Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

TÍN NGƯỠNG THỜ bà CHÚA xứ núi SAM ở THÀNH PHỐ CHÂU đốc ( TỈNH AN GIANG) TRUYỀN THỐNG và HIỆN đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 134 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LỊCH SỬ

NGUYỄN THỊ THANH TUYỀN

TÍN NGƯỠNG THỜ BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM
Ở THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC ( TỈNH AN GIANG):
TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành :Lịch sử Việt Nam
Mã số :60220313

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS .Nguyễn Duy Bính

HÀ NỘI - 2015


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài :
Đã từ bao đời nay không chỉ ở Nam Bộ quê hương mà tôi đã sinh ra và lớn lên
mà còn ở khắp cả miền Bắc lẫn miền Trung thường diễn ra rất nhiều những ngày lễ
hội trong năm và đi kèm với nó thường gắn liền với những sự tích ,truyền thuyết có
liên quan đến các vị thánh thần và trong đó nổi bật nhất là các vị Nữ thần hay người
ta còn gọi là tín ngưỡng thờ Mẫu .
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang bản chất nguyên thủy và
có chiều dài lịch sử hàng ngàn năm. Sự tồn tại của nó đã dẫn đến sự hình thành một
bản sắc văn hóa tâm linh ở nước ta rất trù phú và huyền ảo và được phản ánh qua


những lễ hội cổ truyền càng làm cho tin ngưỡng thờ Mẫu của con người Việt Nam
nói chung và nhất là người dân An Giang nói riêng càng thêm sâu sắc hơn .
An Giang là vùng đất rất trù phú với điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
rất thuận lợi do phù sa của sông nước bồi đắp mà nên. Nền kinh tế tỉnh An Giang
cũng như trong cả nước nói chung đều xuất phát từ một nền nông nghiệp trồng lúa
nước , để có được những mùa thu hoạch nhiều nhất trong năm , đảm bảo cho sự tồn
tại của con người và phát triển của xã hội thì người nông dân bao giờ cũng mong
muốn có được mưa thuận gió hòa ,khí hậu ôn hòa ,sông nước dồi dào để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc gieo trồng cây lúa .Thế nhưng những ước vọng ấy tưởng dễ
dàng và giản dị nhưng không phải lúc nào cũng được như ý nguyện ,và vì thế con
người chúng ta càng đặt hết niềm tin và sự mong đợi của mình vào những hiện thực
hay phạm trù được cho là làm nên sự sinh sôi .Đó là đất mẹ mang phù sa gieo mầm
sự sống vạn vật ,đó sinh ra và đưa con người vào với cuộc sống này. Do đó đã dẫn
đến sự có mặt của tín ngưỡng thờ Mẫu ở vùng đất này .
An Giang có tục thờ Bà Chúa Xứ vì Bà được xem là một vị Nữ thần rất linh
thiêng luôn luôn ban phép màu xuống dân gian để cứu dân độ thế , Bà luôn giữ vai
trò rất quan trọng trong lòng người dân nơi đây .Người ta coi trọng Bà không chỉ vì
Bà là một Nữ Thần linh thiêng mà còn tôn trọng vì hình tượng Bà mang lại rất
nhiều ý nghĩa giáo dục cho con người thể hiện qua 5 yếu tố ;1-đạo đức;2-nghệ
thuật ;3-lịch sử ;4-giao lưu ;5-thẫm mỹ .Với sự kết tinh của yếu tố thẫm mỹ

1


dường như đã làm toát lên toàn bộ cái vẻ đẹp mỹ quang của Bà trải nghiệm qua yếu
tố giáo dục con người về mặt “đạo đức”,biểu hiện ở cái “Tâm” và “Đức” trong
tâm thức của con người ,mong muốn con người phải sống biết cách đối nhân xử thế
ở đời thể hiện ở chỗ phải biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ trong gia đình và đối với
đất nước thì phải biết yêu quý đất nước, cũng như cuộc sống này –cuộc sống đã
mang chúng ta đến được với nhau để cùng nhau vượt qua những khó khăn trở ngại

làm nên cái gọi là những giá trị bất hũ “chân ,thiện ,mỹ”.Coi trọng và đề cao giá trị
của người phụ nữ ,để tiếp sức cho mọi người cùng nhau đoàn kết đấu tranh chung
trong lịch sử ,cùng giao lưu đoàn kết với các dân tộc để cùng nhau xây dựng nên
mái nhà chung của toàn thể các dân tộc anh em đang cùng sinh sống và tồn tại trên
mãnh đất này , làm cho vẻ đẹp của hình tượng Bà Chúa Xứ không bị phai mờ và
ngày càng hấp dẫn hơn nữa trong lòng các du khách trong và ngoài nước mỗi khi
có dịp trở lại nơi đây ,để cùng nhau nhìn ngắm lại chân dung của Bà thông qua “Lễ
hội tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam ở thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang”.
Việc nhìn lại một cách toàn diện ,biện chứng ,đánh giá một cách nghiêm túc về
“tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ”, vì trong tín ngưỡng thờ Bà có chứa đựng rất nhiều
những giá trị về mặt văn hóa tinh thần.Vì những giá trị đó mang những ý nghĩa rất
khoa học và thực tiễn. Cái “ý nghĩa khoa học” mà tôi muốn nhấn mạnh nhất không
chỉ là giá trị về mặt văn hóa tinh thần mà còn là giá trị về mặt đạo đức của con
người ,trong cách đối nhân xử thế ở đời thông qua hình ảnh về “Bà Chúa Xứ” thêm
vào sự kết hợp với giá trị lịch sử đã làm nên một lễ hội cổ truyền rất nhân văn và
sâu sắc ở tỉnh An Giang. Vì lễ hội mang ý nghĩa khoa học sâu sắc nên đã dẫn đến
sự hình thành cái yếu tố mang ý nghĩa thực tiễn-cái thực tiễn mà tôi muốn đề cao
nhất thông qua những giá trị văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu đó là ;việc bồi dưỡng
,giáo dục thế hệ trẻ về quê hương đất nước ,về con người An Giang từ đó hình
thành lòng yêu quê hương,tinh thần cần cù lao động ,tinh thần năng động ,sáng
tạo ,hiếu học ,trọng nhân nghĩa ,hiếu thảo với cha mẹ ,gắn bó với cộng đồng anh em
, từ việc hình thành những tình cảm tốt đẹp giữa con người với nhau đã mang lại
nhữnggiá trị cao quý về mặt giao lưu ứng xử với các dân tộc trong nước ,chính vì
chúng ta tôn trọng lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực và nhất là lĩnh vực văn hóa ,làm

2


cho tình đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc trên mặt trận văn hóa có phần sâu sắc
hơn,dẫn đến việc các dân tộc sẽ cùng chung sức để bảo vệ nền độc lập ,tạo tiềm

năng cho ngành du lịch ở Thành phố Châu Đốc của tỉnh An Giang ngày càng vững
mạnh và phát triển hơn trong tương lai .
Với tất cả những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi
Sam ở thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang” ,làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Lịch sử Việt Nam .
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề :
Viết về “Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam ở thành phố Châu Đốc tỉnh An
Giang” đề tài đã có rất nhiều bài viết trực tiếp cũng như gián tiếp. Sau đây là một
số tác phẩm tiêu biểu.
Cuốn “Dư địa chí An Giang” -2007, của Nhà xuất bản An Giang ,là một trong
những cuốn viết về toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của vùng đất này ,do
nhiều tác giả nghiên cứu từng vấn đề hợp chung lại làm một ,trong đó có đôi nét về
“Tín ngưỡng thờ Bà Chuá Xứ Núi Sam ở tỉnh An Giang”,trong tác phẩm này tác giả
chủ yếu trình bày một cách chung chung về các nghi thức của lễ hội Bà Chúa Xứ
Núi Sam hằng năm đã và đang diễn ra như thế nào ở tỉnh An Giang.
Cuốn “Lịch lễ hội Việt Nam” -2010 ,của Nhà xuất bản Thời Đại ,tác giả đề cập
đến thời gian diễn ra tất cả các lễ hội trong năm ,nổi bật nhất là lễ hội Vía Bà Chúa
Xứ Núi Sam hằng năm ,nhưng ở đây tác giả cũng chỉ nêu một cách khái quát về
thời gian mà lễ hội đã và đang diễn ra như thế nào
Cuốn “Lịch sử xây dựng và phát triển Miếu Bà Núi Sam”-2013 ,của Nhà xuất
bản văn hóa nghệ thuật Châu Đốc ,tác phẩm này khá đặc biệt ở chỗ là tác giả đã hệ
thống tất cả các vấn đề về tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ,thông qua việc Bà Chúa Xứ
có nguồn gốc từ đâu với những nghi lễ như thế nào mà đã kết tinh lên những tinh
hoa văn hóa tinh thần cho cộng đồng của người dân An Giang nói chung và nhân
dân cả nước nói chung ,đồng thời tác giả cũng đề cập đến việc quản lý lễ hội trong
năm nhằm góp phần nâng cao giá trị to lớn trong việc thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam ở
TP Châu Đốc tỉnh An Giang .

3



Cuốn “Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ -bản sắc và giá trị -2014,của Nhà xuất
bản Đại học quốc gia TPHCM , do tác giả Ngô Đức Thịnh –Võ Văn Sen (đồng chủ
biên) ,là một trong những tác phẩm hay nhất trong đó bao gồm rất nhiều bài viết của
các tác giả về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ nói chung và việc thờ Bà Chúa Xứ
Núi Sam nói riêng .Qua đó chúng ta có thể thấy rằng việc tôn thờ tín ngưỡng Bà
Chúa Xứ Núi Sam đã được các tác giả thể hiện rất rõ nét về các giá trị mà tôi đã và
đang sẽ thực hiện ở bài luận văn này ,đó là 1-giá trị văn hóa tâm linh ;2-giá trị văn
hóa đạo đức ;3-giá trị văn hóa thẫm mỹ ;4-giá trị văn hóa nghệ thuật ;5-giá trị văn
hóa ứng xử trong cộng đồng với các dân tộc anh em v.v...tất cả những yếu tố này
đã góp phần hợp chung lại làm cho tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam thêm phần
hoàn thiện và sâu sắc hơn cho tác phẩm này .
Nhìn chung trên đây chỉ là một số tác phẩm cơ bản của các nhà nghiên cứu
trong nước trong những năm gần đây về “Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam ở
tỉnh An Giang”.Tuy tôi vẫn chưa có cơ hội để tham khảo hết tất cả những bài viết
này ,do có rất nhiều cách viết của nhiểu tác giả khác nhau .Thế nhưng với những bài
viết này thì tôi nghĩ rằng để có thể làm thành một bài viết hoàn chỉnh với ý nghĩa
thâm sâu như thế thì các tác giả phần nào cũng đã kế thừa những thành tựu của các
công trình nghiên cứu khoa học từ các bài viết trước đó ,để viết nên những bài viết
về “tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ” thông qua lễ hội Vía Bà Chúa Xứ ở Núi Sam”
hằng năm dưới nhiều góc độ và sự hiểu biết khác nhau ,để không những thể hiện sự
tôn trọng giá trị tinh thần và bản sắc văn hóa của người dân An Giang mà còn thể
hiện lên tình đoàn kết gắn bó keo sơn của các dân tộc anh em đang cùng sinh sống
trên mãnh đất đầy thiêng liêng và hấp dẫn với việc sùng bái những tín ngưỡng Mẫu
thật đặc sắc và phong phú như thế .Vì thế mà tôi muốn nghiên cứu về vấn đề này để
làm sáng tỏ những nét độc đáo , tinh túy về bản sắc văn hóa lễ hội ở tỉnh An Giang
thông qua đề tài “Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam ở thành phố Châu Đốc tỉnh
An Giang”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích :


4


Tìm hiểu những nét độc đáo và tinh tế những giá trị tâm linh trong việc tôn thờ
tín ngưỡng Bà Chúa Xứ , góp phần gìn giữ những nét đẹp về bản sắc văn hóa lễ
hội truyền thống và phát huy hơn tình đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc anh em
,thông qua lễ hội về“Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam ở thành phố Châu Đốc
tỉnh An Giang” .
Nhiệm vụ:
Thông qua nghiên cứu “Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở thành phố Châu Đốc
tỉnh An Giang” luận văn góp phần tìm hiểu những giá trị văn hóa, lịch sử, thẩm mỹ
của tín ngưỡng này trong cộng đồng dân cư ở Châu Đốc, An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng:
Đối tượng của luận văn là Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam ở thành phố
Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang .
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian :Phạm vi không gian nghiên cứu của luận văn được giới hạn là
thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang .
Về thời gian :Phạm vi thời gian luận văn được giới hạn từ khi nước ta tiến hành
cải cách đổi mới đất nước (1986) cho đến nay.
Về nội dung: Luận văn được giới hạn phần nội dung là tục thờ Bà Chúa Xứ Núi
Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang theo đó tác giả sẽ nghiên cứu các khia
cạnh sau đây: Cơ sở thờ tự, các hình thức và nội dung thờ tự Bà Chúa Xứ Núi Sam
để làm nổi bật hình tượng Bà , vị trí của Bà trong lòng người dân An Giang nói
riêng và toàn thể nhân dân Nam Bộ nói chung .
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu :
Nguồn tư liệu:
Nguồn tư liệu để hoàn thành luận văn gồm: nguồn tư liệu thành văn như :sách,

báo về , các thông tin trên các trang mạng ,các loại sách tham khảo, các di tích, cơ
sở thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam; Nguồn tư liệu điền dã của chính tác giả .
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu :
Cơ sở lý luận:

5


Dựa trên cơ sở lý luận của CN Mác-Lênin ,tư tưởng Hồ Chí Minh ,các quan
điểm đường lối chính sách của Đảng về vấn đề xây dựng và phát triển nền văn hóa
dân tộc ,cùng với những vấn đề về vấn đề giao lưu văn hóa giữa các dân tộc anh em
trong nước và nhất là mối quan hệ giữa các dân tộc ở tỉnh An Giang .Sau cùng là
những chính sách khắc phục những tệ nạn xã hội có liên quan đến tín ngưỡng ,tôn
giáo,để làm cơ sở lý luận bổ xung cho bài luận văn của tôi thêm hoàn chỉnh và sâu
sắc hơn.
Phương pháp nghiên cứu :
Trong phương pháp nghiên cứu thì tôi sử dùng loại phương pháp chung đó là
;phương pháp luận và phương pháp cụ thể .Và trong mỗi phương pháp bao gồm
những chi tiết cụ thể như sau :
Phương pháp luận bao gồm :phương pháp biện chứng, phương pháp lịch sử
và phương pháp lôgic :
Phương pháp lịch sử : sử dụng phương pháp này tác giả tục thờ Bà Chúa Xứ
trong một không gian là thành phố Châu Đốc, và thời gian để thấy được chiều dài
lịch sử về tín ngưỡng Mẫu phát triển như thế nào (chủ yếu sử dụng trong bối cảnh
lấy mốc thời gian từ 1986 cho đến nền kinh tế đất nước phát triển mạnh vào năm
2010 tại khu vực thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang thuộc khu vực Tây Nam Bộ ).
Phương pháp lôgic: từ việc nghiên cứu về phương pháp lịch sử như trên thì tôi
sẽ hệ thống lại những thông tin bằng cách sử dụng phương pháp lôgic ,để làm rõ
những nét đẹp về bản sắc văn hóa của tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở thành phố
Châu Đốc ,sau đó để làm nổi bật vấn đề hơn nữa thì tác giả kết hợp với phương

pháp biện chứng
Phương pháp biện chứng :sử dụng qua việc so sánh mối liên hệ giữa việc tôn
thờ tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ với những tín ngưỡng Mẫu ở các nơi khác như
Bắc Bộ chẳng hạn để thấy được những điểm giống và khác nhau như thế nào của
các tín ngưỡng Mẫu ,nhằm phân tích và biện luận nó một cách chặt chẽ hơn nhằm
nâng cao vai trò , đặc điểm ,giá trị ,bản sắc văn hóa dân gian về tín ngưỡng Mẫu
trong đời sống tâm linh của người dân trong cả nước nói chung .
Phương pháp cụ thể bao gồm : phương pháp điền dã,xã hội học và dân tộc học.

6


Phương pháp điền dã: đi khảo sát thực tế ở thành phố Châu Đốc ,vừa thấu hiểu
hơn những nét độc đáo về tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam” ở tỉnh An
Giang ,vừa có cơ hội để giao lưu và tìm hiểu về cuộc sống gắn bó của các dân tộc
anh em (Chăm ,Khơmer,Hoa) trên vùng đất An Giang từ khi mới định cư và cho
đến nay thì mối quan hệ đó có còn thân thiện như trong quá khứ hay không .
Ngoài các phương pháp trên thì tôi còn có thể sử dụng các phương pháp dân tộc
học ,xã hội học những phương pháp có liên quan đến đề tài luận văn mà tôi đang
thực hiện .
6. Đóng góp của đề tài :
Đề tài về “tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam ở thành phố Châu Đốc tỉnh An
Giang”mà tôi đang thực hiện mang lại những đóng góp như sau .
Thứ nhất: việc giữ gìn bản sắc văn hóa tâm linh và giá trị đạo đức trong việc tôn
thờ tín ngưỡng “Bà Chúa Xứ” ở tỉnh An Giang. Biểu hiện cái vẻ đẹp bên ngoài của
tín ngưỡng Mẫu dưới góc nhìn chung khi tác động đến việc tôn thờ Bà Chúa Xứ ở
An Giang dưới góc nhìn riêng là toàn bộ cái vẻ đẹp thánh thiện,hiền lành ,phúc hậu
của một người phụ nữ Việt Nam .Bên cạnh vẻ đẹp bên ngoài thì còn có vẻ đẹp ở
bên trong của tín ngưỡng thờ “ Bà Chúa Xứ”nhằm thu phục nhân tâm , “nhân tâm”
ở đây tức là chỉ cái “đạo đức” ,lẽ phải ở đời ,hướng cho con người theo một hướng

đi tốt ,lối sống tốt đẹp để con người sống phải biết hòa đồng ,thân thiện và giúp đỡ
lẫn nhau ,làm cho tình đoàn kết giữa các dân tộc thêm bền bỉ hơn ,chứ không phải là
để cho con người chỉ biết thiêng về cái thế giới huyền ảo ,mê tín dị đoan mà đố
kỵ,ganh ghét ,tranh đấu lẫn nhau ,làm phá vỡ khối đoàn kết của các dân tộc chung
trong cả nước .
Thứ hai: việc giữ gìn và phát huy khối đoàn kết giữa các dân tộc trong nước và
đấu tranh phòng chống việc lợi dụng các vấn đề về dân tộc và tôn giáo nhằm chống
phá cách mạng , .Bởi vì An Giang ngoài việc có nhiều đồng bào dân tộc đang sinh
sống ,định cư thì cũng là một tỉnh phải gánh chịu hậu quả rất nặng nề từ những cuộc
chiến tranh phi nghĩa của các nước phương Tây.Cho nên theo tôi nghĩ vấn đề quan
trọng hiện nay mà Đảng ta phải thực hiện đó là ngoài việc phát huy cái truyền
thống văn hóa dân tộc thì đều cấp thiết là phải giữ vững cái khối đoàn kết của toàn

7


dân tộc .Và chỉ có việc liên minh giữa các dân tộc chung trong cả nước thì mới bảo
vệ được nền độc lập của dân tộc ,không chỉ ở quá khứ mà còn ở cả hiện tại và nhất
là trong tương lai sắp tới –một tương lai mà chúng ta sẽ không thể biết trước
những diễn biến hòa bình trên thế giới sẽ và đang diễn ra như thế nào ?Đó chính là
những đóng góp mà tôi sẽ thực hiện thông qua bài luận văn “Tín ngưỡng thờ Bà
Chúa Xứ Núi Sam ở thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang”.
7. Bố cục của đề tài :
Ngoài phần mở đầu ,phần kết luận ,danh mục tài liệu tham khảo ,phần Phụ lục, bố
cục của luận văn gồm 3 chương .

Chương 1: Khái quát về thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang
Chương 2 : Tục thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam ở thành Phố Châu Đốc tỉnh An
Giang
Chương 3 : Một vài nhận xét về tục thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam ở thành Phố

Châu Đốc tỉnh An Giang

8


CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC TỈNH AN GIANG
1.1.Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của thành phố Châu Đốc:
Châu Đốc là một thành phố trực thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam, nằm ở đồng
bằng sông Cửu Long, sát biên giới Việt Nam với. Châu Đốc là thành phố đầu tiên
ở Đồng bằng sông Cửu Long không phải là tỉnh lỵ của một tỉnh vào thời điểm hiện
nay. Tuy nhiên, Châu Đốc lại từng là tỉnh lỵ của tỉnh Châu Đốc cũ vào thời Pháp
thuộc trước năm 1956 và trong giai đoạn 1964-1975 dưới thời Việt Nam Cộng hòa.
Đặc biệt, Châu Đốc lại là lỵ sở của toàn bộ tỉnh An Giang vào thời nhà Nguyễn độc
lập. Địa bàn tỉnh An Giang khi đó bao gồm tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ,
tỉnh Hậu Giang, tỉnh Sóc Trăng, một phần tỉnh Đồng Tháp và một phần tỉnh Bạc
Liêu ngày nay.
Thành phố Châu Đốc nằm trên bờ sông Hậu, cách thành phố Hồ Chí
Minh khoảng 245 km vềphía tây, nếu chạy xe buýt mất khoảng 6 tiếng.Châu Đốc
với diện tích tự nhiên 99,95 km² ,dân số 104.134 người ,gồm 2 phường và 3 xã ,có 2
xã giáp biên giới Campuchia là Vĩnh Tế ,Vĩnh Ngươn .Châu Đốc cách tỉnh lỵ Long
Xuyên 54 km theo đường quốc lộ 91 .Phía đông bắc thành phố giáp huyện An Phú
8,207 km .Phía đông giáp huyện Phú Tân và thị xã Tân Châu 3,60 km .Phía nam
giáp huyện Châu Phú 14,570 km .Phía tây nam giáp huyện Tịnh Biên 10,071 km và
biên giới phía tây bắc giáp với Campuchia. Châu Đốc có vị trí địa lý khá đặc biệt
nằm ở ngã ba sông, nơi sông Hậu và sông Châu Đốc gặp nhau; giữa 4 cửa khẩu
kinh tế sầm uất là: cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên - huyện Tịnh Biên, cửa khẩu quốc
gia Khánh Bình - huyện An Phú và cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương - thị xã Tân
Châu. Từ vị trí này, thị xã Châu Đốc được xem là cửa ngõ giao thương quan trọng
của tỉnh An giang và vùng Đồng bằng sông Cửu long, là nơi tập trung hàng hoá

buôn bán với Vương quốc Campuchia qua cả hai đường thuỷ, bộ. Thị xã Châu Đốc
thuộc vùng đồng bằng của tỉnh An giang do phù sa sông Hậu bồi đắp. Địa hình thấp
dần theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Ở trung tâm có Núi Sam đột khởi lên giữa
đồng bằng tạo nên cảnh quan độc đáo. Phía đông có sông Châu Đốc và sông Hậu

9


chảy theo chiều Bắc - Nam. Phía tây có kênh Vĩnh Tế chạy song song với biên giới
Campuchia, nối liền với thị xã Hà Tiên. Địa hình chia cắt bởi các kinh rạch ngang
dọc. Với địa hình đa dạng, Châu Đốc có điều kiện phát triển về thương mại, dịch
vụ, du lịch và nông nghiệp.
Thị xã Châu Đốc nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, mang những đặc tính chung
của khí hậu vùng ĐBSCL, nóng ẩm quanh năm, nhiệt độ bình quân hàng năm 25oC
- 29oC, nhiệt độ cao nhất từ 36oC - 38oC, nhiệt độ thấp nhất hàng năm thường xuất
hiện vào tháng 10, dưới 18oC. Khí hậu hàng năm chia làm 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa
từ tháng 5 đến tháng 11 trùng với gió mùa Tây Nam; mùa khô từ tháng 12 đến
tháng 4 năm sau trùng với gió mùa Đông Bắc; lượng mưa trung bình hàng năm
khoảng 1500mm. Khí hậu, thời tiết thị xã Châu Đốc có nhiều điều kiện thuận lợi
cho sản xuất nông nghiệp, thích nghi với các loại cây trồng; đặc biệt là cây lúa và
cây màu. Thị xã ít chịu ảnh hưởng của gió bão nhưng chịu sự tác động mạnh của
chế độ thuỷ văn gây nên hiện tượng ngập lụt, sạt lỡ đất bờ sông .Theo đặc điểm thổ
nhưỡng, Châu Đốc có 6 nhóm đất chính; trong đó nhóm phù sa ngọt và phù sa có
phèn chiếm 72% diện tích tự nhiên. Phần lớn đất đai của Châu Đốc rất màu mỡ, có
độ thích nghi để canh tác, phù hợp với nhiều loại cây lương thực, cây ăn trái, một số
cây công nghiệp nhiệt đới và một phần diện tích có khả năng dành cho chăn nuôi.
Trữ lượng nguồn nước của Thị xã khá dồi dào, có thể khai thác và phục vụ sản xuất
công nghiệp, sinh hoạt. Hiện nay, Châu Đốc vẫn tiếp tục công trình cải tạo, nâng
cấp và xây mới các nhà máy nước ở các khu dân cư tập trung và các cụm công
nghiệp. Rừng ở Châu Đốc đa phần là rừng đồi núi với diện tích 210ha, tập trung chủ

yếu ở Núi Sam. Trong đó, rừng trồng khoảng 99ha, còn lại là rừng tự nhiên thuộc
rừng ẩm nhiệt đới, đa số là cây lá rộng với 154 loài cây quý hiếm, thuộc 54 họ.Với
điều kiện tự nhiên phong phú và dồi dào như thế đã làm cho tiến trình của tỉnh
Châu Đốc phát triển rất nhanh từ việc phải trải qua những biến cố và thay đổi của
tỉnh về mặt địa lý hành chính qua các thời kỳ lịch sử,biến vùng đất này từ một “thị
xã” trở thành một “thành phố Châu Đốc” đứng vị trí thứ hai sau “Thành phố Long
Xuyên” của tỉnh An Giang nói chung trong cả nước [55 ,tr 1].

10


1.2.Lịch sử quá trình chuyển đổi về mặt địa lý hành chính của Thành phố
Châu Đốc : [xem phụ lục hình 1]
Ở giai đoạn chúa Nguyễn cai trị thì lãnh thổ Châu Đốc nguyên là đất thuộc
nước Chân Lạp, gọi là Tầm Phong Long (Kompong Long). Năm 1757 ,vua Chân
Lạp là Nặc Ông Tôn hiến dâng vùng đất Tầm Phong Long (bao gồm An Giang
,Đồng Tháp ,Cần Thơ , Sóc Trăng ngày nay ) cho Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738
-1765) .Nguyễn Cư Trinh thừa lệnh Chuá Nguyễn đặt làm 3 đạo :Đông Khẩu (tức
Sa Đéc ) ,Tân Châu và Châu Đốc ,chính thức thiết lập nền hành chính toàn Nam
Bộ . Ngay từ đầu Chúa Nguyễn đặt Đạo biên phòng tại Châu Đốc .Đây chưa phải
là tổ chức hành chính quy cũ mà chỉ đóng vai trò đồn trú phòng án ngữ sông Hậu
.Đến năm 1788 ,Nguyễn Ánh chiếm tại Gia Định sắp xếp hành chính Nam Bộ
,Châu Đốc thuộc trấn Vĩnh Dinh .Năm 1802 ,đổi thành trấn Vĩnh Thanh (gồm An
Giang ,Vĩnh Long ).Tài liệu sử quán nhà Nguyễn ghi lại “Vì đất ấy nhiều chỗ bỏ
hoang ,đầu năm Gia Long gọi dân đến ở gọi là Châu Đốc Tân Cương ,đặt Quản đạo
lệ vào tỉnh Vĩnh Long”.Nhà Nguyễn chọn Châu Đốc làm trung tâm huyện Vĩnh
Định . Năm 1805 niên hiệu Gia Long thứ 3, đã đặt lại địa giới hành chính Châu Đốc
thuộc trấn Hà Tiên, Châu Đốc lúc này gọi là Châu Đốc Tân Cương. Năm 1808,
Châu Đốc thuộc huyện Vĩnh Định, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh, thuộc Gia
Định thành. Năm 1815, triều Nguyễn cho xây thành Châu Đốc. Đến 1825, Châu

Đốc tách riêng thành Châu Đốc trấn.
Năm 1832 niên hiệu Minh Mạng 13, vua Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh, phủ
Gia Định chia thành Nam Kỳ lục tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh
Long, Hà Tiên và An Giang. Trấn Châu Đốc đổi thành tỉnh An Giang. Thành Châu
Đốc, vùng đất mà nay là thành phố Châu Đốc, là tổng Châu Phú thuộc huyện Tây
Xuyên và trở thành tỉnh lỵ của tỉnh An Giang nhà Nguyễn (thành Châu Đốc khi đó
nằm ở khoảng giữa của huyện Tây Xuyên, huyện này gồm cả phần đất nay thuộc
đông nam tỉnh Takeo Campuchia). Đồng thời Minh Mạng cho đặt chức tổng đốc An
Hà, lỵ sở tại thành Châu Đốc, cai quản 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên (gồm phần
lớn đồng bằng sông Cửu Long ngày nay). Để xứng đáng là tỉnh lỵ của mộttrong sáu
tỉnh Nam Kỳ (tỉnh An Giang thời đó bao gồm các phần đất mà nay là các tỉnh thành

11


An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, một phần của các tỉnh Đồng Tháp, Bạc
Liêu của Việt Nam, và một phần của tỉnh Takeo Campuchia), năm (1831)niên hiệu
Minh Mạng 12, vua Minh Mạng cho triệt phá thành (đồn) Châu Đốc cũ (1815), xây
dựng thành Châu Đốc mới theo hình bát quái, ở phía đông đồn Châu Đốc cũ. Theo
Nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ Lục tỉnh 1836 của Nguyễn Đình Đầu, tổng Châu Phú
khoảng những năm 1836-1839 có các thôn làng sau: Vĩnh Tế Sơn, Vĩnh Ngươi,
Vĩnh Phước, Vĩnh Hội, Vĩnh Khánh, Nhơn Hội, Nhơn Hòa, Long Thạnh, Bình
Thạnh, An Thạnh, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Thành, An Nông, Hưng An, Khánh An, Phú
Cường, Vĩnh Bảo, Vĩnh Thọ, Vĩnh Thông, Vĩnh Lạc, Vĩnh Điều, Vĩnh Trung, Vĩnh
Trường, Thới Hưng, Thân Nhơn Lý. [ 55, tr 4].
Ở vào giai đoạn thực dân Pháp thống trị thìsau khi quân Pháp thôn tính trọn
Nam Kỳ ,chúng chia Nam Kỳ thành 24 sở tham biện .Sở tham biện Châu Đốc trông
coi huyện Đông Xuyên và Hà Dương .Theo nghị Định ngày 20 ,tháng 12 năm 1899
,Thống Đốc Nam Kỳ bãi bỏ sở Tham biện đổi thành tỉnh ,Châu Đốc là một trong 22
tỉnh Nam Kỳ lúc bấy giờ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm

1948 ,Uỷ ban hành chính Nam Bộ phân định ranh giới tỉnh của Long Xuyên ,Châu
Đốc thành 2 tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hậu .Cuối năm 1950 ,Long Châu
Hậu nhập thêm Hà Tiên thành tỉnh Long Châu Hà .Cuối năm 1954 ,xứ ủy Nam Bộ
lập lại hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc.
Vào giai đoạn đế quốc Mỹ cai trị thì vào ngày 22 tháng 10 năm 1956 ,chính
quyền Ngô Đình Diệm hợp nhất Long Xuyên ,Châu Đốc thành tỉnh An Giang .Năm
1964 ,chính quyền Sài Gòn tách An Giang thành hai tỉnh :Châu Đốc và An
Giang .Về phía Cách Mạng ,giữa năm 1957 cũng lập thành tỉnh An Giang ,Châu
Đốc là quận Châu Phú .Năm 1964 -1971,Châu Đốc được nâng lên cấp thị xã của An
Giang ,dođịa bàn tỉnh Châu Đốc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do
tỉnh An Giang của chính quyền Cách mạng quản lý. Chính vì vậy, trong giai đoạn
này chính quyền Cách mạng vẫn đặt huyện Châu Phú và thị xã Châu Đốc cùng
thuộc tỉnh An Giang .Năm 1971, thị xã Châu Đốc vẫn thuộc tỉnh An Giang sau khi
tách đất tỉnh An Giang để thành lập tỉnh Châu Hà. Cho đến tháng 5 năm 1974, thị

12


xã Châu Đốc và huyện Châu Phú cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà theo Hội nghị
thường trực Trung ương Cục cho đến ngày giải phóng.
Đến giai đoạn đất nước ta sau ngày giải phóng sau ngày 30 tháng
4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn
đặt thị xã Châu Đốc trực thuộc tỉnh Long Châu Hà .Đến ngày 20 /12/1975 ,theo
quyết định 19 của Bộ Chính Trị ,thành lập tỉnh An Giang ,Châu Đốc là thị xã thứ
hai của tỉnh An Giang sau tỉnh lỵ Long Xuyên .Biểu hiện như
sau :Tháng 2 năm 1976, thị xã Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang, gồm 2 xã ban
đầu: Châu Phú A và Châu Phú B.Ngày 27 tháng 01 năm 1977, thị xã Châu Đốc
nhận thêm xã Vĩnh Ngươn của huyện Châu Phú theo Quyết định số 199/TC.UB
của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.Quyết định 181-CP ngày 25 tháng 04 năm
1979 của Hội đồng Chính phủ:1 .Chuyển xã Châu Phú A thành phường Châu

Phú A.2 .Sáp nhập 1/2 ấp Châu Thới 1 và 1/2 ấp Châu Thới 2 của phường Châu
Phú A vào phường Châu Phú B (theo đường rãnh lòng kinh Vĩnh tế, qua lòng
kinh cầu số 4 đến giữa lộ núi Sam – Châu Đốc).3.Tách ấp Mỹ Chánh 1, 1/2 ấp
Mỹ Hòa (theo kinh đào thẳng ra sông Hậu Giang) của xã Mỹ Đức, huyện Châu
Phú, ấp Châu Long 1, ấp Châu Long 6 của phường Châu Phú B lập thành một xã
lấy tên là xã Vĩnh Mỹ.Quyết định 300-CP ngày 23 tháng 08 năm 1979 của Hội
đồng Bộ trưởng, sáp nhập xã Vĩnh Tế của huyện Châu Phú vào Châu Đốc.
Ở giai đoạn hiện nay theo Nghị định 29/2002/NĐ-CP ngày 22 tháng 03 năm
2002 của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính:1.Thành lập phường Núi
Sam trên cơ sở 1.397 ha diện tích tự nhiên và 21.241 nhân khẩu của xã Vĩnh Tế.
2.Sau khi thành lập phường Núi Sam, xã Vĩnh Tế còn lại 3.121 ha diện tích tự nhiên
và 5.172 nhân khẩu.Nghị định 53/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 05 năm 2003 của
Chính phủ:1.Thành lập phường Vĩnh Mỹ trên cơ sở 779,6 ha diện tích tự nhiên và
14.870 nhân khẩu của xã Vĩnh Mỹ.2.Đổi tên xã Vĩnh Mỹ thành xã Vĩnh Châu.Nghị
quyết 86/NQ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về việc thành lập thành
phố Châu Đốc.1.Thành lập phường Vĩnh Ngươn trên cơ sở toàn bộ 947,30 ha diện
tích tự nhiên và 7.489 nhân khẩu của xã Vĩnh Nguơn.2.Thành lập thành phố Châu
Đốc trên cơ sở toàn bộ 10.529,05 ha diện tích tự nhiên, 157.298 nhân khẩu và 7 đơn

13


vị hành chính cấp xã của thị xã Châu Đốc, gồm 05 phường; Châu Phú A, Châu Phú
B, Núi Sam, Vĩnh Mỹ, Vĩnh Nguơn và 02 xã: Vĩnh Châu, Vĩnh Tế. Sự thay đổi về
mặt địa lý hành chính đã làm cho “thị xã Châu Đốc” ngày càng ổn định về mặt hành
chính,phát triển về kinh tế đồng thời với vị trí giao thông quan trọng trong việc
bảo vệ an ninh quốc phòng ,giao lưu giữa hai tỉnh Takeo ,Kandal và thủ đô Phnom
Pênh của Campuchia ,làm cho vùng đất này trở nên trù phú và thu hút nhiều cư dân
từ các nơi khác đến đây để an cư lập nghiệp , khai phá và phát triển vùng đất Châu
Đốc.[11,tr27 -31].

1.3.Tình hình kinh tế xã hội và dân cư
1.3.1.Tình hình chung về dân số của vùng đất Châu Đốc
Nếu Thành phố Long Xuyên với tỉ lệ dân số phát triển cao và thuộc loại thành
phố đầu tiên của tỉnh An Giang thì Thành phố Châu Đốc cũng thuộc loại thành
phố thứ hai với tỉ lệ dân số cũng không kém gì so với Thành phố Long Xuyên
được thể hiện qua các giai đoạn Pháp thuộc , chống Mỹ và sau giải phóng cho đến
ngày nay .
*Thời Pháp thuộc: [11, tr233]
Theo Nghị định ngày 20-12-1899 ,Pháp bãi bỏ danh xưng địa hạt đổi thành
tỉnh .Thống kê dân số lúc đó còn sơ sài ,nhưng cũng đã nắm được tình hình dân số
vào năm 1910 của 14 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long là 1.959.898 người .Trong đó
thì dân số của tỉnh Châu Đốc đứng hàng thứ 7 so với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu
Long .Và trong thời gian tài liệu ít nói đến dân số tỉnh Châu Đốc ,hoặc có nói ,chỉ
đề cập đến vài năm rời rạc lẻ tẻ .Có lẽ do tỉnh Châu Đốc thuộc miền biên giới ,dân
xiêu tán nhiều và lưu dân đến và đi liên tục ,chiến tranh liên miên ,địa giới lại cũng
hay thay đổi ,nên công tác thống kê dân số các năm quá khó khăn .Mặc dù có khó
khăn về công tác thống kê,dân số của tỉnh Châu Đốc cũng được thể hiện khá đầy đủ
cũng giống như Thành phố Long Xuyên :

14


NĂM
1899

TỔNG DÂN SỐ CHÂU ĐỐC
279.933 người

1901
1916

1936
1943

145.399 người
169.306 người
254.000 người
273.400 người

1946

272.800 người

1954
210.300 người
Hình 1.Bảng thống kê dân số Châu Đốc thời Pháp thuộc
Có thể nói vào giai đoạn này thì dân số của tỉnh Châu Đốc cũng có những thay đổi
rất lớn ,lúc tăng ,lúc giảm ,nhất là vào năm 1952 ,do lực lượng giải phóng vào hoạt
động mạnh ,nên thực dân Pháp không nắm được số liệu dân ,mà chỉ phỏng ước
,mặc khác do có sự can thiệp của đế quốc Mỹ ,nên chính sách về sự gia tăng ,phỏng
ước về dân số ngày càng có sự khác biệt hơn so với thời Pháp thuộc .
*Thời kháng chiến chống Mỹ : [11, tr236-238]
Để có sự nhìn nhận về dân số một cách rõ ràng hơn ,từ việc xác nhập cả hai tỉnh
Long Xuyên và Châu Đốc vào toàn tỉnh An Giang vào năm 1957 ,đến năm 1964
,tỉnh An Giang lại chia ra hai tỉnh An Giang và Châu Đốc riêng ,với dân số và diện
tích khác biệt như sau :

NĂM
1964
1967
1970

1973

DIỆN TÍCH

TỔNG SỐ DÂN CHÂU ĐỐC

2.052 km²

419.978 người
475.916 người
556.452 người
691.400 người

Hình 2 :Bảng thống kê dân số Châu Đốc thời đế quốc Mỹ
Theo bảng thống kê như trên của tỉnh Châu Đốc có thể thấy rằng trong khoảng thời
gian 6 năm (1967 -1973) ,dân số có tốc độ tăng trưởng cao khoảng 3% ,dân số vẫn
tiếp tục phát triển mặc dù chiến tranh đã làm hao hụt bớt ,nhưng không làm giảm đi
sự phân bố và tập trung dân cư trong tỉnh chủ yếu ở vùng cù lao giữa sông Tiền và
sông Hậu ,và dọc theo tuyến đường Long Xuyên –Châu Đốc .Với dân số tăng
nhanh ,và chính sách phân bố dân cư hợp lý đã thu hút rất nhiều các dân tộc thiều số

15


trong và ngoài nước đến để sinh sống ,giao lưu ,cùng lập nghiệp trong vùng đất
này ,đã làm cho vùng Châu Đốc từ một nơi hoang vu trở thành một nơi phát triển và
ổn định nhất là sau ngày giải phóng miền Nam (30-4-1975) .
*Sau ngày giải phóng miền Nam : [11, tr239]
Năm 1975 ,giải phóng miền Nam thống nhất đất nước ,tỉnh An Giang và Châu
Đốc được nhập lại lần nữa thành tỉnh An Giang ,dân số phỏng ước 1.360.000

người .Đối với tỉnh Châu Đốc nói riêng thì ngoài cư dân người Việt đến để sinh
sống lập nghiệp mà ngay từ trong chiến tranh cũng đã có những dân tộc thiểu số
khác đến để cùng chung tay xây dựng nên vùng đất mới này ,được thống kê lại như
sau :

GIAI ĐOẠN

DÂN TỘC THIỂU SỐ CHÂU ĐỐC
Người Việt có 108.034 người

THỜI PHÁP THUỘC

Người Chăm có 4.459 người
Người Khmer có 28.847 người

Người Hoa có 1.816 người
THỜI KHÁNG CHIẾN CHỐNG Châu Đốc có 46.792 người Khmer
MỸ

chiếm 9,8 % và có 7.194 người Chăm
sinh sống .
Hình 3.Bảng thống kê dân tộc thiểu số Châu Đốc

Với sự gia tăng của dân tộc thiểu số cho chúng ta thấy rằng trong thời gian chiến
tranh ,nhất là giai đoạn từ (1966 đến 1969) ,cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt hơn
,làm cho biến động cơ học dân số tăng nhiều do người dân tản cư lánh nạn chiến
tranh .Trong đó thì tỉnh Châu Đốc cả trước và sau chiến tranh đều được xem là
vùng có nhiều căn cứ và mật khu kháng chiến nên số lượng dân chúng tảncư nhiều
hơn tỉnh Long Xuyên với 3,5 % dân tản cư ,(trong đó Long Xuyên chỉ với 3,2%
dân tản cư ).Tuy gặp khó khăn nhiều trong việc làm ăn ,chiến tranh liên miên nhưng

dân số của tỉnh Châu Đốc nói chung vẫn tiếp tục tăng cao (nhất là vào năm 1973 )
với tổng số dân là(691.400 người ),do chưa có sự phân bố cho dân cư một cách rõ
ràng ,mãi đến khi giải phóng miền Nam thì cư dân ở Châu Đốc mới có sự phân bố

16


một cách rõ ràng ,nhất là đối với các dân tộc thiểu số của tỉnh ,biểu hiện như sau :
[11, tr240,241]

NĂM

TỔNG SỐ

KHMER

HOA

CHĂM

1976

54.947

106

4.745

57


1999

104.835

78.259

11.201

12.432

Hình 4.Bảng tổng kết chung dân tộc thiểu số Châu Đốc
Những biểu hiện mới đã giúp cho thị xã Châu Đốc ngày càng ổn định về mặt
dân số kể từ khi chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra sức
lãnh đạo thực hiện những nghị quyết quan trọng trong việc phát triển “ thị xã Châu
Đốc”,đặc biệt là Nghị quyết 86/NQ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ
về việc thành lập thành phố Châu Đốc đã dẫn đến việc Châu Đốc xưa kia chỉ là
tỉnh lỵ ,sau ngày giải phóng là thị xã về sau trở thành là Thành phố Châu Đốc của
tỉnh An Giang với tổng diện tích là 10.529,05 ha diện tích tự nhiên ,157.298 nhân
khẩu và 7 đơn vị hành chính cấp xã ,gồm 5 phường ;Châu Phú A ,Châu Phú B
,Núi Sam ,Vĩnh Mỹ ,Vĩnh Ngươn và 2 xã ;Vĩnh Châu ,Vĩnh Tế , với số liệu thống
kê như sau : [55, tr 5].
Phường/Xã
P. Châu Phú A
P. Châu Phú B
P. Núi Sam
P. Vĩnh Mỹ
P. Vĩnh Ngươn
X. Vĩnh Tế
X. Vĩnh Châu
Toàn TP


Năm thành lập
1977
1977
2002
2003
2013
2002
2003

Diện tích (km2)
5,24
11,56
13,97
7,8
9,46
31,21
21,68
100.92

Dân số (người)
28.321
27.333
21.241
14.870
6.019
5.172
3.357
126593


Mật độ (người/km2)
5404
2365
1520
1910
636
166
155
1255

Hình 5.Bảng thống kê toàn bộ dân số Châu Đốc trong giai đoạn hiện nay
Dân số Châu Đốc có thể ổn định và phát triển hoàn toàn là do có sự di tản của nhiều
cư dân ,dân tộc từ các nơi khác đến nơi này để an cư lập nghiệp ,mới tạo nên sự
phân bố dân cư một cách hợp lý ,tạo nên một cộng đồng đoàn kết gắn bó giữa người
Việt và các dân tộc anh em trong công cuộc bảo vệ và xây dựng vùng đất mới .Qúa
trình di dân và phân bố dân cư của những cư dân khác đến sẽ diễn ra như thế nào
trên vùng đất An Giang nói chung và Châu Đốc nói riêng.

17


1.3.2.Những đặc điểm chính về quá trình di dân và phân bố dân cư của các dân
tộc đối với vùng đất Châu Đốc :
Cư dân Nam Bộ nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng có nguồn gốc rất đa
dạng ,phong phú .Đại diện cho lớp dân cư lâu đời là người Mạ ,người Xtiêng ,người
Chơ Ro.Cùng với quá trình phát triển ,bức tranh tộc người ở đồng bằng sông Cửu
Long như Tày ,Thái ,Nùng ,Dao ,Ngái,Mường ,Mnông,..Tuy nhiên chỉ có bốn tộc
cơ bản :Việt ,Khmer ,Hoa ,Chăm hợp thành cộng đồng cư dân địa phương trong cơ
cấu dân số của tỉnh Châu Đốc nói riêng và toàn tỉnh An Giang nói chung .
Nói đến vùng đất Châu Đốc là nhắc đến vùng đất An Giang ,bởi Châu Đốc có

đặc điểm là một tỉnh lỵ , vùng đất màu mỡ phù nhiêu rất thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế của vùng ,nơi hội tụ rất nhiều những tinh hoa ,bản sắc văn hóa của con
người , với những mối quan hệ gắn bó keo sơn giữa các dân tộc anh em từ các nơi
khác đến làm nên một vùng Châu Đốc đầy huyền ảo về sau trở thành một trong
những tỉnh thành phát triển bậc nhất của chung tỉnh An Giang .Và với sự có mặt của
4 dân tộc (Việt ,Chăm ,Khmer ,Hoa) đã tạo nên những đặc điểm nổi bật gì trong
tiến trình định cư và phát triển của vùng đất Châu Đốc

Người Việt : [10 ,tr 181-183]
Người Việt đến vùng đất An Giang từ lúc nào thì cho đến nay ,chưa thấy có sử
sách ghi lại một cách rõ ràng .Tuy nhiên ,theo truyền thuyết dân gian và một số vết
tích còn lại đến nay thì đã có một số nhóm người Việt gốc Trung vào đây từ rất lâu
nhưng do điều kiện sinh sống khắc nghiệt nên dân cư thưa thớt .Cuộc sống của lưu
dân lúc bấy giờ luôn bị đe dọa :
Chèo ghe sợ sấu cắn chân
Xuống bưng sợ đĩa ,lên rừng sợ ma
Mặc dù cuộc sống gặp nhiều khó khăn ,nguy hiểm nhưng người Việt vẫn kiên trì
tìm đất sống .Họ sống rải rác dọc sông Tiền và sông Hậu .Trong vùng đất An Giang
gồm 2 khu vực mới và cũ riêng biệt :1-Phía Tân Châu Ông Chưởng ,Chợ Mới dễ
canh tác ,dân đông ,làng cũ ,vì đã lập từ lâu ;2-Phía hữu ngạn sông Hậu là vùng
rừng núi hoang vu ,đất khó canh tác,dân thưa thớt ,làng mới lập .Hồi đầu thế kỷ
XVII ,phía sông Hậu từ Châu Đốc đến Năng Gù ,dân cư thưa thớt ,Chỉ có mấy khu

18


vực cao ráo như khu chợ Châu Đốc ,Mỹ Đức ,Cái Dầu …dân đến ở khá đông .Lưu
dân người Việt có công lớn trong việc khai phá lập ấp ,ổn định chỗ cư ngụ ,phát
triển kinh tế nông nghiệp .Ở vùng Châu Đốc ,ông Lê Công Thoàn (1785-1837) gốc
Thanh Hóa đã vào khai hoang lập ra ấp Châu Long (thành phố Châu Đốc ngày nay )

vào thế kỷ XVIII .Ngay từ đầu ,đạo Châu Đốc là biên địa và ác địa nhưng ông Lê
Công Thoàn ,bằng ý chí và quyết tâm của mình cộng với chính sách mở rộng đồn
điền ,lập ấp .Ông đã đứng ra chiêu mộ 50 lực điền và trực tiếp khai phá nơi đây
thành vùng đất trù phú ,quy tụ cư dân nông nghiệp .Một gia tộc thứ 2 cũng đã có
công khai phá vùng Châu Đốc hoang sơ buổi ban đầu là dòng Nguyễn Khắc ,thuộc
dòng con cháu của Nguyễn Văn Thoại .Hiện nay ,gia đình cháu đời thứ 7 của ông
vẫn còn cư ngụ tại TP.Châu Đốc .Việc khai hoang lập đồn điền của người Việt đối
với vùng Châu Đốc này ngoài việc mang lại nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh
tế nông nghiệp và các ngành nghề khác,thì còn tạo cơ hội cho cư dân Việt giao lưu
học hỏi kinh nghiệm nghề nông nhiều hơn từ sự có mặt của người Khmer trên vùng
đất Châu Đốc .

Người Khmer : [10,tr 201-207]
Theo một số tài liệu ,thư tịch cổ thì người Khmer đã định cư ở An Giang lâu
đời ,cộng cư với người Việt ,người Hoa ,cùng nhau tạo lập cơ nghiệp và phát triển
các mối quan hệ kinh tế ,xã hội ,văn hóa tộc người .Đây là dân bản địa kỳ cựu ,hầu
hết đều sinh đẻ ở Việt Nam nên gọi là người Việt gốc Khmer .Họ thường cư trú ở
các vùng núi cao ,chủ yếu xung quanh các dãy núi và tập hợp theo phum ,sóc –tổ
chức xã hội cổ truyền của cộng đồng .Do đây là vùng đất vừa mới thục đắc của
Chân Lạp nên vẫn còn lượng lớn người Khmer sinh sống ,họ tập trung nhiều nhất ở
hai huyện miền núi :Tri Tôn và Tịnh Biên ,số còn lại sống rải rác ở các huyện Châu
Phú ,Châu Thành ,Thoại Sơn .Phong tục và tiếng nói của họ cũng không khác người
Khmer của chính quốc .Người Khmer được xem là nhóm cư dân đến trước người
Việt .Họ đã di cư nhiều đợt đến vùng đất An Giang xưa .Và khi đã định cư trên
vùng đất này thì ngay từ buổi đầu khẩn đất An Giang , cũng giống như cư dân Việt
thì cư dân Khmer cũng đã chinh phục những nơi đất cao vùng đồi núi ,sau đó mới
khai phá đất đai vùng đồng bằng trũng hấp để trồng lúa và hoa màu .Với kinh

19



nghiệm trồng lúa nước lâu trên những vùng đồi cao kết hợp với cách làm lúa nước
trên ruộng sâu của lưu dân người Việt mới định cư ,người Khmer đã có những bước
tiến mới trong nông nghiệp làm năng suất lúa tăng vọt .Họ đã lai tạo và tiếp nhận
nhiều loại lúa thích hợp theo thời vụ lúa mùa ,lúa nổi ,lúa sớm .Đến năm 1910 mới
có 25.000 ha đất canh tác ruộng và rẫy trên địa bàn tỉnh Châu Đốc cũ và người
Khmer ở đây thường chỉ canh tác một ít đất khẩn hoang giữa rừng .Để canh tác
ruộng và rẫy ,người Khmer cày ,bừa ,cấy lúa ,trồng hoa màu trên ruộng gò ,sạ lúa
trên ruộng bưng và tỉa lúa ,hoa màu trên rẫy .Ngoài việc ra sức phát triển kinh tế
nông nghiệp thì người Khmer vẫn còn bảo lưu nhiều nghề thủ công cổ truyền trong
sinh hoạt kinh tế của dòng họ như ;nghề làm đường thốt nốt ,đan nệm ,bao bang
,đan lát đồ dùng bằng tre v.v..nhưng cơ bản nhất vẫn là nghề làm ruộng ,do xuất
phát từ nền kinh tế nông nghiệp .
Năm 1924 ,cộng đồng Khmer ở Tri Tôn và Tịnh Biên có 36.000 người ,chiếm
21,8 % số dân tỉnh Châu Đốc ..Năm 1946 ,cũng tại tỉnh Châu Đốc có 40.000 người
Khmer đối với 168.000 người Việt .Đến năm 1969 ,cư dân Khmer của hai tỉnh
Châu Đốc và An Giang cũ hợp lại lên tới 62.593 người ,chỉ thấp hơn tỉnh Vĩnh Bình
(tức Trà Vinh) và Ba Xuyên cùng Bạc Liêu (tức Sóc Trăng và Bạc Liêu) hợp lại
trong toàn vùng Nam Bộ .Cho đến năm 1989,theo số liệu tổng điều tra dân số Việt
Nam (ngày 1/4/1989) ,người Khmer ở An Giang có 71.723 người ,chiếm 4,05% dân
số của tỉnh và là bộ phận cư dân đông vào hàng thứ 4 sau số dân Khmer của các
tỉnh Cửu Long ,Hậu Giang và Kiên Giang .Với những thuận lợi trong sự phát triển
chung về kinh tế nông nghiệp và việc tạo dựng lên mối quan hệ gắn bó keo sơn

giữa người Việt và người Khmer cũng thu hút đến sự có mặt của người Chăm
trên vùng đất Châu Đốc
Người Chăm : [10, tr 204-206]
Người Chăm đến An Giang từ nơi đâu đến ?Hiện nay có ý kiến cho rằng ,họ từ
miền Trung vào cư ngụ trên đất Chân Lạp ,về sau họ cư ngụ trên đất Châu Giang
.Tuy họ đã rời bỏ miền Trung nhưng hiện nay ở miền Trung Việt Nam người Chăm

vẫn còn định cư .Điều này là thực tế lịch sử không thể chối cãi được.Việc họ đến
Chân Lạp có thể do đời sống khốn khổ mà họ rời bỏ làng mạc di cư vào vùng đất

20


mới .Việc ra đi của họ có thể giống với cuộc ra đi của lưu dân người Việt vào
Nam ?Nhưng trên thực tế một số người Chăm sau khi cư ngụ trên đất Chân Lạp đã
bị Nặc Nguyên ức hiếp nên từ năm 1756 , khi quân của Nguyễn Cư Trinh đến cứu
người Côn Man ,ổn định tình hình nội bộ Chân Lạp số người Chăm đã tình nguyện
gia nhập quân của Chúa Nguyễn ,Nguyễn Cư Trinh chiêu mộ họ về với Đàng Trong
,một phần đến Châu Giang định cư ,một bộ phận đến đóng ở Tây Ninh .Tiếp đến
,năm 1819 ,Thoại Ngọc Hầu trong quá trình huy động nhân lực để đào kinh Vĩnh Tế
từ Châu Đốc đến Hà Tiên đã chiêu mộ những người Chăm từ Chân Lạp đến đào
kinh .Trong những quảng nghỉ (1820) và sau khi con kinh được đào xong (1824)
,họ được thưởng công và cấp đất sinh sống tại vùng Châu Giang nên được gọi là
Chăm Châu Giang .Và cũng trong năm 1820 ,quan thống đốc người Chăm ở Cao
Miên là Saet A Bubaca bị tố cáo là phiến loạn ,bị vua Chân Lạp xử tử ở Ou dong
.Con ông và một số người khác nhờ sự che chở của người Chăm gốc Mã Lai ở
đây ,họ đã trốn về trú ngụ tại Châu Đốc được chính quyền Nguyễn cho về định cư
tại Châu Giang và Khánh Hòa .Họ trình bày với Tổng đốc An Giang ?(lúc này do
Thoại Ngọc Hầu làm Trấn thủ Vĩnh Thanh,chứ không phải An Giang) ,bây giờ xin
cho họ cư trú tại Châu Giang .Sau này những người Chăm đã bí mật sang
Campuchia và giải thoát cha mẹ của họ đã bị giam tại Kompong Lương (tỉnh
Kandal) .Dưới triều vua Minh Mạng đặt chức Bảo hộ Chân Lạp (Thoại Ngọc
Hầu).Trong quá trình đó thì người Mã Lai và người Chăm thường có mặt trong
quân đội triều Nguyễn .Đến khi triều Nguyễn không còn ảnh hưởng trên đất Chân
Lạp ,họ cùng theo về Châu Đốc .Từ năm 1854 đến năm 1857 ,khi Nguyễn Tri
Phương thiết lập đồn điền An Giang góp phần bố trí cho người Chăm cư ngụ một
cách ổn định hơn .Khi thực dân Pháp chiếm trọn 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ tổ chức

hành chánh .Đầu thế kỷ XX họ tổ chức lại các làng ở Châu Đốc thì họ lập riêng ba
làng người Mã Lai :Châu Giang có 1073 hộ khẩu ,Katambong (nay thuộc xã Khánh
Hòa ,huyện Châu Phú) có 931 hộ khẩu và Phum Soài (nay thuộc xã Châu Phong )
1280 hộ khẩu .Số người Chăm lúc này là 3284 hộ khẩu .Cũng giống như người
Khmer thì quá trình định cư của người Chăm cũng là quá trình khai phá đất đai phát
triển kinh tế nông nghiệp (nguồn sống chính của người Chăm là thủ công nghiệp và

21


thương nghiệp ,làm ruộng với người Chăm chỉ nhằm mục đích tự túc lương
thực ).Người Chăm dùng trâu ,bò để kéo cày ,bừa và trục .Sau khi cày ,trục cho đất
tơi họ gieo hạt chứ không cấy ,hạt lúa khi gặp mưa sẽ tự nảy mầm .Việc trồng lúa
đối với người Chăm được không vất vả mấy mà lại thu được năng suất cao do định
cư ở vùng đất màu mỡ ,sông sâu nước chảy .Có thể thấy rằng hoạt động kinh tế của
người Chăm ở tỉnh Châu Đốc ngoài việc khai phá phát triển kinh tế nông nghiệp thì
còn là sự kết hợp giữa các hoạt động buôn bán ,dệt thủ công ,đánh cá và sản xuất
nông nghiệp .
Năm 1971 ,ở tỉnh Châu Đốc (thuộc tỉnh An Giang ngày nay ) có 8.588 người
Chăm .Đến ngày 05/02/1976 ,tại An Giang có 8.656 người Chăm .Tháng 10 /
1979 ,số người Chăm ở đây lên đến 11.995 người .Theo số liệu tổng điều tra dân số
ngày 01/4/1989 thì toàn tỉnh An Giang có 11.585 người .Việc có mặt của cộng đồng
người Chăm trên vùng đất này thì ngoài việc khai hoang mở đất phát triển ,giữ vai
trò quan trọng trong sự nghiệp quốc phòng biên giới thì còn tạo dựng thêm một
mối quan hệ láng giềng thân thuộc mới giữa người Chăm với người Việt ,người
Khmer thêm phần khắng khít hơn và đó cũng một cơ hội để thu hút thêm sự có mặt
của người Hoa trên vùng đất Châu Đốc .

Người Hoa : [10,tr216-218]
Cùng với các luồng di dân lớn vào Việt Nam ,người Hoa định cư tại tỉnh An

Giang khá sớm .Đến định cư đầu tiên tại đây là những người từ miền Nam Trung
Quốc ,thuộc 7 phủ của các tỉnh :Phúc Kiến (phủ Chương Châu ,Phước Châu )
,Quảng Đông (Triều Châu ,Quảng Châu ,Huệ Châu ),đảo Hải Nam (phủ Huỳnh
Châu) ,An Huy (phủ Huy Châu ).Đầu thế kỷ XVIII đã có một bộ phận người Hoa
theo Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đến định cư tại huyện Chợ Mới (xã Mỹ Luông
và thị trấn Chợ Mới ).Song song đó ,xã Minh Hương đã được hình thành sớm ở
làng Long Sơn (xưa là quận Tân Châu ,nay là thị trấn Chợ Vàm –huyện Phú Tân và
ở xã Mỹ Đức (thị trấn Cái dầu ,huyện Châu Phú )thể hiện sự hội nhập vào cộng
đồng người Việt từ rất sớm ,qua hình thức sống xen kẽ .Người Hoa sống tập trung
vào hai điểm lớn là thành phố Long Xuyên và thành phố Châu Đốc . Trong quá
trình cư trú xen kẽ với người Việt ,người Hoa cũng thường sống tập trung theo từng

22


nhóm ngôn ngữ ,hình thành nhiều khu vực có đông người Triều Châu như ở thành
phố Châu Đốc ,người Hẹ ở huyện Tịnh Biên ,người Phúc Kiến ở thành phố Long
Xuyên .Nếu người Việt ,người Chăm ,người Khmer đến định cư ờ vùng đất này thì
họ đều tự mình khai phá ruộng đất ,còn đối với người Hoa thì ngược lại ,họ bỏ tiền
khai phá ruộng đất đã bị Việt hóa do sống cách biệt với cộng đồng của họ và chung
chạ với người Việt trong cùng làng xóm ở nông thôn .Thế mạnh của người Hoa
trong hoạt động kinh tế vẫn là buôn bán ,tại Thành phố Châu Đốc ,cũng như các thị
trấn,những người Hoa thường kinh doanh ,buôn bán ,dịch cụ ,công nghiệp ,tiểu thủ
công nghiệp và ở các nơi thị tứ thường sống thành cộng đồng nhỏ giữa cộng đồng
Việt nên vẫn giữ được ít nhiều những giá trị riêng của họ .Trong thời kỳ này ,cộng
đồng người Hoa đã góp phần tạo nên sự hưng khởi của các vùng thị tứ trên vùng đất
An Giang ,làm tăng thêm nguồn lực cho công cuộc quốc phòng biên giới trên vùng
đất này .Tính đến tháng 7 năm 2013 ,tỉnh An Giang với diện tích 353.887 km² có 11
đơn vị hành chính trực thuộc ,gồm 2 thành phố ,1 thị xã :Tân Châu và 8 huyện :An
Phú ,Phú Tân ,Tịnh Biên ,Tri Tôn ,Châu Phú ,Châu Thành ,Thoại Sơn ,Chợ Mới

,trong đó bao gồm 156 đơn vị hành chánh cấp xã .Việc có mặt của cộng đồng
người Hoa làm cho tình đoàn kết giữa họ với người Việt ,Chăm ,Khmer càng thêm
bền chặt,phát huy sức mạnh tổng hợp để cùng nhau chung tay xây dựng ,phát triển
kinh tế chung cho toàn tỉnh Châu Đốc .
1.3.3.Những hoạt động kinh tế chung của vùng đất Châu Đốc :
Nông nghiệp :
Trồng trọt : [ 20 ,tr87-90]
Cư dân Châu Đốc xưa chia đất nông nghiệp thành 2 vùng :vùng đồng bằng và
vùng núi .Từ sau năm 1857 toàn tỉnh Châu Đốc có khoảng 24.030 mẫu đất khai
hoang.Mỗi một mẫu sẽ có giá trị trung bình :100 quan tiền cho đất canh tác hạng 1 ;
80 quan tiền cho đất canh tác hạng 2; 25 quan tiền cho đất canh tác hạng 3 .Gía trị
cho thuê 1 mẫu : 12 quan tiền cho đất canh tác hạng 1 ;10 quan tiền cho đất canh tác
hạng 2; 8 quan tiền cho đất canh tác hạng 3 .
Nhiều công trình lao động để làm khô ráo đồng ruộng đã được khởi công ,những
cánh đồng lau sậy đã trở thành đất canh tác .Ngoài các kinh Vĩnh Tế và Vĩnh An ,2

23


×