BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------
LƯƠNG XUÂN HIỆU
QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
THỰC DÂN CỦA BỒ ĐÀO NHA
Ở BRAXIN (1500 – 1822)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2014
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------
LƯƠNG XUÂN HIỆU
QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
THỰC DÂN CỦA BỒ ĐÀO NHA
Ở BRAXIN (1500 – 1822)
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60. 22. 03. 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lương Thị Thoa
HÀ NỘI - 2014
2
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lương Thị Thoa – người đã tận
tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện luận
văn.
Đồng thời, em xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến Ban chủ nhiệm, các thầy
giáo, cô giáo trong khoa Lịch sử, trường Đại học sư phạm Hà Nội đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Lời cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã
luôn động viên khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể
hoàn thành tốt luận văn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2014
Tác giả
Lương Xuân Hiệu
MỤC LỤC
3
MỞ ĐẦU ….………………………………………………………………….
1
1.
Lý do chọn đề tài ………………………………………………………….
2.
1
Lịch sử nghiên cứu vấn đề ………………………………………………..
3.
3
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………..….……..
4.
6
Phạm vi và phương pháp nghiên cứu ……………………..…….……….
5.
6
Đóng góp của luận văn …………………………………………………….
6.
7
Cấu trúc của luận văn ……………………………………………………..
7
NỘI DUNG ……………………………………………………………………
9
Chương 1 : QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC BRAXIN CỦA THỰC DÂN
BỒ ĐÀO NHA (1500 - 1548) ……………………………………………….
9
1.1. Bối cảnh lịch sử của quá trình xâm lược ……………………………..
9
1.1.1. Tình hình Bồ Đào Nha trước và trong quá trình
xâm lược Braxin ……………………………………………………….
9
1.1.2. Tình hình Braxin trước sự xâm lược của thực dân
4
Bồ Đào Nha ...…………………………………………………………..
17
1.2. Quá trình xâm lược Braxin của thực dân Bồ Đào Nha
(1500 - 1548) ....……………………………………………………………....
25
1.2.1. Thời kỳ phát hiện ra Braxin (1500 - 1502) ……………………..
26
1.2.2. Thời kỳ hệ thống thương điếm (1502 - 1534) …………………
27
1.2.3. Thời kỳ định cư (1534 - 1548) …………………………………
29
Tiểu kết chương 1 ……………………………………………………………..
36
Chương 2 : CHÍNH SÁCH THỰC DÂN CỦA BỒ ĐÀO NHA Ở
BRAXIN (1549 - 1822) ………………………………………………………
38
2.1. Tổ chức bộ máy chính quyền cai trị …………………………………..
38
2.2. Chính sách kinh tế ………………………………………………………
43
2.2.1. Lập đồn điền trồng mía và ngành công nghiệp đường …………
43
5
2.2.2. Đẩy mạnh khai thác vàng và kim cương ………………………
51
2.2.3. Nắm độc quyền thương mại xuyên Đại Tây Dương
với Braxin ………………………………………………………………
56
2.3. Chính sách văn hóa giáo dục ………………………………………….
64
Tiểu kết chương 2 …………………………………………………………….
67
Chương 3 : HỆ QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC VÀ
CHÍNH SÁCH THỰC DÂN CỦA BỒ ĐÀO NHA Ở BRAXIN …………
69
3.1. Đối với Bồ Đào Nha …………………………………………………….
69
3.2. Đối với Braxin …………………………………………………………..
73
3.2.1. Tác động về kinh tế …………………………………………………..
73
3.2.2. Tác động về chính trị - xã hội ………………………………………..
75
3.2.2.1. Tàn sát và hủy diệt thổ dân da đỏ …………………………...
75
6
3.2.2.2. Nảy sinh chế độ nô lệ …………………………………………
79
3.2.2.3. Tạo ra sự pha trộn chủng tộc ………………………………...
83
3.2.2.4. Định hình lãnh thổ Braxin ……………………………………
84
3.2.3. Tác động về văn hóa …………………………………………………
88
3.2.3.1. Truyền bá đạo Thiên chúa vào Braxin ……………………....
88
3.2.3.2. Ảnh hưởng của văn hóa Bồ Đào Nha ở Braxin ……………..
91
Tiểu kết chương 3 …………………………………………………………….
93
KẾT LUẬN …………………………………………………………………..
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1500, Pedro Álvares Cabral phát hiện ra Braxin. Đây là một vùng
đất rất rộng lớn với dải đồng bằng phì nhiêu chạy dọc bờ biển, hệ thống đồng
bằng các con sông lớn như Amazon rộng mênh mông bao phủ phần lớn diện
tích Braxin. Tuy nhiên, giai đoạn đầu Bồ Đào Nha cũng chỉ coi Braxin như
các vùng đất khác ở phương Đông, họ lập lên một loạt các thương điếm dọc
bờ biển để tiến hành hoạt động buôn bán. Cây dyewood dùng làm phẩm
nhuộm màu đỏ là mặt hàng có giá trị nhất.
Vào thời điểm người Bồ Đào Nha đặt chân lên đất Braxin, cư dân sinh
sống là người da đỏ (người Indian). Họ vẫn sống trong tình trạng xã hội
nguyên thủy, sống bằng săn bắt, đánh cá, hái lượm. Họ sống tập trung chủ yếu
ở vùng ven biển, họ chưa có nhà nước, chữ viết. Họ luôn luôn gây chiến tranh
với nhau và ăn thịt kẻ thù của mình. Đây là một khó khăn lớn cho người Bồ
Đào Nha với một vùng đất rộng lớn lại do người bản địa hiếu chiến cai quản,
không có một bộ máy chính quyền tồn tại, tài nguyên không có gì ngoài cây
dyewood.
Từ khi hoạt động buôn bán với phương Đông của người Bồ Đào Nha
bắt đầu suy yếu và vùng đất Braxin rộng lớn đứng trước nguy cơ đe dọa bị
xâm nhập của người Pháp cũng như tham vọng mở rộng lãnh thổ của người
Tây Ban Nha. Bồ Đào Nha mới quan tâm thực sự đến vùng đất rộng lớn này.
Chính sách định cư được người Bồ Đào Nha sử dụng như là một biện pháp để
khẳng định quyền sở hữu vùng đất và là cơ sở để Bồ Đào Nha chống lại các
cuộc xâm nhập của người Pháp, người Tây Ban Nha từ ngoài biển.
Từ năm 1549, nhà vua Bồ Đào Nha đã thiết lập được bộ máy chín
8
quyền cai trị ở Braxin. Tuy nhiên, bộ máy chính quyền thuộc địa rất lỏng lẻo.
Nhà vua chỉ quản lý gián tiếp thuộc địa thông qua một Thống đốc nắm toàn
quyền ở Braxin. Thống đốc thực hiện các nhiệm vụ nhà vua giao cho qua các
bản hướng dẫn thường trực (regimentos). Tòa án Hoàng gia cũng được thành
lập ở Braxin để bảo vệ quyền lợi cho nhà vua. Các Hội đồng thành phố là cơ
quan quyền lực ở địa phương cũng được nhà vua quản lý chặt chẽ. Nhà vua
Bồ Đào Nha đã sử dụng giáo lý của nhà thờ Công giáo để biện minh cho hoạt
động thực dân của mình ở Braxin. Đồng thời, nhà thờ dựa vào chính quyền
thực dân để mở rộng hoạt động truyền giáo của mình ra khắp lãnh thổ Braxin.
Người Bồ Đào Nha đã trồng cây mía và sản xuất đường để phục vụ cho
xuất khẩu. Với đất đai rộng lớn, phì nhiêu, Braxin đã trở thành nơi sản xuất
đường lớn nhất thế giới. Hoạt động thương mại giữa Bồ Đào Nha với Braxin
thông qua Đại Tây Dương trở thành con đường thương mại trên biển chủ yếu
của người Bồ Đào Nha. Từ thế kỷ XVIII, ngoài mía đường, người Bồ Đào
Nha đã tìm thấy và khai thác sản lượng lớn vàng và kim cương ở Braxin.
Điều này đã đem lại sự giàu có cho Hoàng gia Bồ Đào Nha.
Tuy nhiên, khi người Bồ Đào Nha đến định cư ở Braxin từ năm 1534,
họ đã tàn sát người da đỏ cả ở vùng ven biển và trong nội địa Braxin, làm cho
dân số người bản địa suy giảm nhanh chóng. Chế độ nô lệ được hình thành
với chủ nô là chủ đồn điền, chủ nhà máy bóc lột nô lệ người Indian và sau đó
là người da đen. Chế độ nô lệ là vết nhơ mà người Bồ Đào Nha đã để lại ở
Braxin.
Trong suốt hơn 300 năm cai trị ở Braxin, Bồ Đào Nha đã tạo nên một
dân tộc Braxin với sự đa dạng chủng tộc gồm người người da trắng, người da
đen, người bản địa và người lai giữa các chủng tộc. Người Bồ Đào Nha đã
không ngừng mở rộng lãnh thổ Braxin về phía bắc, phía nam và vào sâu trong
nội địa. Điều này đã định hình nên lãnh thổ Braxin rộng lớn như ngày nay.
9
Trong suốt thời kỳ thuộc địa, chính quyền thực dân Bồ Đào Nha đã tạo điều
kiện để các dòng tu Kitô giáo mở rộng truyền giáo ra khắp lãnh thổ Braxin.
Văn hóa Bồ Đào Nha có ảnh hưởng sâu sắc và định hình nên nền văn hóa
Braxin.
Với những nhận thức như trên, việc nghiên cứu quá trình xâm lược và
chính sách thực dân của Bồ Đào Nha ở Braxin vừa có ý nghĩa về mặt khoa
học vừa có ý nghĩa thực tiễn. Về ý nghĩa khoa học, đề tài giúp hiểu rõ quá
trình xâm lược của Bồ Đào Nha ở Braxin và các chính sách thực dân của Bồ
Đào Nha ở Braxin về tổ chức bộ máy chính quyền cai trị, khai thác kinh tế và
chính sách văn hóa giáo dục. Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài góp phần làm sáng
tỏ bản chất của chủ nghĩa thực dân, từ đó đánh giá đúng đắn mặt tiêu cực và
tích cực của nó. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu quá trình xâm lược và chính
sách thực dân của Bồ Đào Nha đối với Braxin là vấn đề mang tính cấp thiết.
Do đó, tác giả quyết định chọn vấn đề : Quá trình xâm lược và chính sách
thực dân của Bồ Đào Nha ở Braxin (1500 - 1822) làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài luận văn là một vấn đề mới, chưa được các nhà nghiên cứu trong
nước quan tâm, do đó nguồn tài liệu bằng tiếng Việt rất hạn chế. Trong số các
tài liệu ít ỏi đó, cuốn giáo trình Lịch sử thế giới cận đại của Vũ Dương Ninh,
Nguyễn Văn Hồng, Nxb Giáo dục, 2004 có ý nghĩa quan trọng. Trong phần
lịch sử cận đại khu vực Mỹ La tinh, tác giả đã trình bày chế độ kinh tế xã hội
và tổ chức bộ máy chính quyền cai trị của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Nguồn tài liệu tiếng Anh của các tác giả nước ngoài khá phong phú,
nghiên cứu sâu sắc, toàn diện về chế độ thực dân Bồ Đào Nha ở Braxin theo
quan điểm của các sử gia phương Tây.
10
1. Đầu tiên phải kể đến cuốn The Cambridge history of Latin America
(Lịch sử Mỹ La tinh của Cambridge) do Leslie Bethell làm chủ biên, bao gồm
10 tập của nhà xuất bản Đại học Cambridge, Luân Đôn. Trong đó, 2 tập đầu
tiên viết về thời kỳ thuộc địa được xuất bản năm 1984. Volume I : Colonial
Latin America (Tập 1 : Mỹ La tinh thời thuộc địa) trình bày về đời sống người
Indian vào thời điểm người Bồ Đào Nha đặt chân đến Braxin năm 1500, quá
trình xâm lược của người Bồ Đào Nha và tổ chức bộ máy chính quyền thực
dân. Ngoài ra, tác giả còn nêu tóm tắt hoạt động truyền giáo của Giáo hội
Công giáo thời thuộc địa. Volume II : Colonial Latin America (Tập 2 : Mỹ La
tinh thời thuộc địa) trình bày về dân số Braxin thời thuộc địa, cấu trúc kinh tế
xã hội Braxin, thành tựu về kiến trúc và nghệ thuật thời thuộc địa.
2. Trên cơ sở tổng hợp tập 1 và 2 về thời kỳ thuộc địa Mỹ La tinh của
bộ sách Lịch sử Mỹ La tinh của Cambridge (The Cambridge history of Latin
America, Volume I + II : Colonial Latin America), Leslie Bethell đã biên soạn
riêng về lịch sử thuộc địa Braxin trong cuốn Colonial Brazil (Thuộc địa
Braxin) do nhà xuất bản Đại học Cambridge, Luân Đôn in năm 1987. Tác giả
trình bày quá trình định cư của người Bồ Đào Nha từ 1500 – 1580, mối quan
hệ về kinh tế chính trị giữa Bồ Đào Nha với Braxin từ 1580 – 1750, hoạt động
của đồn điền trồng mía từ 1580 – 1750, khai thác vàng kim cương từ 1690 –
1750.
3. Cuốn A history of Latin America from the beginnings to the present
(Lịch sử Mỹ La tinh từ khởi thủy đến hiện tại) của Hubert Herring, Nxb
Alfred A. Knopf, New York, 1967. Trong phần một chương ba, tác giả đề cập
đến tình hình Bồ Đào Nha trước cuộc xâm lược Braxin. Trong phần 2 chương
12 tác giả trình bày quá trình định cư và tổ chức bộ máy chính quyền Bồ Đào
Nha từ năm 1500 - 1580, hoạt động truyền giáo của các linh mục dòng Tên.
11
4. Cuốn A history of Latin America (Lịch sử Mỹ La tinh) của Benjamin
Keen và Keith Haynes, Nxb Houghton Mifflin Harcourt, Boston, 2009. Trong
phần 1 : Di sản thuộc địa Mỹ La tinh, tác giả dành riêng chương 6 để nói về
những đặc trưng chính của thuộc địa Braxin : thời kỳ hoạt động của thương
điếm, thành lập hệ thống captaincy, chính sách của Bồ Đào Nha với người
bản địa; các hoạt động khai thác như : đồn điền trồng mía, khai thác vàng và
hoạt động thương mại; tổ chức bộ máy chính quyền, chế độ nô lệ.
5. Cuốn A brief history of Brazil (Tóm tắt lịch sử Braxin) của Teresa A.
Meade, sách điện tử của nhà xuất bản Infobase, New York, 2004. Tác giả
dành 3 chương đầu để giới thiệu tóm tắt về thời kỳ thuộc địa. Chương một
tóm tắt về vùng đất và con người trước khi người Bồ Đào Nha đặt chân đến.
Chương hai tóm tắt về tình hình kinh tế, chính trị Braxin. Chương ba tóm tắt
về chế độ nô lệ, chế độ gia trưởng và hoạt động của nhà thờ.
6. Cuốn A History of Portugal and the Portuguese Empire, Volume II :
The Portuguese Empire (Lịch sử Bồ Đào Nha và đế chế Bồ Đào Nha, tập 2 :
đế chế Bồ Đào Nha) của tác giả A. R. Disney, Nxb Đại học Cambridge, New
York, 2009. Tác giả dành chương 22, 23, 24 để viết khái quát về thời kỳ thuộc
địa Braxin. Chương 22, tác giả trình bày về thời kỳ định cư, thành lập chính
quyền Hoàng gia, sự tan rã của xã hội người bản địa ven biển, hoạt động của
các linh mục dòng Tên, Hà Lan xâm lược vùng đông bắc Braxin. Chương 23
trình bày về các hoạt động kinh tế thực dân và chế độ nô lệ, sự mở rộng lãnh
thổ về phía bắc và phía nam.
7. Cuốn Brazil : Five centuries of change (Braxin : 5 thế kỷ thay đổi)
của Thomas E. Skidmore, Nxb Đại học Oxford, New York, 1999. Tác giả
dành chương một viết về quá trình hình thành và phát triển của thuộc địa từ
1500 – 1750, gồm các nội dung : con người Braxin, bộ máy chính quyền thực
dân, mở rộng biên giới; cấu trúc văn hóa, kinh tế, xã hội Braxin.
12
8. Cuốn Modern Latin America (Mỹ La tinh hiện đại) của tác giả
Thomas E. Skidmore và Peter H. Smith, Nxb Đại học Oxford, New York,
2005. Tác giả đề cập đến bản chất của thuộc địa Braxin như một thế giới khác
biệt với thế giới Mỹ La tinh của Tây Ban Nha.
Các công trình nghiên cứu trên có mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
khác nhau, đã làm rõ một số nội dung của đề tài. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu này chưa nghiên cứu chuyên sâu về quá trình xâm lược và chính
sách thực dân của Bồ Đào Nha ở Braxin từ năm 1500 đến năm 1822 và những
hệ quả của nó. Vì vậy, tác giả sử dụng các công trình nghiên cứu trên để tổng
hợp và làm rõ trong nội dung của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là làm rõ quá trình xâm lược và những chính
sách thực dân của Bồ Đào Nha ở Braxin từ 1500 – 1822, từ đó bước đầu đánh
giá những hệ quả của quá trình xâm lược và những chính sách thực dân của
Bồ Đào Nha đối với Braxin.
3.2. Nhiệm vụ
Đề tài nghiên cứu những nội dung cơ bản sau :
- Quá trình xâm lược của thực dân Bồ Đào Nha ở Braxin (1500 –
1548).
- Các chính sách thực dân của Bồ Đào Nha thực hiện ở thuộc địa
Braxin (1549 - 1822).
- Phân tích hệ quả của công cuộc xâm lược và chính sách thực dân của
Bồ Đào Nha ở Braxin (1500 - 1822).
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
13
- Về thời gian : Luận văn nghiên cứu quá trình xâm lược, chính sách
thực dân của Bồ Đào Nha ở Braxin từ 1500 – 1822 (từ khi người Bồ Đào Nha
phát hiện ra Braxin năm 1500 đến khi Braxin tuyên bố độc lập năm 1822).
- Về không gian : Luận văn tập trung tìm hiểu quá trình xâm lược và
chính sách thực dân của Bồ Đào Nha ở Braxin.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic trên cơ sở phương pháp
luận sử học Mác xít và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân. Ngoài
ra, tác giả còn vận dụng các phương pháp : tổng hợp, thống kê, phân tích để
giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là một đề tài mới, nội dung của nó không được đề cập cụ thể
trong các tài liệu nghiên cứu trong nước, do đó tác giả hy vọng luận văn có
một số đóng góp nhỏ sau đây :
- Làm rõ quá trình xâm lược và chính sách thực dân của Bồ Đào Nha ở
Braxin từ 1500 – 1822 trên cơ sở khảo cứu và tổng hợp các nguồn tài liệu từ
nước ngoài.
- Góp phần đánh giá bước đầu về những hệ quả của quá trình xâm lược
và cai trị của thực dân Bồ Đào Nha ở Braxin.
Trên cơ sở những đóng góp đó, luận văn có thể là tài liệu tham khảo
hữu ích trong dạy học lịch sử khu vực Mỹ La tinh thời cận đại ở trường trung
học phổ thông.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương :
Chương 1 : Quá trình xâm lược của thực dân Bồ Đào Nha ở Braxin
(1500 – 1548)
14
Chương 2 : Chính sách thực dân của Bồ Đào Nha ở Braxin (1549 1822)
Chương 3 : Hệ quả của quá trình xâm lược và chính sách thực dân của
Bồ Đào Nha ở Braxin (1500 - 1822)
15
NỘI DUNG
Chương 1 : QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC BRAXIN CỦA THỰC DÂN
BỒ ĐÀO NHA (1500 - 1548)
1.1. Bối cảnh lịch sử của quá trình xâm lược
1.1.1. Tình hình Bồ Đào Nha trước và trong quá trình xâm lược Braxin
Trước thế kỷ XI, Bồ Đào Nha nằm dưới sự thống trị của người Hồi
giáo, giống như những vùng đất khác trên bán đảo Iberia. Từ phong trào
Reconquista (Phục hồi), nước Bồ Đào Nha độc lập ra đời, với việc Henrique
de Borgonha lập nên vương triều Borgonha, cai trị từ năm 1093 đến năm 1383
(ban đầu Henrique vẫn mang danh hiệu Bá tước, nhưng con trai kế nghiệp của
ông là Afonso I đã xưng vua năm 1139).
Nét đặc biệt của quá trình thiết lập vương quốc Bồ Đào Nha là đã diễn
ra hai cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược, can thiệp của ngoại bang : thế
lực Hồi giáo và các vương quốc khác trên bán đảo Iberia. Nếu như cuộc đấu
tranh chống người Hồi giáo dẫn đến sự thành lập vương triều thứ nhất vương triều Borgonha, thì cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược của xứ
Castilla (vương hầu Castilla muốn giành ngôi vua Bồ Đào Nha), dẫn tới sự
thành lập vương triều thứ hai - vương triều Aviz (1358 - 1580). Năm 1580, Bồ
Đào Nha bị sáp nhập vào Tây Ban Nha, do vương triều Habsbuorg cai trị.
Đến năm 1640, Bồ Đào Nha mới giành lại được độc lập.
Thời kỳ cai trị của vương triều Aviz là thời kỳ Bồ Đào Nha đã đạt tới
đỉnh cao về kinh tế, chính trị, quân sự. Các vua Bồ Đào Nha như : John I
(1385 - 1433), được gọi là “John đại đế”; John II (1481 - 1495), người được
biết đến như là “John hoàn hảo”; Manoel I (1495 - 1521), được vinh danh là
“Người may mắn”; John III (1521 - 1557) cũng được gán cho danh hiệu
“Người may mắn” đã đưa Bồ Đào Nha trở thành đế quốc thực dân châu Âu
16
đầu tiên thiết lập được hệ thống thuộc địa giàu có ở châu Á (tây nam Ấn Độ,
Macao, Malacca …), châu Phi (bờ biển Đông Phi), Nam Mỹ (Braxin).
* Sự hình thành và phát triển của đế quốc thực dân Bồ Đào Nha
Sau khi Vasco da Gama tìm được con đường biển sang Ấn Độ năm
1498, Bồ Đào Nha làm mọi cách để nắm độc quyền thương mại ở Ấn Độ
Dương. Trước hết, Bồ Đào Nha tìm cách loại các đối thủ cạnh tranh của mình
là người Arập, Ai Cập và Vơnidơ (Ý). Năm 1503, hạm đội Bồ Đào Nha tới
đóng ở Ấn Độ Dương để bắt các tàu biển của người Arập đi từ Ai Cập qua
Hồng Hải tới Ấn Độ. Họ chiếm giữ đảo Xôcôtra, án ngữ eo Đácđanen thông
với Ấn Độ Dương và chiếm giữ vịnh Ocmurơ để ngăn chặn con đường từ
Bátđa đến Pécxích. Năm 1509, một cuộc hải chiến giữa người Bồ Đào Nha và
người Arập đã diễn ra ở Địa Trung Hải. Kết quả là người Arập thất bại. Từ đó,
Bồ Đào Nha độc chiếm con đường hàng hải buôn bán với Ấn Độ. Bất cứ
thuyền bè nào qua con đường này đều phải xin phép người Bồ Đào Nha, còn
thuyền buôn của người Arập đều phải nộp thuế cho họ.
Sau đó, người Bồ Đào Nha còn tiến xa hơn nữa sang phía Đông, vì họ
biết rằng các hương liệu và gia vị quý giá không phải chỉ có ở Ấn Độ, mà còn
có rất nhiều ở các đảo thuộc Inđônêxia. Vì thế, năm 1509, họ tới đảo
Xumatơra. Đến năm 1511, họ chiếm Malắcca và đảo Giava, án ngữ con
đường buôn bán Ấn Độ - Trung Quốc. Bồ Đào Nha tiếp tục tiến xa lên phía
Bắc. Năm 1520, họ tới Macao (Trung Quốc). Năm 1542, họ tới Nhật Bản.
Như vậy, một đế quốc thực dân rộng lớn Bồ Đào Nha đã được thiết lập, trải
dài trên 8000 km bờ biển, rải rác dọc bờ biển châu Phi, Ấn Độ, sang đến đảo
Môluých trên Thái Bình Dương [14; 97]. Ngoài ra còn thêm một phần Nam
Mỹ là Braxin, được coi là thuộc địa của Bồ Đào Nha từ năm 1500 sau phát
kiến của Cabral.
17
Thực dân Bồ Đào Nha đã thu được nguồn lợi nhuận khổng lồ từ việc
buôn bán hương liệu, tơ lụa và các thứ quý giá khác từ phương Đông. Chúng
sử dụng các biện pháp chia rẽ, mua chuộc các vương quốc địa phương để
cướp đoạt hay bắt cống nạp hàng hóa. Thương nhân Bồ Đào Nha mua hàng
hóa với giá rẻ như : trâm, tơ lụa, thuốc phiện, ngọc, gạo, đường, vải bông (ở
Điu), hồ tiêu (ở Goa, Calicút) và những mặt hàng khác. Trong đó, buôn bán
hồ tiêu có vai trò quan trọng. Bồ Đào Nha trở thành nhà phân phối hồ tiêu độc
quyền ở châu Âu và bán với giá cao gấp 7 - 8 lần số tiền đã phải chi phí [3;
492]. Lisbon trở thành chợ lớn buôn bán gia vị cho toàn châu Âu và trở thành
một trong những thành phố sầm uất nhất châu Âu thời đó. Tuy nhiên, những
của cải cướp được ở các thuộc địa đều lọt vào tay giai cấp quý tộc phong kiến
Bồ Đào Nha. Kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp ở Bồ Đào Nha không
được chú trọng phát triển, mà còn bị hủy hoại. Bồ Đào Nha phải nhập hàng
hóa từ các nước có nền kinh tế công thương nghiệp phát triển như Anh, Pháp.
Chẳng bao lâu sau, số vàng bạc và của cải cướp được ở thuộc địa của Bồ Đào
Nha đã chuyển sang các nước có nền kinh tế công thương nghiệp phát triển.
Sự thịnh vượng của đế quốc Bồ Đào Nha ở phương Đông chỉ tồn tại
trong thế kỷ XVI. Chính sách thực dân của Bồ Đào Nha là vừa buôn bán, vừa
cướp bóc thuộc địa. Bởi vì Bồ Đào Nha có dân số ít, họ chưa đi sâu vào các
vùng thuộc địa, chưa tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, cũng như chưa
mở rộng lãnh thổ chiếm đóng. Bồ Đào Nha chỉ chiếm một số địa điểm ven
biển đặt làm hải cảng và xây dựng các thương điếm. Bồ Đào Nha đã không
khai thác được các nguồn tài nguyên thiên nhiên và không thiết lập được nền
tảng kinh tế ở các thuộc địa cho sự thống trị của mình. Hà Lan, Anh, Pháp đã
xây dựng được nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, sản xuất hàng hóa hàng
loạt, làm giảm giá cả sản phẩm. Bồ Đào Nha không có một nền sản xuất công
nghiệp phát triển, họ phải mua sản phẩm công nghiệp từ Anh, Pháp, Hà Lan.
18
Trong thế kỷ XVII, Hà Lan, Anh, Pháp đã tìm cách bành trướng thuộc địa,
cạnh tranh gay gắt với Bồ Đào Nha. Ở Inđônêxia, người Hà Lan đã hất cẳng
người Bồ Đào Nha. Ở Ấn Độ, người Bồ Đào Nha cũng phải nhường chỗ cho
người Anh.
Tuy nhiên, Bồ Đào Nha thực hiện chính sách thực dân ở Braxin khác so
với phương Đông. Braxin không có sẵn các loại hương liệu, tơ lụa, vàng bạc
như ở phương Đông. Cây dyewood dùng làm thuốc nhuộm trong ngành công
nghiệp dệt ở châu Âu, là mặt hàng có giá trị duy nhất. Trong hơn 30 năm đầu
của thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha đã lập ra nhiều thương điếm dọc bờ biển Braxin
để buôn bán loại cây gỗ này. Từ năm 1534, những người định cư Bồ Đào Nha
đã bắt đầu khai phá đất đai để trồng cây mía. Đến giữa thế kỷ XVI, các đồn
điền trồng mía và nhà máy đường sản xuất ra sản lượng lớn đường, phục vụ
cho hoạt động xuất khẩu sang châu Âu của các thương nhân Bồ Đào Nha. Giá
đường bán trên thị trường châu Âu được đẩy cao, do Braxin là nơi cung cấp
đường chủ yếu cho châu Âu. Đồng thời, việc buôn bán nô lệ từ bờ biển châu
Phi cung cấp cho các đồn điền và nhà máy sản xuất đường ở Braxin cũng đem
lại nguồn thu lớn cho các thương nhân Bồ Đào Nha. Cuối thế kỷ XVII, vàng
và kim cương được phát hiện và khai thác ở Braxin, đã thỏa mãn ước mơ tìm
thấy vàng của người Bồ Đào Nha trên đất Braxin.
Như vậy, Bồ Đào Nha đã xây dựng được nền tảng kinh tế vững chắc ở
thuộc địa Braxin, dựa trên nền kinh tế sản xuất đường và khai thác vàng, kim
cương. Do vậy, Bồ Đào Nha đã duy trì được ách cai trị ở Braxin trong suốt
hơn 300 năm (1500 - 1822). Ở phương Đông, Bồ Đào Nha đã không làm
được điều này, dẫn tới mất dần các thuộc địa vào tay các nước Anh, Pháp, Hà
Lan. Bồ Đào Nha không xây dựng được nền công nghiệp sản xuất hàng hóa
theo phương thức tư bản chủ nghĩa ở chính quốc. Tuy nhiên, Bồ Đào Nha sở
19
hữu thuộc địa Braxin rộng lớn, giàu có, nên tiếp tục duy trì được vị thế của
mình so với các quốc gia khác ở châu Âu.
* Tình hình văn hóa - xã hội Bồ Đào Nha thế kỷ XV – XVI :
Bồ Đào Nha có diện tích nhỏ, đất đai canh tác không được màu mỡ,
dân cư không đông, nên nền kinh tế nông nghiệp không có điều kiện phát
triển. Những trận dịch hạch đen đã tàn phá dân số và nền nông nghiệp Bồ Đào
Nha, để lại hậu quả nghiêm trọng : dân cư nông thôn giảm sút, dân cư thành
thị tăng lên, không phải do sự phát triển của kinh tế thủ công nghiệp và
thương nghiệp mà là sự vận động cơ học do hậu quả của tình trạng nghèo nàn
và nạn dịch hạch. Điều này khiến cho những nhà quý tộc nắm giữ đất đai lâm
vào khủng hoảng : thiếu hụt nhân công, thiếu hụt nguồn thu thuế. Vì vậy, các
quý tộc địa chủ, dân nghèo thành thị, nông dân có ít ruộng sẵn sàng ra đi đến
vùng đất mới giàu có, rộng lớn để định cư, mong muốn tìm kiếm một cuộc
sống mới tốt đẹp hơn.
Sau khi Vasco da Gama tìm được con đường biển sang Ấn Độ năm
1498, rất nhiều đại lý thương mại được thành lập ở Ấn Độ, Trung Quốc,
Malắcca và các nơi khác để thu mua hương liệu, tơ lụa và các thứ quý giá
khác chở về châu Âu. Người Bồ Đào Nha vừa buôn bán vừa cướp đoạt đã
đem về cho các thương nhân và quý tộc một nguồn lợi nhuận vô cùng to lớn.
Nhờ đó đã tạo ra vốn và tiềm lực kinh tế cho Bồ Đào Nha để tiếp tục đầu tư
vào thương mại hoặc các thuộc địa, trong đó có Braxin.
Nhà thờ Kitô giáo đóng một vai trò quan trọng trong quá trình xâm
lược Braxin. Kitô giáo của người Bồ Đào Nha có sự khác biệt rõ rệt so với
Kitô giáo của người Tây Ban Nha. Nếu so sánh với những người đến từ vùng
Castilla, nhà thờ của người Bồ Đào Nha đã có sự tiếp xúc từ sớm với những
tín đồ Hồi giáo, người châu Phi Negroes và người nước ngoài phiêu dạt vào,
do vậy giáo lý của nó có sự dung hòa với các tôn giáo khác. Freyre, một
20
người Braxin viết rằng : “tôn giáo Bồ Đào Nha không là hệ thống cứng nhắc
và khắc nghiệt của các quốc gia Tân giáo ở phía bắc hoặc thậm chí là Công
giáo bảo thủ của Castile; tôn giáo của họ thiên về nghi thức xã hội hơn là tôn
giáo, lời bài hát đạo Kitô êm dịu với nhiều tưởng tượng về sinh thực khí và
thuyết duy linh của hệ thống thờ cúng tôn giáo của người ngoại giáo” [29;
87]. Đồng thời, Kitô giáo ở Bồ Đào Nha cũng đi theo lối của Tây Ban Nha :
nó đã thiết lập nên Tòa án dị giáo vào năm 1536, đã chào đón các giáo sỹ
dòng Tên vào năm 1540, đã tiếp thu một số giáo lý mới thể hiện đặc trưng của
nhà thờ Tây Ban Nha. Nhưng Bồ Đào Nha không sản sinh ra những giáo sĩ
như Isabella, Cardinal Jimenez, Ignatius Loyola, Theresa hay Luis de Leon.
Nó phát triển mà không có các chức vụ cao như ở thời đại hoàng kim của Tây
Ban Nha.
Người Bồ Đào Nha đã có sự tiếp xúc từ lâu với nền văn hóa của người
da đen, người theo đạo Hồi, nên họ dễ dàng chấp nhận tự nhiên đối với tất cả
các chủng tộc, các nền văn hóa. Một người Braxin đã miêu tả về thực dân Bồ
Đào Nha như sau : “trong sự tôn trọng nhất định, người Bồ Đào Nha giống
với người Anh, cũng như những người Tây Ban Nha khác. Một người Tây
Ban Nha không có ngọn lửa hiếu chiến hoặc tính chính thống rõ rệt của người
đi xâm chiếm Mexico và Peru; một người Anh không có đặc trưng khắc
nghiệt của người Peru. Một kiểu người thỏa hiệp. Với việc không có ý tưởng
cụ thể, không có định kiến kiên định… của tính mềm dẻo xã hội lớn hơn…
như so sánh với những kẻ thực dân châu Âu khác” [29; 88].
* Sự hình thành và lớn mạnh của nền quân chủ chuyên chế Bồ Đào
Nha :
Trong giai đoạn từ 1300 - 1500, ở Bồ Đào Nha đã diễn ra một cuộc đấu
tranh lâu dài và căng thẳng giữa xu hướng hướng tâm và xu hướng ly tâm
trong cơ cấu quyền lực của bộ máy nhà nước. Vương triều Borgonha và
21
vương triều Aviz đều cố gắng tập trung quyền lực quốc gia vào tay mình, còn
bên kia là những lực lượng có xu hướng ly tâm là nhà thờ, quân đội và quý
tộc. Trong cuộc đấu tranh đó, vương triều hoàng tộc đã lôi kéo tầng lớp quân
đội và quý tộc dân sự về phía mình, bởi vì sự ủng hộ của phe nhà thờ đối với
việc tập trung quyền lực của nhà vua vô cùng khó khăn.
Chính quyền nhà vua không đủ sức tấn công vào nhà thờ, do “sức mạnh
tinh thần mà nhà thờ và linh mục ảnh hưởng lên dân thành thị và dân cư ở
những vùng thôn quê hẻo lánh vẫn là rất đáng kể, thậm chí nếu như họ nắm
giữ các khu đất rộng lớn, thì sức mạnh về kinh tế của họ khiến cho không ai
có thể tấn công trực diện mà thành công được. Vì thế, phía Hoàng gia đã
không thể nào hướng sức ép thực sự về việc tập trung hóa quyền lực của mình
vào thế lực nhà thờ được, mà nhắm vào giai cấp quý tộc địa chủ” [45; 33].
Do vậy, nhà vua Bồ Đào Nha củng cố vương quyền bằng cách khống
chế và điều khiển bộ phận quý tộc địa chủ.
Sau những biến động lớn, vào thế kỷ XV, một hệ thống cấp bậc rõ ràng
đã hình thành theo mô hình của nước Anh. Tầng lớp quý tộc được phân chia
thành : công tước, hầu tước, bá tước, tử tước, nam tước. Hệ thống cấp bậc
tước vị này về hình thức giống với chế độ phong quân bồi thần ở Tây Âu. Tuy
nhiên, tính chất của nó lại khác : những tước vị đó là do nhà vua ban tặng và
các quý tộc chịu ảnh hưởng từ nhà vua chứ không phải từ những nhà quý tộc
có danh vị cao hơn mình. Cũng có những trường hợp một quý tộc lớn có thể
lôi kéo những quý tộc nhỏ hơn về phe mình trong các cuộc đấu tranh nội bộ,
song đó là một thỏa thuận liên minh chứ không phải nghĩa vụ quân sự của quý
tộc nhỏ với quý tộc lớn.
1/10 trong số quý tộc này là những người kế vị các “Ricos-homens”
(những người giàu có) xưa kia. Tuy nhiên, họ không phải lúc nào cũng là con
cháu trực hệ của các vị này, vào thế kỷ XIV – XV trong nhóm này có một số
22
người là di dân. Cùng trong thời gian này, bộ phận những người sau cùng
trong chính quyền Afonso (1438 - 1481) hay còn gọi là bộ phận quý tộc thứ
hai đã hình thành, họ giữ những vị trí không mấy quan trọng. Sự tồn tại của
bộ phận này nhằm củng cố, tăng cường quyền bính của vương triều [45; 33].
Mặt khác, các vua của vương triều Aviz không những nắm giữ được
tầng lớp quý tộc địa chủ (hạng vừa và nhỏ) mà còn được đông đảo tầng lớp
thị dân ủng hộ. Tầng lớp quý tộc địa chủ và các thị dân này tham gia phe nhà
vua chống lại xu hướng ly tâm của các quý tộc thượng lưu có dòng dõi lâu đời
và còn nhiều mối gắn kết với Tây Ban Nha. Để đề cao quyền lực của mình, có
những thời điểm nhà vua dùng những biện pháp mạnh mẽ về quân sự, trấn áp
những lực lượng muốn chống đối lại mình. Tiêu biểu là sự kiện năm 1484,
John II đã phế truất công tước Braganca, một người rất có ảnh hưởng nhưng
chống lại đường lối khám phá con đường biển tới phương Đông. Không
những vậy, ông còn đày ải một số đồng minh của công tước này [45; 36].
Sau khi đánh bại cuộc tấn công của xứ Castilla năm 1385, vương triều
Aviz phải tiếp tục củng cố nền độc lập của mình, loại bỏ các thế lực muốn hợp
nhất với Tây Ban Nha, luôn luôn thể hiện đường lối độc lập trước âm mưu
thôn tính của Tây Ban Nha và những ảnh hưởng mà vương triều Habsbourg
muốn áp đặt lên Bồ Đào Nha.
Như vậy, đến cuối thế kỷ XV, Bồ Đào Nha có diện tích nhỏ, dân số gần
1,5 triệu người [35; 16] nhưng lại có thể khai phá được đất nước Braxin rộng
lớn với nhiều bộ lạc người da đỏ sống rải rác khắp các vùng đồng bằng và cao
nguyên. Điều này là do Bồ Đào Nha đã xây dựng được chế độ quân chủ
chuyên chế mạnh thời vương triều Aviz, tình hình trong nước tương đối ổn
định. Tầng lớp quý tộc địa chủ sa sút, thị dân nghèo, nông dân ít ruộng sẵn
sàng đến vùng đất mới giàu có, rộng lớn để tìm kiếm một cuộc sống mới tốt
đẹp hơn. Tầng lớp thương nhân, quý tộc Hoàng gia có đủ tiềm lực về kinh tế
23
để đầu tư và chinh phục thuộc địa. Nhà thờ Kitô giáo gần gũi với đời sống
tinh thần của người dân.
1.1.2.
Tình hình Braxin trước sự xâm lược của thực dân Bồ Đào Nha
Trước khi người Bồ Đào Nha đến năm 1500, đất nước Braxin có hàng
trăm bộ lạc người da dỏ (người Indian) sinh sống. Người da đỏ được phân
chia thành bốn nhóm ngôn ngữ chính là Tupi (hoặc Tupi-Guarani), Ge, Carib
và Aruak (Arawak). Ngoài ra, còn có các nhóm ngôn ngữ nhỏ khác ở vùng
biên giới như : Xiriana và Tukano ở phía tây bắc, Panoan và Paezan ở phía
tây, Guaicurus và Charrua ở phía nam.
Nhóm Tupi-Guarani sinh sống dọc ven biển Đại Tây Dương, vùng hạ
lưu sông Amazon và thượng nguồn sông Amazon gần biên giới với Peru.
Nhóm Ge sống ở vùng cao nguyên miền trung Braxin. Họ có thể là con cháu
của các cư dân sinh sống đầu tiên ở Braxin – với những hóa thạch lâu đời nhất
của con người được tìm thấy ở Lagôa Santa nằm trong bang Minas Gerais, có
niên đại hơn 10.000 năm tuổi, giống với thể chất của nhóm Ge hiện đại [36;
119].
Lưu vực sông Amazon là nơi sinh sống và tranh chấp của ba nhóm
ngôn ngữ chính là : Tupi, Aruak và Carib. Đồ gốm khai quật được trên đảo
Majaro ở cửa sông Amazon và ở Satarem có niên đại hơn 2000 năm trước
công nguyên, đã chứng tỏ một xã hội tiến bộ lúc bấy giờ [36; 120]. Nhóm
Aruak sinh sống giữa lưu vực sông Amazon và thượng nguồn sông Madeira,
phía trên đồng bằng Paraguay. Nhóm Carib sinh sống trên vùng cao nguyên
Guyana và hầu hết các nhánh phía bắc của sông Amazon, một số ở nhánh phía
nam sông Amazon và hạ lưu sông Amazon.
* Đời sống kinh tế của người da đỏ :
Phần lớn người da đỏ sống trong các làng trong một khoảng thời gian
ngắn. Nguyên nhân chính cho điều này là vùng đồng bằng Nam Mỹ không có
24
động vật được thuần hóa - không giống như lạc đà không bướu và chuột lang,
những loài động vật cung cấp protein cho những nền văn minh lớn của châu
Mỹ. Người dân ở đây buộc phải săn bắn thú rừng, đánh bắt cá, bắt côn trùng
và hái lượm củ quả trong rừng để sinh sống.
Các khu rừng nhiệt đới Amazon, vùng đồi núi khô của cao nguyên rộng
lớn là những môi trường sinh sống rất khó khăn cho con người. Ngay cả hệ
thống sông Amazon đầy ắp cá, lợn biển, rùa nhưng cũng thường xuyên xảy ra
lũ lụt. Rừng bao phủ phần lớn đất đai Braxin luôn luôn không thích hợp cho
nông nghiệp. Nguyên nhân là đất đá ong bên dưới các khu rừng còn nghèo,
động vật ăn thịt và ký sinh trùng liên tục tấn công, cạnh tranh giữa các thảm
thực vật diễn ra mạnh mẽ, đồng thời dưới ánh nắng mặt trời gay gắt và những
cơn mưa dữ dội không ngớt, cùng với nhiệt độ ít thay đổi theo mùa đã cản trở
sự sinh sôi của thực vật trên cùng một bề mặt. Tất cả những yếu tố này chống
lại hoạt động định cư lâu dài của con người.
Những chiếc bầu đựng nước và rổ rá được dùng phổ biến ở phần lớn
các bộ lạc, mặc dù kiểu đan và mẫu hình giữa các bộ lạc hoàn toàn khác nhau.
Kỹ thuật làm gốm tuyệt đẹp của văn hóa Marajó và Santarém ở vùng ven
sông Amazon thời kỳ đầu dường như không còn tồn tại vào thời điểm diễn ra
những cuộc xâm chiếm của người châu Âu, ngoại trừ các bộ lạc Amagua và
Machiparo ở thượng nguồn sông Amazon. Trong số những bộ lạc còn lại đến
ngày nay, người Xinguano rất nổi tiếng với những chiếc chậu lớn đựng bánh
khoai mì
(1)
và những chiếc đĩa có họa tiết động vật màu đen và đỏ. Người
Karajá tạo ra những bức tượng nhỏ giống như búp bê. Người Kadiwéu trang
trí lên đồ gốm với những hình học lõm sâu, tương tự như những hình họ đã
xăm lên mặt.
1() khoai mì : là
một loại sắn, mọc tự nhiên ở lưu vực sông Amazon
25