BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
––––––––––––––
KHIẾU MINH HUYỀN
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA JACK LONDON
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 60 22 02 45
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn: GS.TS Lê Huy Bắc
HÀ NỘI, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài Nhân vật trong truyện ngắn của Jack
London và toàn bộ nội dung luận văn không phải là sự sao chép
bất cứ một công trình khoa học hay luận văn nào đã được công bố
trong và ngoài nước.
Trong khuôn khổ luận văn, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về:
- Sự phù hợp giữa tên đề tài với nội dung nghiên cứu, với
chuyên ngành cũng như mã số đào tạo.
- Tính trung thực và đầy đủ của các trích dẫn tài liệu tham
khảo.
- Độ tin cậy của các phương pháp nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, tháng 9 / 2014
Người viết luận văn
Khiếu Minh Huyền
LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn GS.TS Lê Huy Bắc, người thầy trực
tiếp hướng dẫn, chỉ dạy em trong quá trình nghiên cứu và thực
hiện đề tài Nhân vật trong truyện ngắn của Jack London. Nhờ sự
giúp đỡ tận tình và động viên của thầy, em đã hoàn thành luận văn
này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng bảo vệ
đề cương tháng 9/ 2013. Nhờ sự nhiệt tình chỉ dẫn của các thầy
cô, em đã khắc phục được những thiếu sót trong luận văn.
Xin cảm ơn sự hỗ trợ quý báu về mặt tinh thần của gia đình, và
sự giúp đỡ của bè bạn đã giúp em tiếp cận và dịch một số tài liệu
có nguồn gốc nước ngoài.
Hà Nội, tháng 9 / 2014
Người viết luận văn
Khiếu Minh Huyền
MỤC LỤC
46. Arthur Grove Day, 1971. Jack London in the South Seas, Four Winds
Press, New York............................................................................................85
47. Edgar Lawrence Doctorow, 1993. Jack London, Hemingway, and the
Constitution, Random House, New York....................................................85
48.Emory Elliott, American Literature, Volume 2.....................................85
49.Martin Johnson, 1913. Through the South Seas with Jack London,
New York........................................................................................................85
50.Earle Labors, 1965. Great Short Works of Jack London, Harpers and
Row, Publishers, New York..........................................................................85
52.Jack
London,
1906.
Moon-Face
&
Other
Stories,
at:
/>53.Jack
London,
1902.
Children
of
the
Frost
at:
/>54.Jack London, 1901. The Law of Life, Document maintain at:
/>55.Jack London, 1912. The House of Pride & Other Tales of Hawaii, at:
/>56.Jack London, 1909. Koolau the Leper, Document maintain at:
/>57.Jack
London,
1908.
Aloha
Oe,
Document
maintain
at:
/>58.Jack
London,
1910.
Lost
Face,
at:
/>59.Jack London, 1908. To Build a Fire, Document maintain at:
/>
60.Jack
London,
1907.
Love
of
Life
&
Other
Stories,
at:
/>61.Jack
London,
1913.
The
Night
Born,
at:
/>62.Jack
London,
1900.
The
Son
of
the
Wolf,
at:
/>
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Jack London (1876 - 1916) là nhà văn xuất sắc của nền văn học Mỹ thời
kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sự nghiệp văn học của ông thành công ở
cả mảng tiểu thuyết và truyện ngắn với những tác phẩm tiêu biểu như Tiếng
gọi nơi hoang dã (The Call of the Wild) (tiểu thuyết), Nanh trắng (White
Fang) (tiểu thuyết), Gót sắt (The Iron Heel) (tiểu thuyết), Tình yêu cuộc sống
(Love of Life) (truyện ngắn), Sự im lặng màu trắng (The White Silence) (tập
truyện ngắn)…
Trong đó, truyện ngắn của Jack London để lại ấn tượng sâu sắc trong
tâm trí người đọc khắp thế giới bởi sự hấp dẫn, lý thú, cùng giọng văn nhẹ
nhàng, giản dị, và quan trọng hơn cả là ý nghĩa, triết lý sống mà câu chuyện
để lại. Đặc biệt là nhân vật trong truyện ngắn của ông, bất kể là nhân vật nam,
nữ hay loài vật đều được đặt trong các mối xung đột, trong thế đối lập giữa
sống và chết, giữa con người và môi trường cộng với nghệ thuật kể chuyện
nhiều xung đột và nương theo tâm lý nhân vật, nhà văn đã làm nổi bật lên
tương phản rõ nét ở các nhân vật trong truyện ngắn của mình đó là tương
phản giữa tàn nhẫn và đức hi sinh; cam chịu và khát khao được sống tự do,
khát khao tình yêu; những tấm lòng cao thượng và đồi bại nơi họ. Riêng về
nhân vật loài vật, ông đã dựng lên được dấu vết ngụ ngôn trong truyện ngắn
về loài vật của mình, “thế giới loài vật trong truyện ngắn của ông là một thế
giới bán văn minh bán hoang sơ… Do vậy, chúng sở hữu một lúc cả hai kiểu
huyết thống, vừa táo bạo, can đảm; vừa thông minh, ma mọi, vừa chung thủy,
độc ác đến mức khôn lường…” [10,337].
Các tác phẩm của Jack London không chỉ cho người đọc cảm nhận và
khâm phục những con người đã cố gắng chiến thắng tự nhiên, chiến thắng cái
6
chết, chiến thắng chính bản thân mình để sống, mà còn là bài học về lòng
dũng cảm, ý chí kiên cường và khát vọng sống mãnh liệt của con người trước
mọi khó khăn, gian khổ. Những con người biết lường sức mình, hành động có
suy tính thì tồn tại; còn những người quá tự tin, can đảm; hay những kẻ tàn
nhẫn, vô nhân tính, lười biếng, nhút nhát… đều phải chết…
Từ tất cả những điều trên, chúng tôi chọn nhân vật của Jack London làm
đối tượng nghiên cứu cho luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tiếng Việt
Có thể nói, tác phẩm của Jack London ở Việt Nam là rất nhiều, tuy nhiên
số lượng học giả nghiên cứu về ông vẫn còn ít ỏi. Dẫu vậy, những công trình
nghiên cứu về Jack London từ trước đến nay đa phần được đánh giá là có ý
nghĩa thiết thực và là nguồn tư liệu xác đáng, tin cậy cho việc nghiên cứu, tìm
hiểu về ông. Có thể kể ra như sau:
Cuốn Tác gia văn học Mỹ của Lê Đình Cúc đã có những giới thiệu rất kỹ
lưỡng về Jack London, trong đó, chủ yếu tác giả khẳng định “Với Jack
London, văn học Mỹ bắt đầu một dòng mới: Dòng văn học vô sản.” Tác giả
đã gọi Jack London là nhà văn Mỹ vô sản đầu tiên của nước Mỹ. Bởi cuộc đời
Jack London nằm trọn trong một thời kỳ lịch sử đó là thời kỳ chủ nghĩa tư
bản bộc lộ hết mọi nhược điểm của nó. Thấu hiểu những cơ cực của con
người tận cùng xã hội, Jack London đã có những trang viết rất xúc động như
trong Gót sắt (The Iron Heel), Thung lũng ánh sáng (The Valley of the
Moon), Đám người trong vực thẳm… Và cuối cùng, tác giả khẳng định, công
lao của Jack London trước hết là suốt đời phấn đấu không biết mệt mỏi để
tuyên truyền cho một lý tưởng tiến bộ bằng cuộc đời và các tác phẩm của
mình. Ngoài ra, bài viết, Jack London và cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc in trên Tạp chí Văn học cũng đề cập rất nhiều đến vấn đề này trong
7
các sáng tác của ông.
Tiếp đó, Lê Đình Cúc trong cuốn Văn học Mỹ – Mấy vấn đề về tác giả
cũng đã nêu được đặc điểm cơ bản trong tác phẩm của Jack London, đó là
những mâu thuẫn. Chính những mâu thuẫn này trở thành hướng phát triển chủ
đạo trong các tác phẩm của ông. Đó là mâu thuẫn giữa con người với thiên
nhiên, con người với con người… Từ đó, tác giả khẳng định rằng chính cuộc
đời sóng gió cơ cực của nhà văn đã tác động rất lớn đến các tác phẩm của nhà
văn.
Cuốn Văn học Mỹ của Lê Huy Bắc đã khái quát rất kỹ lưỡng về cuộc đời
và sự nghiệp của Jack London. Trong đó, tác giả đã nghiên cứu sâu nghệ
thuật xây dựng xung đột trong truyện ngắn của Jack London và tập trung tìm
hiểu những dấu vết ngụ ngôn trong các sáng tác của ông. Khai thác xung đột
trong các tác phẩm của mình góp phần vô cùng quan trọng trong thành công
của Jack London, ngoài văn phong hoành tráng, bay bổng hay cốt truyện ly
lỳ… là những yếu tố cốt lõi tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm của Jack
London. Được mệnh danh là bậc thầy của xung đột, Jack London đã khiến
cho nhân vật của mình thể hiện tính cách, nội tâm một cách điển hình, rõ ràng
nhất. Cùng với đó, dấu vết ngụ ngôn cũng trở thành nét độc đáo của nghệ
thuật truyện Jack London. Với việc mượn con vật, đồ vật để giáo huấn đạo lý
cho con người, Jack London đã tạo nên trong tác phẩm của mình những giá trị
nhân văn cao cả, để cao thiên hướng đạo đức, và đó cũng là lý do tác phẩm
của ông luôn được độc giả và giới nghiên cứu đón nhận nồng nhiệt. Công
trình này đã gợi mở rất nhiều những điều lý thú trong các sáng tác của Jack
London, đồng thời trở thành tư liệu quý giá để nghiên cứu về tác gia này.
Trong cuốn Phê bình – Lý luận văn học Anh – Mỹ, tác giả Lê Huy Bắc
đã sưu tầm và giới thiệu một cách cụ thể hơn về các tác giả, tác phẩm văn học
Anh, Mỹ trong đó có Jack London với tiêu đề Tiếng gọi nơi hoang dã. Trong
8
cuốn sách này, vấn đề về Jack London được tác giả khai thác dựa trên tác
phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã – một kiệt tác trong giai đoạn sáng tác ban đầu
của nhà văn, là cuốn sách thành công nhất, phổ biến nhất trong sự nghiệp của
ông và thu hút lượng độc giả khổng lồ. Câu chuyện về Buck – chú khuyển
siêu cẩu của Jack London thực sự làm cho người đọc ngưỡng mộ, như một
áng văn lãng mạn vùng hoang vu, bất chấp sự nghiêm khắc của những ẩn dụ
mà cuốn sách thể hiện. Tài nghệ điêu luyện của Jack London thể hiện ở việc
kể một câu chuyện sinh động và chân thực, khiến cho người đọc hoàn toàn
thỏa mãn với kết quả của nó. Và điều đó khẳng định rõ hơn chỗ đứng của
Jack London trong lòng độc giả, khiến Jack London luôn trở thành đề tài hấp
dẫn cho giới nghiên cứu và nhiều thế hệ bạn đọc.
Ngoài ra, những bài viết của Lê Huy Bắc như “Nghệ thuật xây dựng cốt
truyện xung đột trong tác phẩm của Jack London”, “Cõi hoang sơ trong “tiếng
gọi nơi hoang dã” của Jack London”, “Truyện ngắn Mỹ thế kỉ XIX”, “Truyện
ngắn Châu Mỹ”, … đăng trên tạp chí Nghiên cứu châu Mỹ; “Truyện ngắn Mĩ
đương đại” trên Tạp chí Văn học nước ngoài, “Dấu vết ngụ ngôn trong
London” Tạp chí Văn hóa Dân gian cũng là những tài liệu hết sức quý giá và
phong phú góp phần tích cực cho những công trình nghiên cứu sau này cho
nhiều học giả.
Nguyễn Trọng Đức trong bài nghiên cứu “Nghệ thuật xây dựng tình
huống truyện trong truyện ngắn Jack London” đã chỉ ra sự phong phú đa dạng
và hiệu quả nghệ thuật của tình huống truyện được Jack London sử dụng
trong kho tàng truyện ngắn của mình. Bao gồm tình huống xung đột, tình
huống thử thách, và tình huống ngẫu nhiên. Trên cơ sở đó tác giả bài báo đi
đến sự khẳng định: nghệ thuật xây dựng tình huống truyện là một đặc điểm
nổi bật trong thi pháp nghệ thuật truyện ngắn của Jack London.
Nguyễn Kim Anh trong luận văn tiến sỹ Thiên nhiên đặc trưng trong thi
9
pháp tiểu thuyết của Jack London cũng có những nghiên cứu, tìm hiểu tỉ mỉ
về thiên nhiên trong tác phẩm của Jack London, đồng thời có những nhận
định chính xác thể hiện sự công phu trong nghiên cứu về nhà văn này.
2.2. Tiếng Anh
Trong cuốn The Cambridge History of American Literature, tác giả
William Peterfield Trent đã khẳng định, thời kỳ mà tác phẩm đầu tay của
O.Henry và Jack London là giai đoạn cuối của lịch sử truyện ngắn. Là thời kỳ
các tạp chí, sách giáo khoa và các chuyên đề đại học dường như “dâng hiến
hết mình cho truyện ngắn” [66,1373]. Tác giả cũng khẳng định, văn chương
ban đầu mang tính quý tộc, được viết cho số ít những người tao nhã. Văn
chương về sau mang tính dân chủ, được viết cho đám đông. “London mang
đến cho đám đông những gì họ yêu cầu, mỗi một cảm xúc ông cảm nhận được
bên dưới thế giới bạo tàn đã ban phát cho ông và ông đã bán tác phẩm rất
chạy” [66,1374]. Ông tạo được dấu ấn quyền lực – ông chỉ viết về chuyện anh
hùng chốn hoang dã nơi đó bản thân ông là một phần rộng lớn; ông có cảm
hứng mãnh liệt với sự kì lạ và hoang dã tại những vùng đất chưa từng được
biết đến ở thời điểm bây giờ. Đây cũng là lý do chúng tôi chọn nghiên cứu về
truyện ngắn Jack London, bởi sức hấp dẫn, lôi cuốn trong truyện ngắn của
ông luôn là đề tài hấp dẫn cho mọi thế hệ nghiên cứu văn học.
Cuốn The American Tradition in Literature (10th Edition), tác giả George
Perkins nhận định rằng, đầu thế kỷ XX, Jack London xuất hiện như một hiện
tượng mới của văn học, thu hút lượng độc giả khổng lồ mà không ít nhà văn
mong muốn. Tác giả nhấn mạnh rằng, cơn sốt vàng [64,1338] đối với Jack
London như một cơ hội để ông kiếm sống bằng chính trí tuệ, tài năng văn
chương chứ không phải bằng lao động chân tay. Cùng với những kinh nghiệm
và những quan sát thực tế vùng phương Bắc, ông đã cho ra đời hàng loạt
những tác phẩm mang lại cho ông danh tiếng trên văn đàn thế giới.
10
Cuốn The Norton Anthology of American Literature, tác giả Nina Baym
lại một lần nữa khẳng định ảnh hưởng của cơn sốt vàng Klondike (18971898) [42,972] đối với cuộc đời văn chương của Jack London. Trở về từ sau
những cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm đó, Jack London hoàn toàn dành thời
gian cho việc viết sách. Một loạt những tác phẩm lần lượt ra đời, được chấp
nhận và thực sự thành công như “To the Man on the Trail” (Người đàn ông
trên đường mòn) vào đầu năm 1899, “The White Silence” (Sự im lặng màu
trắng), “An Odyssey of the North” (Odyssey của phương Bắc)… đã đưa ông
trở thành nhà văn nổi tiếng, có số lượng sách bán chạy nhất; và trở thành triệu
phú bằng việc viết sách. Với số lượng tác phẩm khổng lồ, được dịch ra nhiều
thứ tiếng trên thế giới đã chứng tỏ Jack London luôn nhận được sự quan tâm
nồng nhiệt của nhiều thế hệ người đọc.
Điểm qua các công trình nghiên cứu trên, dẫu chưa thật đầy đủ, song
chúng tôi vẫn nhận được những định hướng cần thiết về nghiên cứu nhân vật
trong truyện ngắn của Jack London để làm điểm tựa triển khai đề tài.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong giới hạn các truyện ngắn của Jack London đã
được dịch ra tiếng Việt, cụ thể qua các tuyển tập: Tuyển tập truyện ngắn Jack
London, Chúc kẻ lên đường, Tình yêu cuộc sống, Sóng lớn Kanaka, Sự im
lặng màu trắng, Miếng bít tết...
Tuy nhiên, chúng tôi có sự chọn lọc tác phẩm tiêu biểu bởi giới hạn của
một đề tài luận văn thạc sĩ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiếp cận dưới góc độ thi pháp học và tự sự học, luận văn sử dụng chủ
yếu các phương pháp sau:
– Phương pháp thống kê, tổng hợp
– Phương pháp so sánh
11
– Phương pháp liên ngành
5. Đóng góp của đề tài
Góp phần mở rộng đề tài nghiên cứu về Jack London, luận văn phân tích
nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Jack London. Đây
là một phương diện rộng, thú vị để khai thác và tìm hiểu.
Sau khi phân tích các nhân vật trong truyện ngắn của Jack London, luận
văn làm rõ tính cách nhân vật thông qua sự tương phản giữa tàn nhẫn và đức
hi sinh; cam chịu và khát khao được sống tự do, khát khao tình yêu; những
tấm lòng cao thượng và đồi bại nơi họ. Nhân vật loài vật vừa táo bạo, can
đảm; Vừa thông minh, quỷ quyệt, vừa chung thủy, độc ác đến mức khôn
lường.
Các tác phẩm của Jack London không chỉ cho người đọc cảm nhận và
khâm phục những con người đã cố gắng chiến thắng tự nhiên, chiến thắng cái
chết, chiến thắng chính bản thân mình để sống, mà còn là bài học về lòng
dũng cảm, ý chí kiên cường và khát vọng sống mãnh liệt của con người trước
mọi khó khăn, gian khổ. Những con người biết lường sức mình, hành động có
suy tính thì tồn tại; còn những người quá tự tin, can đảm; hay những kẻ tàn
nhẫn, vô nhân tính, lười biếng, nhút nhát… đều phải chết.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Nhân vật nam
Chương 2: Nhân vật nữ
Chương 3: Nhân vật loài vật
12
CHƯƠNG 1: NHÂN VẬT NAM
Những nhân vật nam trong truyện ngắn của Jack London thường được
miêu tả là những người đàn ông có sức khỏe, ngoại hình cường tráng, có lòng
dũng cảm, gan dạ; có nghị lực vô cùng mạnh mẽ, có một ý chí, một tinh thần
thép, bất chấp nguy hiểm để ra đi nhằm hướng tới mục đích của mình. Họ có
thể xuất hiện một mình ngay từ đầu câu chuyện, hoặc xuất hiện với người
khác, nhưng trong cuộc hành trình, họ đã bị bỏ rơi, hoặc giữa một xã hội loài
người, họ cô độc vì không tìm được mối liên hệ chung, họ đã ra đi, đến với
những nơi mà họ thuộc về. Và để làm được điều đó, họ đã phải rất linh hoạt
trong mọi hoàn cảnh, đã thể hiện được sự thông minh, kiên cường, một khả
năng thích nghi tuyệt vời để cố gắng sống một cách lâu nhất trong thời khắc
khốc liệt và tìm ra đường sống. Ở những người đàn ông kiên cường đó, không
chỉ là sự mạnh mẽ vượt lên số phận với khát khao sống mãnh liệt mà ở họ còn
thể hiện lên những tấm lòng cao thượng đẹp đẽ.
1.1. Những người đàn ông đơn độc và bản năng sống bất diệt
1.1.1. Những người đàn ông đơn độc
Jack London thường cho nhân vật nam của mình xuất hiện với tư thế là
những con người tích cực hành động, hành động không ngừng nghỉ để chiến
đấu với thiên nhiên bất kể sẽ là thắng hay thua. Họ không bao giờ bỏ cuộc
một cách dễ dàng, không bao giờ đầu hàng số phận ngay từ đầu, mà đã trải
qua một hành trình gian khổ. Những chuyến đi của họ không đơn thuần là
những chuyến du lịch mà là những cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm, ấn chứa cái
đói, rét, hay thậm chí là cái chết. Đôi khi họ chiến đấu hoàn toàn vô thức,
chiến đấu bởi họ không còn cách lựa chọn nào khác. Họ có sợ hãi nhưng
trong tình thế nguy kịch đó, sợ hãi là sức ép buộc họ phải vùng lên, bất kể
thắng hay bại. Họ có thể chỉ là một người gặp nạn, một kẻ bị bỏ rơi trong
13
cuộc hành trình, một người xông pha đi cứu giúp người khác trong hoàn cảnh
khó khăn… Và họ hoàn toàn cô độc, chúng ta dễ nhận thấy có hai tuyến nhân
vật, đó là những người cô độc, một mình chiến đấu với tự nhiên và chiến
thắng. Tuyến thứ hai là những con người cô độc và thất bại trước tự nhiên.
Nhiều người đàn ông trong truyện ngắn của Jack London xuất hiện với
tư cách là những cá nhân đơn lẻ, hành động hoàn toàn tự phát, không vì một
kế hoạch, một mục tiêu nào được định sẵn. Họ luôn hiện diện trong tư thế đơn
độc, thiếu thốn, không một sự giúp đỡ, không vũ khí phòng thân. Tuy nhiên,
trong tình thế cô độc như vậy, những con người này vẫn có thể chiến thắng tự
nhiên, vẫn giành giật được sự sống từ thiên nhiên hung dữ để trở về.
Người đàn ông không có tên trong Tình yêu cuộc sống là một hình tượng
vô cùng đẹp đẽ bởi ý chí kiên cường, sự thông minh và khả năng thích nghi
tuyệt vời với tự nhiên. Anh bị một người bạn đồng hành bỏ rơi khi chẳng may
bị trật chân khi cố gắng vượt qua con suối. Không còn chút hi vọng nào là
người bạn đó sẽ quay lại giúp mình, người đàn ông buộc phải tự cứu mình
trong cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm. Ngay từ đầu truyện Jack London đã tạo
ra một không khí nghẹt thở báo hiệu cho những gì đang chờ ở phía trước. Hai
nhân vật, một nhân vật Bill và một nhân vật chính không tên, cánh rừng rậm
hoang vu, những con suối, mỏm đá, thú rừng và những cuộc hành trình mệt
mỏi và nặng nhọc. Không gian ấy càng trở nên căng thẳng khi chỉ còn lại một
nhân vật, ban đầu là những lời nói mệt mỏi thì sau đó hoàn toàn mất đi ngôn
ngữ đối thoại. Bên cạnh việc miêu tả tâm lý nhà văn còn tỏ ra rất hiểu về sinh
lý con người khi miêu tả từng động tác, từng biến đổi của cơ thể, của những
cảm giác đói hay đau đớn. Và cuộc đấu tranh giành lại sự sống đã bắt đầu. Đó
là cuộc chiến kiếm tìm thức ăn mà ban đầu là một con tuần lộc Caribu khi gã
cầm lấy súng và nghĩ đến món bít tết bên bếp lửa. Tưởng chừng đó là điều
đơn giản với một người đi rừng chuyên nghiệp và một tay súng thiện xạ
14
nhưng con vật không chết vì súng gã hết đạn. Và sau đó là liên tiếp các tình
huống tương tự như lũ gà gô núi đá, con cá tuê, bọn sói, con gấu. Hoàn toàn
đơn độc, không có vũ khí, người đàn ông đã không thể làm được gì để kiếm
cái ăn, hắn đã phải ăn rau dại để sống. Con người cường tráng khỏe mạnh đó
nhanh chóng đã trở thành tàn tạ, đến bắt một con gà bị thương cũng không
làm nổi. Nhưng sức sống tiềm tàng cùng bản năng sống mãnh liệt đã cứu hắn
khỏi cái chết, cứu hắn khỏi con gấu hung dữ và con sói đói. Có lẽ những con
vật hoang dã đó cũng phải bị khuất phục trước một sinh vật mà sẵn sàng ăn
thịt chúng dù có thể bị chúng ăn thịt.
Truyện ngắn Tình yêu cuộc sống kể về một người đàn ông nghị lực, sống
sót sau chuỗi ngày đói rét ở vùng đất hẻo lánh; đã vượt qua được khó khăn,
thử thách nhờ vào tình yêu và khát vọng sống mạnh mẽ. Từ đó, nhà văn ca
ngợi cuộc sống, ca ngợi tình yêu và niềm tin vào cuộc sống. Dù có khó khăn
đến đâu, nhưng với tình yêu và niềm tin đó, con người có thể vượt qua tất cả.
Có lẽ đây cũng là niềm an ủi tinh thần rất lớn để nhà văn tự động viên mình,
khi bản thân phải sống trong xã hội tư bản mà mình căm ghét, nhưng vẫn cố
kiếm tìm một cuộc sống mới tươi sáng, hạnh phúc, bằng chính tình yêu và
niềm tin vào con người. Người đàn ông trong Tình yêu cuộc sống đã suy nghĩ
khi phải đối mặt với con sói đói:
“Giá nó là một con sói khỏe mạnh, thì hẳn con người cũng chả xem vấn
đề hệ trọng đến thế đâu, những nghĩ đến việc phải làm mồi cho cái dạ dày của
cái vật ghê tớm và gần như chết rồi này, gã chẳng ưng chút nào” [39,41].
“Tuy nhiên, rất bình tĩnh trong nhận thức ấy gã biết rằng mình không
bao giờ có thể bò nốt dặm ấy. Và mặc dù thế, gã vẫn muốn sống. Thật là vô lý
nếu gã phải chết sau khi chịu đựng tất cả ngần ấy thứ. Số mệnh đòi hỏi gã quá
nhiều. Và đến lúc sắp chết, gã từ chối không chịu chết” [39,39].
Cuối cùng người đàn ông cũng chiến thắng trở về dù cho sự trở về đó
15
không lẫy lừng, không huy hoàng mà chỉ trở về trong yên lặng, trong sự đói
và rét, trong một bộ dạng thân tàn ma dại, thậm chí là bị ám ảnh, mộng mị
một thời gian, nhưng đó là sự trở về kỳ diệu nhất, đáng khâm phục và đáng
ngưỡng mộ nhất.
Trong hoàn cảnh đơn độc đó, con người dường như bộc lộ hết khả năng
thích ứng của mình để chống chọi lại với thiên nhiên mà lúc này là kẻ thù lớn
nhất của họ.
“Gã mở cái bọc và việc đầu tiên là đếm các que diêm. Có sáu mươi bảy
que. Gã đếm tới ba lần cho chắc. Gã chia làm nhiều phần, gói bằng giấy dầu,
cất một bó vào cái túi đựng thuốc lá rỗng không, một bó khác cất vào đai
trong của chiếc mũ nhàu nát, bó thứ ba vào dưới áo sơ mi. Làm xong việc đó,
gã chợt hoảng và giở tất cả ra đếm lại. Vẫn còn nguyên sáu mươi bảy que”
[39,24].
Ý nghĩa câu chuyện thể hiện tập trung thông qua cuộc đấu tranh của con
người và con sói ốm đói. Cả hai đang đứng trước cái chết và cả hai không đủ
sức để ăn thịt nhau. Con sói cố tình đi theo con mồi yếu ớt để đợi gã ngã gục
và ăn thịt còn gã thì cũng chờ có thế để có thể tìm thấy cơ hội sống. Cuối
cùng thì gã cũng chiến thắng. Cái đói, cái rét, con gấu dữ và con sói đói đã
không thể cướp đi cuộc sống của gã. Gã đã trở thành người anh hùng đẹp đẽ
nhất mà Jack London dựng nên, một người hùng không dễ bị khuất phục, lê
lết thoát ra khỏi cái chết bằng một niềm tin mãnh liệt rằng vượt qua hết những
chặng đường đau khổ, đói rét này là đến với sự sống, là được sống, và phải cố
gắng đến được với sự sống đó, không được phép cho mình chết.
Qua việc xây dựng nhân vật những người hùng chiến thắng dù trong tư
thế đơn độc, Jack London muốn gửi đến người đọc những vấn đề mang tính
triết lý. Đó là việc đề cao tính tự lập, tự chủ trong mọi hoàn cảnh, trong mọi
tình thế. Đồng thời cũng muốn khẳng định, con người luôn tồn tại trong một
16
tập thể, chỉ có ở trong tập thể thì con người mới thực sự an toàn. Vì vậy, sự
gắn kết cộng đồng là vô cùng quan trọng. Những người hùng trong truyện
ngắn của ông chiến thắng thiên nhiên đều là nhờ bản năng sinh tồn và một
khát vọng được sống bền bỉ, thêm vào đó có thể là chút may mắn, chút liều
lĩnh trong tình thế không còn gì để mất. Nhưng trên hết vẫn là sự đoàn kết tập
thể và sự gắn kết giữa người và người.
Cùng với việc xây dựng hình ảnh những người hùng cô độc nhưng chiến
thắng, Jack London đã khai thác cả mảng tối của vấn đề, đó là những con
người thất bại trước thử thách, những người phải bỏ mạng lại nơi thiên nhiên
hoang vu và vĩnh viễn không bao giờ trở về.
Khát vọng sống cùng với sự chủ quan, chỉ biết nghe mình đã trở thành
kẻ thù giết chết con người khi phải đối mặt với thử thách. Truyện Nhóm lửa
kể về một người đàn ông mạnh mẽ và cường tráng, một mình thực hiện cuộc
hành trình của mình qua băng tuyết. Nhưng do chủ quan, không tự ý thức
được hậu quả của hành động của mình, bỏ ngoài tai những lời khuyên của
những người có kinh nghiệm, quá tự tin vào bản thân, nên người đàn ông
trong Nhóm lửa đã hoàn toàn thất bại.
“Thực tế đó chỉ gây cho anh một cảm giác lạnh và khó chịu, thế thôi, chứ
anh không nghĩ đến một điều là mình, cũng như con người nói chung, rất
mỏng manh trước nhiệt độ, chỉ có thể chịu đựng được nhiệt độ nóng hay lạnh
ở mức rất giới hạn; và cũng vì thế mà anh không nhận ra một điều rằng con
người đâu có phải là bất tử, và anh không xác định được vị trí của con người
trong vũ trụ” [32].
Chính sự chủ quan và không cảnh giác đã đưa anh vào tình huống hiểm
nghèo. Một mình giữa trời rét một cách bất thường, dù có trang bị kỹ lưỡng
nhưng anh cũng không thể chống chọi lại được với nó. Bởi sức chịu đựng của
con người là có giới hạn, trong khi giá rét thì không ngừng quất vào người
17
những luồng rét kinh người, khiến người anh dần mất hết cảm giác, và dần
không thể cử động được.
“Anh định cắn một miếng lớn, nhưng tuyết đông cứng quanh miệng
không sao há ra được. Anh quên khuấy không nhóm lửa cho hết cóng. Trước
sự ngu ngốc của mình, anh chậc lưỡi chưa dứt thì ngay lúc ấy, mấy ngón tay
để trần kia bị tê cóng lại. Anh cũng nhận thấy rằng lúc đầu ở mấy đầu ngón
chân còn có cảm giác nhức nhối, nay khi vừa ngồi xuống thì cảm giác ấy
không còn nữa. Anh sững sờ không hiểu những ngón chân ấy ấm hay bị tê
cóng nữa, nhưng khi cố ngó ngoáy những ngón chân trong giầy mới biết là
chúng đã bị tê thật (…). Anh đập mạnh hai bàn tay nhưng không gây nên một
cảm giác gì. Bỗng nhiên anh lấy răng cởi cả hai chiếc găng tay ra. Anh lấy cùi
tay kẹp bao diêm vào. Do cơ bắp ở hai cánh tay không bị cóng, nên anh có thể
kẹp chặt bao diêm ở chỗ hai cùi tay. Sau đó anh quẹt cả nắm diêm dọc theo
cẳng chân. Bó diêm cháy bùng lên, cả 70 que diêm lưu huỳnh cùng bùng cháy
lên một lúc! Không khí lặng như tờ nên diêm không tắt được. Anh nghiêng
đầu sang một bên để tránh khỏi bị ngạt thở, rồi dí cả nắm diêm đang cháy vào
vỏ cây phong. Giơ diêm như thế anh mới nhận ra cảm giác ở nơi tay mình.
Thịt đang bị cháy. Có thể ngửi thấy mùi thịt cháy, có cảm giác như nó cháy
vào tận trong thịt” [32].
Cuối cùng, anh đã phải tự bỏ cuộc trước cuộc tranh giành sự sống. Anh
đã chọn cho mình cách chết đường hoàng nhất: “Thôi thì đằng nào cũng chết
cóng, nên phải chết cho đàng hoàng. Khi đã tìm được sự tĩnh tâm mới này,
anh bỗng thấy buồn ngủ. Anh nghĩ đến giấc ngủ ngàn thu ngon lành, chẳng
khác gì uống một liều thuốc ngủ. Chết cóng thì có gì đau đớn như người ta
tưởng đâu! Còn gặp cái chết khác ghê sợ hơn nhiều” [32].
Cùng kiểu nhân vật này, truyện Koolau hủi (Koolau the Leper) khắc họa
một hình ảnh người anh hùng khác, cũng kiên cường, hiên ngang, không sợ
18
cái chết, không sợ bệnh tật nhưng vẫn phải đối mặt với cái chết mà không thể
thoát ra khỏi nó. Nhưng trong tình thế trước mặt là cái chết đang tới gần, con
người anh hùng trong Koolau thể hiện một cách hồn nhiên và trong sáng vô
cùng. Là một con người yêu tự do, yêu chính nghĩa, Koolau hết mình chiến
đấu giành lấy tự do và công bằng cho những con người cùng mắc căn bệnh
hủi quái ác.
“Những người ngồi nghe Koolau nói trông giống như các thương binh
sau một trận kịch chiến khốc liệt. Những khuôn mặt của họ trông như mõm sư
tử. Người này thay vào mũi là một cái lỗ thủng trống hoác, người kia bên vai
lủng lẳng một mẩu còn lại của cánh tay thối rữa” [40,339].
Nhưng công sức của Koolau không được công nhận khi anh bị phản bội.
Từ đó, Koolau cô độc trong chính thế giới của mình, rồi cũng chết cô độc:
“Như một con thú rừng, ông bò vào bụi cây để chết”. Với bản lĩnh của một
người anh hùng, Koolau “sống một cuộc đời tự do và chết cũng là người tự
do”. Có thể nói, Koolau là một người anh hùng, tuy không chiến thắng những
đã mang tất cả những vẻ đẹp và sự hào hùng của người chiến thắng. Tuy cô
độc, tuy bị người dân lăng mạ, chửi rủa, nhưng Koolau hoàn toàn không trách
cứ, không oán hận. Ông ra đi hoàn toàn thanh thản và nhẹ nhàng, sự thanh
thản của một người tự do, không còn trốn chạy và xung đột.
Nhà văn đã để cho nhiều nhân vật tự chọn cho mình một tư thế chết
không hề bi lụy, đó là những người tuy biết cái chết cận kề nhưng vẫn cố
gắng gượng để sống, vẫn lạc quan cho đến khi toàn thân không thể cử động;
là người đàn ông da đỏ kiên cường, anh hùng, sống cả cuộc đời đau khổ
nhưng vẫn đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do, để rồi chết cũng làm người
tự do.
Trong sáng tác của London, có những người đàn ông không thất bại
trước thiên nhiên mà thất bại trước chính cuộc sống của họ, trước đồng loại.
19
Không phải họ hèn nhát hay bỏ cuộc mà vì họ sống trong một xã hội mà sự
công bằng và bình đẳng cùng những quyền của con người đang bị tước bỏ nên
họ dần trở nên “chết mòn” trong chính tình yêu lao động, trong sự nghiệp và
trong cuộc sống của chính họ.
Miếng bít tết (A Piece of Steak) là câu chuyện đau lòng của một võ sỹ
quyền Anh, đã từng thành công vang dội, từng nổi tiếng và giàu có, sống sung
sướng bằng nghề võ sỹ mà anh say mê, ham thích. Nhưng tuổi già cùng với
sự tiếp nối của thế hệ trẻ hơn, thành công hơn đã khiến anh gần như không
còn chỗ đứng trong nghề nghiệp của mình. Anh không còn được chú ý nhiều
trong các trận đánh, không còn được đặt cược nhiều đồng nghĩa với việc anh
không còn khả năng kiếm tiền và nuôi gia đình. Ước mong duy nhất của anh
trong trận đấu cuối cùng là kiếm đủ tiền để mua một miếng bít tết, nhưng cuối
cùng anh đã phải khóc khi để thua trên sân đấu. Đến khi đó, anh mới ngậm
ngùi thấu hiểu cảm giác bại trận của những đối thủ anh thắng trước đây, hiểu
được nỗi đau đến rơi nước mắt của họ.
“Anh cảm thấy yếu đi và đau đớn, những khớp xương ngón tay bị giập
nát đau buốt báo cho anh biết rằng, ngay cả khi tìm được việc đào đất thuê,
phải một tuần nữa thì anh mới có thể nắm được cán cuốc, cán xẻng. Sự cùng
khổ bao trùm lên con người anh, mắt anh ươn ướt bất thường. Anh úp mặt
vào hai bàn tay, và khi nức nở khóc, anh nhớ đến Stowsher Bill, nhớ lại việc
anh đã gây cho anh ta vào tối đó, cách đây đã lâu lắm rồi. Anh bạn già
Stowsher Bill đáng thương! Lúc này, Tom King đã có thể hiểu lí do tại sao
Bin đã phải khóc trong buồng thay quần áo” [37].
Cuộc sống lao động hết mình, hăng say và đầy mơ ước của cậu bé John
trong truyện ngắn Kẻ bỏ đạo (The Apostate) cũng không thể khiến cho cậu bé
có một tương lai tốt đẹp. Câu chuyện là lời ngợi ca cho một tình yêu lao động
dường như không gì ngăn cản được của cậu bé. Cuộc đời cậu là chuỗi ngày
20
lao động dài không ngừng nghỉ, từ khi 6, 7 tuổi đã trở thành lực lượng nuôi
sống gia đình chính, là cỗ máy làm việc để nuôi sống cả gia đình. Nhưng trên
hết, câu chuyện phê phán sự bóc lột sức lao động quá tàn nhẫn của những
người chủ, thậm chí đó là sức lao động của một đứa trẻ. Chúng không để cho
John có nổi một ngày nghỉ ngơi, và tận dụng tình yêu lao động, sự say mê và
sức lực non trẻ của cậu đế biến cậu trở thành một cỗ máy làm việc tích cực
nhất cho chúng. Đến khi quá mệt mỏi, John nằm trên gường bệnh và tính lại
khoảng thời gian mình phải đứng máy trong chừng ấy thời gian, John mới
thực sự giật mình, và thấy mình không còn chút sức lực nào để làm việc nữa,
rồi đi đến quyết định là ra đi để tự giải phóng mình ra khỏi cuộc đời lao động
nô lệ, cực khổ.
“Con mệt mỏi rã rời. Cái gì làm cho con mệt mỏi hả mẹ? Những chuyển
động! Con chuyển động ngay từ khi con mới lọt lòng. Con chán cái chuyện
chuyển động lắm rồi, nên con sẽ không chuyển động nữa. Mẹ có nhớ thời kỳ
con làm ở nhà máy thuỷ tinh không? Một ngày con thường làm được ba trăm
chiếc chai. Giờ con mới nhận ra mỗi chai con làm mất mười động tác. Một
tháng mất một triệu tám mươi nghìn động tác. Cứ bỏ bẵng đi 80.000 động tác,
– cậu nói giọng có vẻ thỏa mãn, thương người. – Cứ trừ đi 80.000 động tác,
như vậy là chỉ còn một triệu động tác trong một tháng, mười hai triệu động
tác trong một năm” [33].
Dù xuất hiện trong hoàn cảnh nào, hoàn toàn cô đơn giữa thiên nhiên dữ
dội, hay cô đơn giữa chính cuộc sống, chính đồng loại mình, thì những con
người của Jack London đa phần đều có một tấm lòng cao cả, yêu cuộc sống
và nhân hậu vô cùng. Bởi vậy, tác phẩm của Jack London không chỉ gây ấn
tượng cho người đọc với ấn tượng về những con người luôn bị đẩy vào những
bước đường gian khổ, những hoàn cảnh trớ trêu nhất, những số phận đáng
thương, những nỗi khổ, sự khó khăn rất lớn; mà trên hết, truyện ngắn của Jack
21
London còn để lại trong tâm trí người đọc ấn tượng về sự vượt qua những khó
khăn đó để sống, để hãnh diện với cuộc đời, bởi họ muốn sống và có sức sống
bền bỉ hơn ai hết.
1.1.2. Những người đàn ông với bản năng sống bất diệt
Cuộc phiêu lưu của chính cuộc đời Jack London là cuộc phiêu lưu với
một xã hội đồng tiền và bóc lột đã tác động vô cùng lớn đến tâm hồn ông. Và
từ đó, khát khao tự do, khát khao sống cuộc sống công bằng như thúc giục
London thể hiện vào các trang sách. Với bộ óc thông minh và giàu trí tưởng
tượng, London đã đưa vào tác phẩm của mình nhiều vấn đề cuộc sống có tính
khái quát cao. Trong đó, khát khao sống với bản năng sống bất diệt của con
người được Jack London nhắc đến nhiều. Những con người tuy không hiên
ngang, không phiêu lưu mạo hiểm nhưng yêu tự do, hòa mình với thiên nhiên,
sống như những con thú hoang giữa rừng già và yêu cuộc sống đó vô cùng,
sẵn sàng vứt bỏ tất cả để trở về cuộc sống hoang dã, hoặc hi sinh cả cuộc đời
để đấu tranh dành lại sự sống. Tất cả điều đó thể hiện khát vọng sống mãnh
liệt của một bản năng sống bất tử.
Koolau hủi được coi như vị vua của những con người bệnh tật, tàn tạ và
thống khổ. “Và tất cả những con người đó đã quần tụ lại quanh Koolau, coi
anh như là Vua của họ, và đây là vương quốc của anh, một hẻm núi với ba
mặt là những vách đá cheo leo hiểm trở mọc dày các loài cây nhiệt đới và rải
rác những hang động thâm u mà các thần dân của anh dùng làm nơi trú ngụ
cho mình” [40,339]. Bệnh phong cùi mà người da trắng mang đến dường như
đã cướp hết đi tất cả cuộc sống của họ: sức khỏe, đất đai, công việc và một
cuộc sống yên lành. Tất cả những con người tự do và đã từng được hạnh phúc
đó giờ đang sống cuộc sống trốn chạy, chui lủi khổ nhục, và Koolau như
mang lại nguồn sống cho họ, thức tỉnh họ nhận thức ra ai là kẻ đem lại sự
thống khổ đó, và cổ vũ, động viên tinh thần họ. “Chừng nào còn có thể được,
22
chúng ta cứ ăn uống, cứ nhảy múa, cứ sống cho thật vui lên...”.
Koolau là một điển hình chống lại những luật pháp của người da trắng,
đòi lại những gì vốn là của mình, và trên hết đó là một cuộc đời tự do. Suốt
cuộc đời ông đi tìm tự do cho mình, và cho tất cả những con người cùng số
phận, cùng chung nỗi đau với ông, bởi ông nhận ra rằng, bên trong những
thân xác đang ngày một ruỗng mục đó thì một tình yêu và khát khao sống vẫn
còn rạo rực. “… đó là điệu nhảy của những xác chết còn sống, bởi vì ẩn tàng
bên trong cái thân xác đang bị hủy hoại của họ là ngọn lửa tình yêu và đấu
tranh vẫn đang bừng cháy. Chừng nào người đàn bà mù có đôi dòng lệ nóng
tuôn ra từ hốc mặt còn hát, chừng nào những người khiêu vũ còn nhảy múa
điệu múa tình yêu trong đêm nồng ấm, và chừng nào bầu rượu vẫn còn được
chuyền quanh, thì trong óc họ vẫn còn cháy bỏng những ký ức và mơ ước”
[39,347]. Sức sống tiềm tàng và một khát vọng sống đến cháy bỏng là nguồn
sống mãnh liệt nhất nâng đỡ những con người khốn khổ này đứng dậy. Cũng
chính vậy mà sự đau đớn về tinh thần và thể xác không thể giết chết được tình
yêu với cuộc sống của những con người này. Jack London không chỉ ca ngợi
Koolau vì một tinh thần bất khuất, một khát khao tự do bền bỉ đến lúc chết,
Jack London còn ca ngợi những con người lạc quan, yêu cuộc sống và không
ngừng hi vọng vào cuộc sống.
Câu chuyện về một người săn da thú bị một bộ tộc da đỏ bắt và tra tấn dã
man trong Mất mặt (Lost Face) là một điển hình cho khát khao tự do và tìm
mọi cách thoát khỏi sự tra tấn cho dù là phải chết. Nhưng cách để anh tìm
được sự thanh thản bằng chính cái chết chính là sự anh hùng hiếm có. Đã trải
qua quá nhiều sự khủng khiếp và ghê rợn của những cuộc phiêu lưu tìm về
Châu Âu, để thực hiện được ước mơ gặp được những người Tây Ban Nha mà
anh ngưỡng mộ, anh đã cảm thấy quá mệt mỏi, nên khi bị bắt, anh không sợ
chết, “Chàng không sợ chết. Chàng đã dùng đôi tay tự bảo vệ đời mình trên
23
con đường gian nan suốt từ Warsaw đến Nulato trong một thời gian dài dặc
nên cái chết không làm chàng rùng mình được. Nhưng chàng rất ghét lối tra
tấn đó. Nó xúc phạm tâm hồn chàng. Tâm hồn chàng bất bình không phải vì
sự đau đớn chàng phải chịu đựng, mà vì cái cảnh thảm thương do nỗi đau đớn
gây trên thân thể chàng tạo ra” [34]. Anh ghê tởm sự tra tấn đó vì cảm thấy
đau đớn trong tâm hồn khi nhìn thấy những con người bị tra tấn một cách
thảm thương, không còn hình hài một con người. Điều đó đã khiến chàng
nghĩ ra một cách để được chết, để tự giải phóng mình ra khỏi sự tra tấn, để
không phải chứng kiến những cảnh tra tấn dã man đó, và để được tự do trong
tư tưởng, được nghỉ ngơi sau chuỗi ngày dài của cuộc đời lăn lộn vào hiểm
nguy chết chóc, rồi thoát chết một cách nhọc nhằn, không lấy gì làm vinh
quang. Nhưng cái chết mà anh chọn lúc này chính là thời khắc vinh quang
nhất trong cuộc đời sóng gió của anh, là lúc anh khiến cho Makamuk phải
“mất mặt” trước tất cả mọi người bởi hắn đã bị lừa. Hắn đã quá ngây ngô và
tham sống sợ chết để cho một kẻ tội đồ dưới tay hắn lừa một cách nhục nhã
và đầy xấu hổ.
Con người trong tác phẩm của Jack London có một ý chí kiên cường, có
bản năng sống bất diệt, cùng sức khoẻ dẻo dai để chống chọi lại những khó
khăn, nguy hiểm. Không những thế, họ còn có những tình yêu cao đẹp, những
sự hi sinh lớn lao, sẵn sàng chết để không bị ảnh hưởng đến bạn đồng hành,
hay sẵn sàng hi sinh để người mình yêu được hạnh phúc.
Truyện ngắn Tình yêu cuộc sống của ông đã trở thành một câu chuyện
điển hình của mọi thời đại về một tình yêu phi thường với cuộc sống mà không
phải ai cũng có thể làm được. Ngay ở cái tên tác phẩm, nhà văn đã cho người
đọc biết nội dung chính của nó, và càng đọc, càng tìm hiểu, người ta càng cảm
thấy khâm phục một con người nhỏ bé, nhờ tình yêu bất diệt và niềm tin mãnh
liệt vào cuộc sống mà anh ta đã tìm lại được cuộc sống của mình.
24
Không đành lòng bỏ lại mạng sống của mình ở những nơi hoang vu,
người đàn ông mà trong tác phẩm chỉ được Jack London gọi là “gã” đã bền bỉ
và kiên cường hơn lúc nào hết để được sống, để tồn tại, đã không ngừng hành
động, để thấy được mình vẫn sống: gã trong một sự tuyệt vọng đến điên dại,
quên sự đau đớn ở chân, gắng tìm đường về – vùng đất của những chiếc que
nhỏ; gã đã phải nhai thứ cỏ mọc ở đầm lầy; chiến đấu với con gấu bằng tất cả
sư hung dữ và bất cần; giành giật sự sống với con sói già và đói bằng sức
sống dai dẳng của một kẻ sắp chết. Có lẽ, sau tất cả những sự cố gắng để giữ
cho mình không bị chết vì đói, vì lạnh, vì những vết thương, vì sự thất vọng,
… thì đến khi chiến đấu với một con sói già, hình ảnh của người anh hùng của
Jack London thực sự được hiện ra rõ nét nhất. Đến đây, cuộc chiến đấu dường
như mới thực sự diễn ra. Giữa hai bên – hai kẻ đều tàn tạ như nhau, (có lẽ khó
còn nhận ra cái thân hình tàn tạ của “gã” còn là hình người), đều đói, đều sắp
chết – không bên nào mạnh hơn bên nào, bên nào cũng chỉ chờ nhau chết để
ăn thịt, và bên nào cũng cố bảo toàn cái mạng tàn tạ của mình để bên kia chết
trước, thì đến đây, chiến thắng không còn thuộc về kẻ mạnh nữa, mà thuộc về
kẻ biết tin, kẻ khát khao được sống. Đương nhiên kẻ đó là “gã”, nhưng điều
đáng nói, điều vĩ đại nhất là “gã” làm được là không phải ai trong hoàn cảnh
của “gã” cũng có thể giữ được niềm tin của mình, để không bị buông xuôi,
không bị tất cả những yếu tố từ trước là cái đói, cái rét, sự đau đớn hạ gục, để
rồi thua một con sói già. Duy nhất tin vào bản thân mình – có thể điều đó là
ích kỷ và cực đoan, nhưng chắc chắn điều đó tạo cho con người thế mạnh
đáng kể trong cuộc sống.
Niềm tin của gã được thể hiện xuyên suốt tác phẩm, niềm tin sống ấy
luôn tồn tại và không hề giảm bớt trong con người gã, ngay từ việc Bill bỏ rơi
gã một mình, đến khi đói lử rồi thời tiết khắc nghiệt, những vết thương rỉ
máu: “Gã đấu tranh với cái sợ, vượt lên được… và tiếp tục lảo đảo xuống
25