,…) và dòng tiền vào (tiền nhận gửi, tiền thu nợ gốc và lãi cho
vay,…) tại các thời điểm trong tương lai. Khi các hợp đồng vay không được thanh
toán đầy đủ và đúng hạn sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa hai dòng tiền. Ngân hàng
vẫn phải thanh toán đầy đủ và đúng hạn các khoản tiền gửi tiết kiệm nhưng lại
không thu được tiền từ những hợp đồng cho vay. Nếu ngân hàng không đi vay hoặc
bán các tài sản của mình thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ bị suy yếu, gặp phải
vấn đề lớn trong rủi ro thanh khoản.

 Giảm uy tín
Tình trạng mất khả năng chi trả tái diễn nhiều lần, hay những thông tin về
RRTD của ngân hàng bị tiết lộ ra công chúng, uy tín của ngân hàng trên thị trường
tài chính sẽ bị giảm sút, đây là cơ hội tốt cho các đối thủ cạnh tranh giành giật lấy
thị trường và khách hàng.

 Phá sản ngân hàng
Khi ngân hàng liên tục mất khả năng chi trả, sẽ có khả năng khách hàng
không tin tưởng và ồ ạt đến rút tiền Nếu không chuẩn bị trước các phương án dự
phòng, không đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu rút vốn quá lớn, và Ngân hàng
Trung Ương không can thiệp kịp thời thì sẽ nhanh chóng mất khả năng thanh toán,
dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng.

22


 Đối với hệ thống ngân hàng
Hoạt động của một ngân hàng trong một quốc gia có liên quan đến hệ thống
ngân hàng và các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân trong nền kinh tế. do vậy nếu một
ngân hàng có kết quả hoạt động xấu, thậm chí dẫn đến mất khả năng thanh toán và phá
sản thì sẽ có những tác động dây chuyền ảnh hưởng xấu các ngân hàng và các bộ phận

kinh tế khác. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của NHNN và Chính phủ thì tâm lý
sợ mất tiền sẽ lây lan đến toàn bộ người gửi tiền và họ sẽ đồng loạt rút tiền tại các
NHTM làm cho các ngân hàng khác vô hình chung cũng rơi vào tình trạng mất khả
năng thanh toán.

 Đối với khách hàng
Lãi vay ngân hàng được hạch toán vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Khi để phát sinh nợ quá hạn với lãi suất ≥ 150% lãi suất trong hạn thì chi phí của
doanh nghiệp sẽ tăng lên. Nguy cơ không đủ khả năng trả nợ ngân hàng là điều
không tránh khỏi, dẫn đến việc phát mại tài sản thế chấp, đôi khi dẫn đến tình trạng
phá sản của khách hàng.

 Đối với nền kinh tế
Khi ngân hàng gặp khó khăn thì việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp sẽ
bị hạn chế, tốc độ luân chuyển vốn chậm gây ngừng trệ các hoạt động kinh tế
khác. Do một lượng vốn lớn nằm tồn đọng trong các khoản nợ khó đòi, nợ quá
hạn, ngân hàng không đủ vốn để cấp tín dụng cho các dự án khả thi khác. Trong
khi đó, khoản tín dụng đã cấp là hoạt động không có hiệu quả mà ngân hàng lại
không kiểm soát nổi, kết quả là sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế chậm phát
triển, rơi vào trạng thái lũng đoạn
Ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút và bơm
tiền cho nền kinh tế, vì vậy rủi ro tín dụng gây nên sự phá sản một ngân hàng
sẽ làm cho nền kinh tế bị rối loạn, hoạt động kinh tế bị mất ổn định và ngưng

23


trệ, mất bình ổn về quan hệ cung cấu, lạm phát, thất nghiệp, tệ nạn xã hội gia
tăng, tình hình an ninh chính trị bất ổn…


 Trong quan hệ kinh tế đối ngoại
Rủi ro tín dụng làm ảnh hưởng đến vị thế và hình ảnh của hệ thống ngân
hàng – tài chính quốc gia cũng như toàn bộ nền kinh tế của quốc gia đó.
Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra sẽ gây ảnh hưởng ở các
mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi phải trích lập
dự phòng, không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu
được vốn gốc và lãi vay, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và
mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị
phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản lý ngân hàng phải hết sức
thận trọng và có những giải pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho
vay
1.3

Quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng

1.3.1 Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng

 Khái niệm
Khi bắt đầu xem xét một khoản tín dụng, ngân hàng cần lường trước những rủi
ro có thể xảy ra. Đây cũng chính là xuất phát điểm hình thành nên những ý tưởng
quản lý rủi ro tín dụng của NHTM. Mặc dù RRTD là một hiện tượng tiềm ẩn,
nhưng do tính lặp lại của rủi ro nên có thể nhận biết được quy luật của nó, chính
vì điều này mà ngân hàng có thể tìm ra những giải pháp quản lý nhằm hạn chế
khả năng xảy ra RRTD và giảm thiểu nó một cách tối đa.
Như vậy, quản lý rủi ro tín dụng là: việc tổ chức, điều khiển và thực hiện các
hoạt động, các quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng nhằm đảm bảo an toàn
tín dụng, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất mà ngân hàng có thể chấp nhận được.
Quản lý RRTD bao gồm toàn bộ quá trình thẩm định đánh giá trước khi khoản


24


vay được phê duyệt cùng với toàn bộ quá trình giám sát và báo cáo việc tuân thủ
những cam kết tín dụng. Công tác quản lý này được thực hiện ngay từ khi xem
xét hồ sơ xin vay vốn, thẩm định khách hàng, ký kết hợp đồng tín dụng và việc
thực hiện giải ngân và kiểm soát khi cho vay đến việc thu nợ và xử lý nợ quá
hạn.
Quản lý RRTD có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Vì RRTD mang tính gián tiếp, đa dạng, phức tạp, mang tính tất yếu, luôn
tồn tại và gắn liền với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặt khác, hiệu quả
kinh doanh lại phụ thuộc vào mức độ rủi ro. Mức thu nhập ngày càng cao thì
mức độ rủi ro tiềm ẩn sẽ ngày càng lớn và ngược lại, điều đó được đúc kết qua
thực tế, nhưng cho tới nay vẫn chưa có lời giải nào chính xác cho bài toán đó. Vì
vậy, các NHTM mong muốn đạt được kết quả kinh doanh cao với mức độ rủi ro
có thể kiểm soát được, tuỳ từng thời kỳ mà mỗi ngân hàng sẽ đề ra những kế
hoạch và chiến lược khác nhau để giải quyết được cả hai vấn đề luôn tồn tại
song hành Thu nhập và Rủi ro.
 Yêu cầu quản lý rủi ro tín dụng
Việc quản lý rủi ro tín dụng phải được quan tâm và đáp ứng các yêu
cầu sau:
 Tạo lập được một danh mục tín dụng hợp lý, có khả năng sinh lời cao,
ít rủi ro và khi cần thiết có thể chứng khoán hóa để hỗ trợ thanh khoản.
 Tạo ra sự chủ động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bộ phận
tác nghiệp nhằm tìm kiếm các khoản vay có khả năng sinh lời cao và ít rủi
ro.

 Có những quy định để thực hiện thống nhất, minh bạch các bước công
việc trong quá trình cho vay, có các quy định hợp lý về cơ cấu, tỷ lệ.
 Đảm bảo phản ánh minh bạch, chính xác chất lượng danh mục tín

dụng, trích đủ dự phòng để bù đắp những rủi ro phát sinh trong quá trình cho
vay.

 Có hệ thống kiểm tra, kiểm soát thích hợp để phát hiện, ngăn ngừa và
xử lý kịp thời các rủi ro phát sinh đối với danh mục tín dụng

25


×