Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

ĐÌNH mỹ THỚI (THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG) TRUYỀN THỐNG và HIỆN đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.55 MB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------o0o---------

PHẠM TUẤN DŨNG

ĐÌNH MỸ THỚI (THÀNH PHỐ LONG XUYÊN,
TỈNH AN GIANG): TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------o0o---------

PHẠM TUẤN DŨNG

ĐÌNH MỸ THỚI (THÀNH PHỐ LONG XUYÊN,
TỈNH AN GIANG): TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60220313
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Hiến Chương

HÀ NỘI, 2015




MỤC LỤC
MỤC LỤC..............................................................................................................................4
MỞ ĐẦU................................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..................................................................................................3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..........................................................................................8
3.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................................8
3.2. Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................................8
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu........................................................................8
4.1. Nguồn tư liệu..............................................................................................................8
4.2. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................9
5. Đóng góp của đề tài............................................................................................................9
6. Bố cục của luận văn............................................................................................................9
CHƯƠNG 1:.........................................................................................................................10
NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH SỬ CỦA ĐÌNH MỸ THỚI........................................................10
1.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa của phường Mỹ Thới và thành phố Long Xuyên.............10
1.1.1. Long Xuyên trong thời kỳ đầu khai phá.............................................................11
1.1.2. Sự xác lập hành chính Long Xuyên qua các thời kỳ lịch sử..............................14
1.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội của phường Mỹ Thới................................................17
1.2. Quá trình lập đình......................................................................................................20
1.3. Những vấn đề lịch sử liên quan.................................................................................23
Tiểu kết chương 1.................................................................................................................25
CHƯƠNG 2:.........................................................................................................................27
KIẾN TRÚC ĐÌNH MỸ THỚI............................................................................................27
2.1. Không gian địa lí và mặt bằng tổng thể.....................................................................27
2.2. Kiến trúc và nghệ thuật.............................................................................................30
CHƯƠNG 3:.........................................................................................................................38
TÍN NGƯỠNG VÀ LỄ HỘI ĐÌNH MỸ THỚI...................................................................38
3.1. Tục thờ cúng..............................................................................................................38

3.3. Lễ Kỳ yên..................................................................................................................53


Tiểu kết chương 3.................................................................................................................61
CHƯƠNG 4:.........................................................................................................................63
ĐÌNH MỸ THỚI TRONG KHÔNG GIAN CHUNG CỦA ĐÌNH NAM BỘ VÀ ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG...............................................................63
4.1. Đình Mỹ Thới trong không gian chung của đình làng Nam bộ................................63
4.2. Đình Mỹ Thới trong đời sống tinh thần của nhân dân địa phương...........................69
Tiểu kết chương 4.................................................................................................................76
KẾT LUẬN..........................................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................82
PHỤ LỤC.............................................................................................................................87


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngôi đình làng Việt Nam gắn liền với làng xã Việt Nam. Mỗi làng có
một ngôi đình, là nơi được toàn thể cư dân trong làng tổ chức thờ cúng, tham
gia tế tự và sinh hoạt.
Đề tài đình làng Nam bộ mới được các nhà nghiên cứu chú ý đến trong
thời gian gần đây. Trong khi ngôi đình làng tại Bắc bộ đã được nhiều học giả
nổi tiếng quan tâm, với hàng chục tác phẩm nghiên cứu có giá trị đã được
công bố thì việc nghiên cứu về ngôi làng Việt Nam tại Nam bộ còn rất sơ
lược. Nói chung xung quanh ngôi đình làng Nam bộ còn nhiều vấn đề khoa
học đặt ra cho giới nghiên cứu trong việc làm sáng tỏ những đặc trưng văn
hóa Nam bộ và văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung.
Làng xã Việt Nam là một mô hình xã hội độc đáo. Với vai trò là đơn vị
xã hội cơ sở, làng xã Việt Nam còn có một sở hữu văn hóa cộng đồng do nhân
dân trong làng tự đầu tư xây dựng là ngôi đình làng. Đình làng là trung tâm

bất biến hơn cả và cũng là sinh động hơn cả của khối liên kết làng xã. Có làng
thì phải có đình làng, đình là một thiết chế văn hóa – tín ngưỡng – hành chánh
trong làng xã, là biểu tượng của tính cộng đồng. Đó là nơi đặt bàn thờ của
thần bảo hộ làng, là nơi người ta tổ chức cúng tế cầu mong mưa thuận, gió
hòa, mùa màng bội thu và xóm làng thuận thảo yên vui.
Từ cái nôi đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ, ngôi đình làng đã theo
bước chân của người lưu dân Việt Nam đến đồng bằng Sông Cửu Long. Miền
Nam, đất rộng, phì nhiêu lại không chịu cái khí hậu khắc nghiệt của miền
Bắc, miền Trung nên đồng thời cũng là vùng đất có cơ cấu dân cư đặc biệt.
Bên cạnh người Việt chiếm đa số còn có một bộ phận không nhỏ người Hoa,
Khơ me, Chăm,… là những dân tộc có truyền thống văn hóa riêng của mình
rất đặc sắc. Công cuộc khai phá, mưu sinh người lưu dân Việt Nam đã xây
dựng nên một vùng đất Nam bộ với nhiều nét đặc thù văn hóa riêng biệt khác
1


với miền Bắc và miền Trung mà ngôi đình làng Nam bộ là một bộ hiện sinh
động cho sự biến đổi đó.
Về mặt kiến trúc, từ việc bố trí mặt bằng xây dựng đến kết cấu công
trình, vật liệu xây dựng, trang trí cho đến tín ngưỡng và lễ hội hàng năm, ngôi
đình làng Nam bộ không còn giống với ngôi đình làng vùng đồng bằng Bắc
bộ. Một nét độc đáo trong các ngôi đình Nam bộ, là tuy nằm trong không gian
chung của đình làng Nam bộ nhưng mỗi ngôi đình lại mang những nét đắc
trưng rất riêng. Chính vì vậy, ngày này mặc dù đã có một số công trình nghiên
cứu về ngôi đình làng Nam bộ, nhưng chưa có nhiều công trình nào đi sâu
phân tích mối quan hệ biện chứng giữa các ngôi đình Nam bộ với nhau một
cách cận kẽ nhằm chỉ ra cái chung của chúng cũng như những cái riêng của
đình làng Nam bộ.
Với vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống,
ngôi đình làng Nam bộ còn là di tích lịch sử văn hóa bảo tồn bản sắc văn hóa

dân tộc. Vì vậy nghiên cứu về đình làng Nam bộ với những góc độ khoa học
khác nhau có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tái hiện bản sắc văn hóa của
vùng cư dân Nam bộ, một vùng dân cư có vai trò hết sức to lớn trong sự
nghiệp phát triển của đất nước trong lịch sử cũng như hiện nay.
Ngày nay việc giao lưu tiếp xúc văn hóa giữa các địa phương có nhiều
điều kiện phát triển. Sự nghiệp đô thị hóa và quốc tế hóa truyền thống có sự
biến đổi thích nghi với điều kiện lịch sử mới. Từ đó đặt ra cho chúng ta những
vấn đề cấp bách như :
- Giữ gìn, bảo vệ, kế thừa và phát huy vốn văn hóa dân tộc truyền thống.
- Định hướng phát triển văn hóa trong sự nghiệp đổi mới hiện nay để đáp
ứng nhu cầu tâm linh, nhu cầu sáng tạo và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của
nhân dân.
Đặc biệt, nước ta sau cả 100 năm bị xâm lược, 30 năm chiến tranh nhiều
hoạt động văn hóa truyền thống dân tộc không khỏi bị thu hẹp, mai mọt dần.

2


Nhận diện và tái hiện các hoạt động văn hóa đa tộc người phù họp với nhu
cầu của thời đại là việc làm cấp thiết và cấp bách.
Ý thức được tầm quan trọng của việc nghiên cứu những giá trị văn hóa
truyền thống, tôi chọn đình Mỹ Thới là vì các lý do sau:
- Phường Mỹ Thới của thành phố Long Xuyên tỉnh An Giang là một
phường nằm ven thành phố Long Xuyên và là một trong những xã phường ở
An Giang nói riêng ở Nam bộ nói chung có dân cư được hình thành sớm ở
Nam bộ lại ít bị ảnh hưởng của sự phát triển của đô thị nên cho đến nay còn
giữ nguyên được nếp sống truyền thống lâu đời.
- Đình làng Mỹ Thới (thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang) là một
ngôi đình có lịch sử lâu đời, qui mô và kiến trúc của đình còn được giữ khá
nguyên vẹn nên có khả năng còn lưu giữ những giá trị văn hóa gốc, ít bị biến

dạng.
- Thần Thành Hoàng của đình là Nguyễn Trọng Trì, một nhân thần do
vua Bảo Đại sắc phong và được nhân dân tôn thờ. Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có có một công trình nghiên cứu nào về nhân vật lịch sử này.
Nghiên cứu chiều sâu một ngôi đình cổ và một nhân vật lịch sử với
mong muốn góp phần cung cấp một hồ sơ tư liệu khoa học góp phần xây
dựng nền móng văn hóa dân tộc. Mặc dù còn hạn chế về tư liệu song tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài “Đình làng Mỹ Thới (thành phố Long Xuyên tỉnh An
Giang): truyền thống và hiện đại” để làm hướng nghiên cứu cho luận văn của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Làng xã Việt Nam với ngôi đình làng và hội đình là đề tài nghiên cứu đã
được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm. Cái đình xuất hiện trong
tâm hồn người Việt Nam từ rất lâu đời, thể hiện qua kho tàng ca dao tục ngữ.
Nhưng phải đến đầu thế kỷ XX, mới bắt đầu có các công trình nghiên
cứu khoa học về ngôi đình làng Việt của các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước.
3


Năm 1912, Giran trong: “Magie et Religion Annamite” đã mô tả tóm gọn
bản chất và vai trò của ngôi đình trong đời sống người Việt Bắc Bộ.
Năm 1938 ông Goerge Coedès Giám đốc trường Viễn Đông Bác cổ
(E.F.E.O) cho mở cuộc điều tra rộng rãi về việc thờ cúng các vị thần Thành
Hoàng trong làng xã. Để làm việc đó, Ông đã nhờ nhà cầm quyền hành chánh
dân sự gởi đi một biểu câu hỏi cho tất cả những làng nào có thờ một vị thần
bảo hộ trong ngôi đình. Biểu câu hỏi này bao gồm: Truyền thuyết về ông
thần, những nơi dành cho việc thờ cúng, người làm lễ, quần áo và đồ thờ,
những điều kiêng cấm phải theo trong việc thờ cúng.
Kết quả việc điều tra này đã thiết lập được bộ tư liệu tổng hợp về sự thờ

cúng tại đình làng Bắc Bộ, có giá trị về mặt thống kê dân tộc học, cung cấp
một bản mô tả cặn kẽ về hoạt động tế lễ tại đình làng Bắc Bộ.
Pirre Gourou trong “Les Paysans Du Delta Tonkinois” chú trọng đến
cảnh quan và kiến trúc ngôi đình.
Nhà nghiên cứu nghệ thuật Benzacier trong: “Relevé des monuments
ancients du Nord Việt Nam” đã mô tả và vẽ lại hoành đồ một số ngôi đình,
chùa, đền cổ. Ông nhận xét ngôi đình dưới góc độ cảnh quan nghệ thuật.
Các nhà nghiên cứu nước ngoài, nhất là Paul Giran và Coedès đã mở
màn cho việc nghiên cứu về ngôi đình làng một cách có phương pháp khoa
học và đã nêu bật lên được một số mặt khái quát tài tình và mở ra một lối nhìn
khoa học về ngôi đình làng Bắc Bộ.
Tuy nhiên, Giran và Bezacier chỉ chú trọng thuần về cảnh quan và kiến
trúc của đình làng mà không hề đá động đến lễ hội của đình làng. Với Coedès
thì tổng hợp các hình thức của lễ nghi tại đình làng Bắc bộ mà không cung
cấp gì về tín ngưỡng và lễ hội. Với Paul Giran đó là một hồ sơ miêu tả một
cách tóm gọn nhất về bản chất và vai trò của đình làng trong đời sống người
Việt, nhưng Giran chưa nghiên cứu đầy đủ về tín ngưỡng của người Việt Bắc
bộ.

4


Mặt khác, các nhà nghiên cứu nước ngoài đều tập trung vào đình làng tại
Bắc bộ, chưa có công trình nào viết về đình làng tại Nam bộ.
Các học giả Việt Nam cũng đã tiến hành nghiên cứu khoa học về đình
làng cũng khá sớm.
Năm 1915, Phan Kế Bính trong “Việt Nam phong tục”, là học giả Việt
Nam đầu tiên viết về đình làng và tục thờ cúng, lễ cúng đình. Trong một số
cuốn sách viết về phong tục Việt Nam nói chung, nên ông chỉ nghiên cứu sơ
lược về việc bố trí nơi thờ cúng, một số ý nghĩa về việc thờ cúng tại đình.

Năm 1930, Nguyễn Văn Khoan trong “Essai sur le Đinh et le culte génie
tutélaire des villeges au Tonkin” mới thật sự đi sâu nghiên cứu về tục thờ
cúng thần Thành Hoàng tại xã thôn Bắc Việt. Ông là người đầu tiên ghi chép
một số nghi lễ bí truyền của việc thờ cúng thần Thành Hoàng. Đó là Hèm tục
và ông cho rằng Hèm tục có ý nghĩa sâu xa trên phương diện phong tục và tôn
giáo.
Đến những năm 40, Nguyễn Văn Huyên viết 3 công trình về đình làng
Bắc bộ trong đó đặc biệt là công trình: “Góp phần nghiên cứu về một vị thần
Thành Hoàng ở An Nam – Lý Phục Nam”, mở đầu cho khảo hướng nghiên
cứu chiều sâu về đình làng, nghiên cứu tập trung một ngôi đình. Các bài viết
về thần Thành Hoàng của ông cũng khá đầy đủ mang tính khái quát cao.
Từ những năm 30, giới kiến trúc chú ý đến kiến trúc đình làng, đi đầu là
kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng, ông phát hiện cái đẹp của các ngôi đình ở tỉnh
Sơn Tây. Ông mô tả chi tiết về không gian kiến trúc, kiến trúc công trình, các
chạm khắc và hoa văn trang trí đình. Đến năm 1960, kiến trúc sư Ngô Huy
Quỳnh cũng nghiên cứu kiến trúc đình làng Bắc bộ dưới nhãn quan của nhà
kiến trúc đô thị. Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhóm học trò của ông đã đưa
điêu khắc gỗ đình làng lên thành một dòng nghệ thuật như: Trần Văn Cẩn,
Nguyễn Du Chi, Chu Quang Trứ, Thái Bá Vân,… tham gia nghiên cứu vẽ đẹp
kiến trúc của đình làng Bắc Bộ. Năm 2013, Kiến trúc sư Phạm Anh Dũng đã
cho xuất bản tác phẩm “Kiến trúc đình chùa Nam bộ”, tác phẩm đã hệ thống
5


lại các đặc điểm văn hóa tiềm tàng trong kiến trúc thuộc vùng đất đặc thù
Nam bộ thông qua các tư liệu, hình ảnh điều tra hiện trạng và cơ cấu tổ chức
đình, chùa.
Trong lĩnh vực dân tộc học, Lê Văn Hảo trong tác phẩm: Mở đầu việc
nghiên cứu ngôi đình về phương diện dân tộc học, cố gắng đưa ra những phát
hiện lý thú trong đời sống nhân dân Việt Nam với sinh hoạt lễ hội đình đám.

Cũng trong thời gian những năm 60, Nguyễn Đăng Thục trong bài viết: Văn
hóa đình làng và Lương Kim Định trong tác phẩm Triết lý cái đình, khảo cứu
ngôi đình dưới gốc độ triết học, gợi mở đi sâu nghiên cứu tư tưởng Việt Nam
qua văn hóa đình làng.
Như vậy, các công trình nghiên cứu chiều sâu đều tâp trung nghiên cứu
về những ngôi đình miền Bắc. Năm 1968 mới có bài viết về đình Nam bộ đó
là bài viết “Một ngôi đình miền Nam” của Trần Thị Ngọc Diệp, rồi Toan Ánh
trong tác phẩm “Hội hè đình đám”, Sơn Nam với các bài viết về lễ hội dân
gian Nam bộ thì ngôi đình Nam bộ mới bắt đầu được nghiên cứu. Nhưng các
bài viết ấy chỉ mô tả một số góc cạnh còn dạng chung.
Năm 1974, Nguyễn Long Thao theo cách của Nguyễn Văn Huyên, tập
trung nghiên cứu sâu về một ngôi đình Nam bộ là đình Phú Thuận. Đây là
công trình nghiên cứu đầu tiên về đình Nam bộ có phương pháp nhưng là một
công trình đơn độc được biên khảo trong điều kiện chưa có công trình tư liệu
nền. Và phải chờ đến sau giải phóng, các tác giả Huỳnh Ngọc Trảng, Trương
Ngọc Tường, Hồ Tường xuất bản cuốn “Đình Nam bộ” mới giải quyết được
yêu cầu này. Đình Nam bộ là một công trình biên khảo công phu, tư liệu
phong phú đã thiết lập nên bức tranh toàn cảnh sinh động về đình làng tại
Nam bộ. Sau đó Lê Sơn cho xuất bản tác phẩm “Đình Thông Tây Hội Gò
Vấp”, tác giả không những miêu tả một cách chi tiết về ngôi đình làng về mặt
kiến trúc, trang trí, lễ hội liên quan mà còn tiến hành so sánh các ngôi đình
làng Nam bộ và Bắc Bộ. Năm 1997, Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc
6


Tường đã cho xuất bản tác phẩm “Đình Nam bộ xưa và nay”, tác giả đã nêu
bật về gốc tích, tổ chức, nghi lễ và tín ngưỡng của Đình. Tuy nhiên, tác phẩm
ít đề cập đến hình thức cũng như nội hàm kiến trúc đình làng.
Sau đó, miền Bắc cũng theo khảo hướng này, xoáy vào việc nghiên cứu
sâu về một ngôi đình theo cách của Nguyễn Văn Huyên và Nguyễn Long

Thao, nhà nghiên cứu Trịnh Cao Tưởng với công trình “Đình Phù Lão Hà
Bắc” dưới góc độ khảo cổ học. Trịnh Cao Tường tiếp nối các nhà nghiên cứu
về kiến trúc đình làng lúc trước để làm bật ra đặc điểm kiến trúc Việt Nam tại
đồng bằng Bắc bộ vào thế kỷ XVII, thời đỉnh cao của kiến trúc Việt Nam.
Tiếp đó, Nguyễn Thế Long đã cho ra đời tác phẩm “Đình và đền Hà Nội”.
Đây là công trình điền dã và biên soạn khá chi tiết về 172 công trình đình đền
Hà Nội đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Tuy tác giả chỉ đề cập đến
đình đền Hà Nội, nhưng đã khắc họa được toàn cảnh đình đền truyền thống
Việt Nam cùng với tính ngưỡng thờ Thần và thần Thành Hoàng người việt.
Năm 2011, hội viên của Hội Văn Nghệ Dân Gian Việt Nam Nguyễn Hữu
Phách đã dày công sưu tầm, biên soạn cuốn sách “Thành Hoàng và đình làng
ở Bình Giang” đã tìm hiểu một cách sâu về Thành Hoàng và ngôi đình làng.
Năm 1998, Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Cự đã cho ra đời tác phẩm “Đình
Việt Nam”. Tác phẩm Đình Việt Nam có thể được xem là một nghiên cứu tổng
kết khá đầy đủ về hệ thống đình Việt Nam, đặc biệt là các ngôi đình cổ đã
được xếp hạng, tác giả đã đi từ sự kiện cơ bản là nguồn gốc phát tích ngôi
đình đến kiến trúc, điêu khắc, lễ hội,… của một số đình tiêu biểu trong cả
nước với nhiều hình ảnh minh họa rất phong phú. Đặc biệt, tác giả đã sơ bộ
phân tích và đánh giá sự khác biệt cơ bản của loại hình đình ở ba miền đất
nước Việt Nam dựa trên hình thức kiến trúc, phong cách sống của người dân
đương thời tại vùng và không ngoại trừ cả yếu tố lịch sử hình thành nên xã
hội lúc bấy giờ. Nhìn chung, đây là một tác phẩm rất có giá trị về phương
pháp luận nghiên cứu khoa học, đồng thời là bộ sưu tập các hình ảnh tư liệu
7


khá phong phú về các vấn đề kiến trúc, xã hội, văn hóa liên quan đến các ngôi
đình Việt Nam từ trước đến nay. Tuy nhiên, trong loại hình kiến trúc đình
Nam bộ, tác giả chỉ dừng lại ở sự mô tả về hình thức cấu trúc, thần phả, hình
thức trang trí nội thất, lễ lạc và vài thay đổi về cấu trúc.

Đình Mỹ Thới, tuy nằm trong phạm trù nghiên cứu về các ngôi đình làng
Nam bộ, nhưng ngoài bộ hồ sơ di tích cấp tỉnh còn miêu tả sơ lược đến bây
giờ chưa có công trình nghiên cứu chiều sâu nào về vấn đề này. Dựa trên
nghiên cứu của những người đi trước, cùng với xu hướng trở về nguồn, bảo
vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phổ biến trong toàn quốc, tôi sẽ đi sâu
vào nghiên cứu về vấn đề này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là về lịch sử, kiến trúc và những giá trị văn hóa
truyền thống của đình Mỹ Thới (thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề trong khoảng thời gian
từ khi thành lập đình đến năm 2014.
Về không gian: Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là về lịch sử, kiến trúc
và những giá trị văn hóa truyền thống của đình Mỹ Thới. Ngoài ra đề tài còn
so sánh vấn đề trong không gian chung của hệ thống đình làng ở Nam bộ.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Nguồn sử liệu vật chất: gồm các hiện vật, các công trình kiến trúc, nghệ
thuật, lăng tẩm, các di tích lịch sử, cách mạng ở địa phương.
Tư liệu văn bản: Gồm các tài liệu lưu trữ của chính quyền, chi bộ, Đảng
bộ Đảng Cộng sản, Bảo tàng An Giang, các đoàn thể ở địa phương.
Tư liệu thành văn: Gồm các công trình nghiên cứu đã được xuất bản như
Hội thảo, luận văn, luận án, sách, báo,tạp chí, địa chí,…
Tư liệu hồi ký, truyện kể dân gian, lễ hội,..
8


Tài liệu điền dã: Gia phả, hương ước, địa bạ,văn bia,…
Tài liệu nhân chứng: Ảnh chụp cá nhân, nhân chứng, vật chứng,…

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tôi đã dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về nghiên cứu lịch sử, sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp
logic là chủ yếu. Ngoài ra, tôi còn sử dụng phương pháp sưu tầm, phương
pháp hệ thống và phân loại để phân tích, so sánh chọn lọc tài liệu từ đó rút ra
những nhận xét, kết luận.
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã khái quát về sự hình thành vùng đất Long Xuyên, An Giang
và phường Mỹ Thới để qua đó thấy được những nét đặc trưng riêng của ngôi
đình về mặt kiến trúc, trang trí, lễ hội liên quan cũng như những giá trị về lịch
sử trong hệ thống đình làng ở Nam bộ, góp phần cung cấp một hồ sơ tư liệu
khoa học nhằm góp phần xây dựng nền móng văn hóa dân tộc.
Đề tài còn đi sâu vào nghiên cứu Thần tích Nguyễn Trọng Trì, một nhân
vật lịch sử đã có nhiều công lao trong buổi đầu chống thực dân Pháp xâm lượt
ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, qua đó góp phần cung cấp một hồ sơ tư liệu cho
nền sử học nước nhà.
Làm tài liệu giảng dạy, học tập lịch sử địa phương, giáo dục cho thế hệ
trẻ biết được ý nghĩa của đình, tác dụng của đình đối với việc duy trì đạo lý,
xây dựng thuần phong mỹ tục ở địa phương.
Làm tài liệu lưu truyền cho đình Mỹ Thới và nhằm giúp cho nhân dân
trong địa phương hiểu sâu thêm về Thành Hoàng và ngôi đình làng của mình,
để duy trì, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Những vấn đề lịch sử của đình làng Mỹ Thới.
Chương 2: Kiến trúc đình làng Mỹ Thới.
Chương 3: Tín ngưỡng và lễ hội đình làng Mỹ Thới.
9



Chương 4: Đình làng Mỹ Thới trong không gian chung của đình làng
Nam bộ và đời sống tinh thần của nhân dân địa phương.
Cuối cùng là Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH SỬ CỦA ĐÌNH MỸ THỚI
1.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa của phường Mỹ Thới và thành phố
Long Xuyên
Long Xuyên là một thành phố trực thuộc tỉnh An Giang đồng thời cũng
là một trong các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỷ thuật của
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1999, Long Xuyên chính thức trở
thành thành thành phố của tỉnh An Giang; năm 2009, thành phố Long Xuyên
được chính phủ công nhận là thành phố loại II trực thuộc tỉnh An Giang. Năm
2013, thành phố Long Xuyên có diện tích tự nhiên 115,3439 km 2, dân số
280.635 người [35; 14], gồm 11 phường và 2 xã. Thành phố Long Xuyên
cách thủ đô Hà Nội 1950 km về phía Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh
(TP.HCM) 189 km về phía Tây Nam, cách biên giới Campuchia 45 km đường
chim bay. Tây Bắc giáp huyện Châu Thành, đường ranh giới dài 12,446 km.
Đông Bắc tiếp giáp với huyện Chợ Mới. Tây giáp huyện Thoại Sơn với chiều
dài đường ranh giới là 10,054 km. Nam giáp quận Thốt Nốt của thành phố
Cần Thơ.
Nằm bên phía hữu ngạn sông Hậu, thành phố Long Xuyên khá phát triển
về thương mại, công nghiệp chế biến thủy sản, chế biến lương thực thực
phẩm. Năm 2014, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố Long Xuyên tăng
8,6%. Trong đó, khu vực thương mại – dịch vụ tăng 11,54% chiếm 78,46%

10


cơ cấu kinh tế của thành phố. Thu nhập bình quân đầu người là 86,5 triệu [1;

65].
1.1.1. Long Xuyên trong thời kỳ đầu khai phá
Vùng đất An Giang nói chung, Long Xuyên nói riêng, là vùng đất được
khai phá muộn hơn so với các vùng đất khác của công cuộc khẩn hoang ở
Nam kỳ. Trước khi những lưu dân người Việt đến khai phá thì vùng đất này
vẫn còn hoang vu. Châu Đạt Quan – sứ thần của nhà Nguyên, sang thăm kinh
đô Angkor vào năm 1296, khi đi ngang qua vùng đất này đã ghi nhận lại:
“Vào nữa đường trong cửa sông, người ta mới thấy lần đầu cánh đồng ruộng
bỏ hoang, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy
rẫy. Hàng trăm hàng ngàn trâu rừng tụ họp từng bầy trong vùng này” [80;
50].
Sang thế kỷ XVIII, khi lưu dân người Việt bước chân đến khai khẩn, lập
làng thì vùng đất Long Xuyên lúc bấy giờ vẫn còn là “rừng rậm hàng mấy
nghìn dặm” [345; 20]. Đến năm 1757, chúa Nguyễn lập đạo Châu Đốc để
trông coi việc biên thùy, thì vùng đất này chỉ có vài đồn trại đóng rải rác và
một ít xóm người Việt mà phần lớn là binh lính. Để tự túc lương thực, họ đã
tiến hành khai phá đất đai chung quanh đồn trại, dần dần về sau “dân chúng
đã tự động vào sinh cơ lập nghiệp” [11; 25]. Đến năm 1780, vùng đất Long
Xuyên mới có người Việt đến khai hoang, lập làng, đầu tiên là Châu Trấn Ba
(tức là Cù lao Ông Hổ ngày nay).
Năm 1789, tại vàm Tam Khê (nay là rạch Long Xuyên) phủ Đông
Xuyên được dựng lên để tăng cường phòng thủ đạo Châu Đốc, vốn thường
xuyên bị quân quân Xiêm – Chân Lạp quấy phá, cướp bóc. Khi tình hình an
ninh trật tự được ổn định, thì cư dân người Việt hoặc tự động hoặc theo chính
sách di dân đến vùng đất Long Xuyên khai hoang lập thôn ấp. Theo nhận xét
của Nguyễn Văn Hầu: “các thôn ấp lẻ tẻ đó bao giờ cũng được lập nên chung
quanh các doanh trại, các đồn bảo an gần bờ rạch, ven sông” [11; 25]. Ở
11



Long Xuyên, điểm tập trung cư dân đến khai hoang đông nhất là xung quanh
thủ Đông Xuyên. Sau khi Nguyễn Ánh Chiếm lại Gia Định, công cuộc khai
hoang ngày càng đẩy mạnh. Những chức điền tuấn quan được đặt ra, những
binh lính và cư dân đều bị bắt buộc đi vỡ ruộng; ruộng đất được cấp phát, trâu
bò và canh vụ được giúp đỡ. Với những biện pháp trên; vùng đất Long Xuyên
bắt đầu khởi sắc, từ những điểm định cư có từ trước, lưu dân khai phá đất đai
mở rộng diện tích vùng cư trú. Diện tích không còn hẹp trong phạm vi Châu
Trấn Ba, xung quanh thủ Đông Xuyên, mà nó còn mở rộng lên Bình Đức, Mỹ
Hòa và xuống tận Mỹ Thạnh…
Bước sang đầu thế kỷ XIX, dưới triều Gia Long (1802 – 1820), khi tình
hình biên giới tương đối ổn định, công cuộc khai phá bờ phía tây sông Hậu
được đẩy mạnh. Bên cạnh đó, việc vua Gia Long giao cho Nguyễn Văn Thoại
chỉ huy việc đào vét sông Đông Xuyên nối hữu ngạn sông Hậu ra biển Tây tại
Rạch Giá để giao thông giữa Trấn Vĩnh Thanh và Hà Tiên được dễ dàng trong
mùa khô, đã thúc đẩy quá trình khai hoang lập làng. Trên vùng đất Long
Xuyên ngày nay, ngoài thôn Mỹ Thạnh đã hình thành thêm hai thôn mới
“Bình Đức, Mỹ Phước” [155; 22]. Tuy đất rộng nhưng dân cư phần lớn sinh
sống tập trung bên vàm Đông Xuyên và các bãi đất bồi ven sông Hậu. Bến
chợ Long Xuyên tuy nhỏ bé nhưng đã hình thành.
Đến nữa đầu thế kỷ XIX, sự thâm nhập của lưu dân người Việt vào vùng
đất Long Xuyên diễn ra liên tục và mạnh mẽ hơn. Họ tiếp tục lấn dần và khai
phá các vùng đất hoang, “đất đai trồng trọt được mở rộng, dân cư ngày càng
đông đúc hơn” [11; 39]. Nhiều thôn mới được thành lập trên cơ sở tách ra từ
thôn cũ, địa giới các thôn Bình Đức và Mỹ Phước thu hẹp dần. Theo địa bạ
An Giang (1836), thôn Bình Đức được xác định phía đông giáp sông lớn, phía
tây giáp với rạch Tầm Vu, thôn Vĩnh Thuận và rừng; phía nam giáp với rạch
Đông Xuyên, nhìn sang thôn Mỹ Phước; phía bắc giáp với rạch Trà Ôn, thôn
Bình Hòa Trung (xứ Chắc Cà Đao, Mạt Cần Dưng), qua sông lớn giáp thôn
12



Mỹ Hội Đông, tức gồm các phường Bình Khánh, Bình Đức, các xã Mỹ
Khánh và Mỹ Hòa Hưng ngày nay. Thôn Mỹ Phước, phía đông giáp sông lớn;
phía tây giáp thôn Mỹ Đức; phía bắc giáp rạch Đông Xuyên và nhìn sang thôn
Bình Đức, tức gồm các phường Mỹ Long, Mỹ Phước, Mỹ Quý, Mỹ Xuyên,
Đông Xuyên, Mỹ Hòa ngày nay. Thôn Mỹ Thạnh “ở ba xứ Cái Sắn, Cái Lao,
Cái Ngôi. Đông giáp rạch Cái Sắn và địa phận thôn Thới Thuận. Tây giáp
rạch Cái Ngôi và địa phận thôn Mỹ Đức. Nam giáp rừng; Bắc giáp sông lớn”
[255; 18]
Tóm lại, vùng đất định cư đầu tiên của người Việt ở Long Xuyên là
Châu Trấn Ba. Về sau, cư dân tìm đến vàm sông Đông Xuyên để trú ngụ, khai
phá ruộng đất, lập làng. Quá trình hình thành các cụm dân cư người Việt ở
Long Xuyên phát triển theo tuyến từ Châu Trấn Ba qua vàm sông Đông
Xuyên lên Bình Đức, xuống Mỹ Thạnh, rồi vào Mỹ Hòa. Quá trình này kéo
dài hơn nữa thế kỷ. Những người Việt đầu tiên đến vùng Long Xuyên gồm
nhiều thành phần khác nhau. Đầu tiên, là những người nghèo khổ, không sống
nổi ở quê hương, từ miền Trung lần bước vào Nam tìm kế sanh nhai. Tiếp
theo, “là những người lính biên phòng được triều đình sai phái, bắt buộc vào
Nam, vừa bảo vệ biên cương, giữ trị an vừa mở rộng lập vườn xung quanh cứ
điểm quân sự” [28; 41]. Khi mãn hạn ở lại làm ăn, lập gia đình, lâu ngày trở
thành dân bản xứ. Cuối cùng là những người có tiền của, quyền thế chiêu mộ
dân nghèo ở miền Trung vào khai khẩn theo chính sách dinh điền của triều
Nguyễn.
Bên cạnh các cuộc di cư khẩn hoang của người Việt, vào những năm 80
của thế kỷ XVIII, người Hoa cũng có mặt ở An Giang, do trước đây một bộ
phận người Hoa theo Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đến định cư tại cù lao
Cây Sao (huyện Chợ Mới ngày nay). Đầu thế kỷ XX, số lượng người Hoa
sinh sống ở Long Xuyên khá đông. Năm 1905, ở Long Xuyên có 644 người

13



và đầu năm 1927 tăng lên 1.912 người [44; 66]. Đa số người Hoa sinh sống
bằng nghề thủ công và buôn bán.
1.1.2. Sự xác lập hành chính Long Xuyên qua các thời kỳ lịch sử
Theo Gia Định thành thông chí, Long Xuyên xưa kia là thuộc vùng đất
Tầm Phong Long của Chân Lạp. Vùng đất này hầu như còn hoang vu. Khi
chúa Nguyễn đến thiết lập chính quyền ở Gia Định (1698), ngay bên bờ sông
sông Hậu đã có người Việt rải rác sinh sống.
Năm Đinh Sửu (1757), để tạ ơn cứu giúp làm vua nước Chân Lạp, Nặc
Ông Tôn dâng đất Tầm Phong Long cho chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc
Khoát tiếp nhận, lệnh cho Trương Phước Du và Nguyễn Cư Trinh “lấy xứ Sa
Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng ở Tiền Giang đặt làm đạo
Tân Châu, xứ Châu Đốc ở Hậu Giang làm đạo Châu Đốc, rồi lấy binh dinh
Long Hồ đến gìn giữ nơi địa đầu trọng yêu ấy” [114; 22]. Như vậy, về mặt
quân sự, vùng đất Long Xuyên lúc này trực thuộc đạo Châu Đốc.
Sau khi lên ngôi vua, vào năm 1805, Gia Long chia Nam bộ làm 5 trấn.
Vùng đất Long Xuyên thuộc Vĩnh Trấn. Năm 1808, Vĩnh Trấn đổi thành
Vĩnh Thanh. Trấn Vĩnh Thanh có một phủ Định Viễn và bốn huyện Vĩnh
Bình, Tân An, Vĩnh An, Vĩnh Định. Huyện Vĩnh Định quá rộng, phạm vi từ
biên giới Việt Nam – Campuchia xuống đến giáp biển, qua phía Rạch Giá,
với 37 thôn, chưa được chia ra tổng vì dân cư còn thưa thớt. Địa bàn Long
Xuyên dưới thời vua Gia Long (1802 – 1820) nằm ở ba thôn Bình Đức, Mỹ
Phước, Mỹ Thạnh thuộc huyện Vĩnh Định của trấn Vĩnh Thanh.
Năm 1832, vua Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh. Gia Định được chia làm
6 tỉnh, còn gọi là Nam Kỳ lục tỉnh: Phiên An (Gia Định), Biên Hòa, Định
Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Tỉnh An Giang lúc này có 2 phủ:
phủ Tuy Biên gồm huyện Tây Xuyên và Phong Phú; phủ Tân Thành gồm
huyện Vĩnh An và Đông Xuyên. Theo bản đồ hành chính, Long Xuyên ngày
nay thuộc huyện Tây Xuyên gồm có các thôn: Mỹ Phước, Mỹ Thạnh (thuộc

14


tổng Định Phước), Bình Đức (thuộc tổng Định Thành). Từ đây, vùng đất
Long Xuyên thuộc tỉnh An Giang.
Năm 1868, sau khi chiếm xong Nam Kỳ, thực dân Pháp tiến hành thiết
lập các đơn vị hành chính, tỉnh An Giang xưa chia làm ba hạt tham biện:
Châu Đốc, Sa Đéc, Ba Xuyên. Long Xuyên thuộc hạt Châu Đốc, rồi đến năm
1876 thuộc hạt Long Xuyên, lỵ sở đặt tại thôn Bình Đức.
Ngày 1 tháng 1 năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer áp dụng Nghị định
ngày 20 tháng 12 năm 1889, bãi bỏ các hạt thành tỉnh. Tỉnh An Giang xưa
chia làm 5 tỉnh: “Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng với
tình trạng khá ổn định. Cấp bậc hành chính mới sẽ là: tỉnh, quận (bỏ phủ và
huyện), tổng và xã (thay cho các tên thôn xã phường ấp cũ)” [94; 18]. Năm
1917, địa bàn Long Xuyên có bốn xã Mỹ Phước, Mỹ Thạnh (Tổng Định
Phước), Bình Đức, Mỹ Hòa Hưng (tổng Định Thành) thuộc quận Châu
Thành, tỉnh Long Xuyên. Đến năm 1957, địa bàn Long Xuyên có 5 xã Bình
Đức, Mỹ Hòa Hưng, Phước Đức (tổng Định Thành), Mỹ Phước, Mỹ Thới
(tổng Định Phước) thuộc quận Châu Thành, Tỉnh An Giang. Năm 1959, xã
Phước Đức nhập vào xã Bình Đức và Mỹ Phước. Long Xuyên là tỉnh lỵ của
tỉnh An Giang năm 1975.
Về phía chính quyền cách mạng, sau tháng 8 – 1945, địa bàn Long
Xuyên thuộc quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên. Ngày 12 – 9 – 1947, Long
Xuyên thuộc quận Châu Thành tỉnh Long Châu Hậu theo chỉ thị số 50 của Ủy
ban kháng chiến hành chánh Nam bộ và đến cuối năm 1950, thuộc tỉnh Long
Châu Hà. Từ năm 1956, Long Xuyên thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An
Giang. Năm 1957, tách ra khỏi huyện Châu Thành, thành lập thị xã Long
Xuyên. Theo quyết định của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam, phù hợp
với yêu cầu cách mạng, sau khi điều chỉnh địa giới các tỉnh, tháng 5 năm
1974, thị xã Long Xuyên thuộc tỉnh Long Châu Hà.


15


Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, tháng 2
năm 1976, Long Xuyên là thị xã thuộc tỉnh An Giang, với bốn xã Bình Đức,
Mỹ Bình, Phước Mỹ và Mỹ Phước. Ngày 27 – 1 – 1977, nhập xã Mỹ Thới
của huyện Châu Thành vào thị xã Long Xuyên. Ngày 1 – 3 – 1977, theo quyết
định của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, thị xã Long Xuyên gồm bốn
phường là Bình Đức, Mỹ Bình, Mỹ Long, Mỹ Phước và hai xã Mỹ Hòa, Mỹ
Thới. Ngày 23 – 8 – 1979, sáp nhập xã Mỹ Hòa, Mỹ Thới. Ngày 23 – 8 –
1979, sáp nhập xã Mỹ Hòa Hưng của huyện Châu Thành vào thị xã Long
Xuyên. Ngày 12 – 1 – 1984, thành lập thêm ba phường, xã: phường Mỹ
Xuyên (tách từ các khóm 4, 7 của phường Mỹ Long và một phần ấp Tây
Khánh A của xã Mỹ Hòa), Xã Mỹ Khánh (tách từ ấp Bình Hòa của xã Mỹ
Hòa và một phần khóm Bình Khánh của phường Bình Đức), xã Mỹ Thạnh
(tách các ấp Thới Thạnh, Thới An, Đông Thạnh và một nửa ấp Long Hưng
của xã Mỹ Thới). Lúc này, thị xã Long Xuyên có 5 phường và 5 xã.
Ngày 1 – 3 – 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 09/1999/NĐ – CP
thành lập thành phố Long Xuyên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị
xã Long Xuyên. Ngày 2 – 8 – 1999, thành lập thêm các phường Mỹ Thạnh
(tức xã Mỹ Thạnh), phường Mỹ Thới (từ xã Mỹ Thới), phường Mỹ Quý (tách
ra từ phường Mỹ Phước), phường Bình Khánh (tách ra từ phường Bình Đức).
Ngày 12 – 4 – 2005, thành lập thêm phường Đông Xuyên (tách ra từ phường
Mỹ Xuyên) và phường Mỹ Hòa trên cơ sở xã Mỹ Hòa. Ngày 14 – 4 – 2009,
Thủ tướng Chính phủ có quyết định số 474/QĐ – TTg công nhận thành phố
Long Xuyên là đô thị loại II trực thuộc tỉnh An Giang.
Hiện nay, thành phố Long Xuyên có 11 phường là: Bình Đức, Mỹ Bình,
Mỹ Long, Mỹ Phước, Mỹ Xuyên, Mỹ Thạnh, Mỹ Thới, Mỹ Quý, Bình
Khánh, Đông Xuyên, Mỹ Hòa và hai xã Mỹ Hòa Hưng, Mỹ Khánh


16


1.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội của phường Mỹ Thới
Phường Mỹ Thới khi mới khai hoang lập làng có tên là thôn Mỹ Thạnh
thuộc huyện Vĩnh Định, trấn Vĩnh Thanh. Phường Mỹ Thới ngày nay gồm 12
ấp, là một trong 14 phường xã của thành phố Long Xuyên – tỉnh An Giang.
Theo Nghị định số 64/1999/NĐ-CP ngày 02 tháng 08 năm 1999 của Chính
phủ, thì phường Mỹ Thới được thành lập “trên cơ sở toàn bộ 2.000,31 ha
diện tích tự nhiên và 19.875 nhân khẩu của xã Mỹ Thới” [1;46]. Địa giới hành
chính phường Mỹ Thới: Đông giáp xã Hoà Bình và xã Hoà An (huyện Chợ
Mới); tây giáp xã Phú Hoà (huyện Thoại Sơn); nam giáp phường Mỹ Thạnh;
bắc giáp phường Mỹ Quý. Năm 2014, thu nhập bình quân đầu người đạt 96,8
triệu đồng/người [1; 64].
Phường Mỹ Thới là một phường có cơ cấu kinh tế đa dạng gồm Thương
mại – dịch vụ, công nghiệp – xây dựng và nông nghiệp. Tuy nhiên, một nét
đăc biệt trong cơ cấu kinh tế của phường là ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong kết cấu kinh tế của phường. Do chịu ảnh hưởng bởi truyền
thống lao động từ khi khai hoang lập làng cho đến bây giờ, cho nên, mặc dù
đây là phường nằm trong nội ô thành phố nhưng đại đa số người dân sống
bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi.
Khi đặt chân vào vùng đất mới, điều đầu tiên mà lưu dân phải nghĩ và
làm ngay là chọn nơi lập nghiệp, thích hợp cho nơi ở, dễ tìm cái ăn và đi lại
trao đổi hàng hóa vì nhu cầu cuộc sống. Dân cư ở vùng Mỹ Thới xưa, bao
gồm người dân bản địa và lưu dân người Kinh từ các nơi khác đến định cư lập
nghiệp. Ban đầu người di dân thường cất nhà và định cư trước tiên ở những
giông đất cao ven sông Hậu, 2 bờ sông, kinh, rạch, đây là những nơi có điều
kiện khai phá thuận lợi. Trong giai đoạn đầu, vì số người mới đến phần đông
là những nông dân nghèo khổ, thiếu thốn đủ mọi thứ như vốn, nông cụ, trâu


17


bò…, cho nên số ruộng đất mà mỗi người trưng khẩn được thường chỉ một
diện tích nhỏ bé.
Để biến rừng hoang cỏ rậm thành đất canh tác, người dân tiến hành khẩn
hoang mở đất. Việc này đòi hỏi rất nhiều nhân lực và công sức. Theo Gia
Định Thành Thông Chí thì ở “trấn Vĩnh Thanh toàn là ruộng bàu không dùng
trâu cày được, phải đợi lúc cuối hạ đầu thu, có nước mưa đầy dẫy, phát bỏ
cây lùng (năn), cây lác, kéo cỏ be bờ, rồi trang đất cấy mạ” [193; 22].
Đến nửa đầu thế kỷ XIX, công cuộc khai phá ở thôn Mỹ Thạnh phát
triển khá mạnh so với thới kỷ trước và đạt nhiều thành quả đáng kể. Theo kết
quả đo đạt năm 1836, diện tích khai phá của thôn Mỹ Thạnh là “406 mẫu 6
sào 8 thước” [ 255; 18].
Sau khi ra sức khai hoang mở đất, việc canh tác tiến hành thế nào cho
kết quả cũng không dễ dàng, mặc dù nơi đây là đất tốt. Theo Gia Định Thành
Thông Chí, lúc mới khai thác, ruộng ở vùng đất Vĩnh Thanh là loại sơn điền
(tức ruộng cao, ruộng gò) và người nông dân thuở ấy đã biết áp dụng hình
thức canh tác phù hợp với từng loại ruộng nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Đối với ruộng gò, “khi đầu khai khẩn thì đốn chặt cây cỏ, để khô đốt làm
phân tro đợi khi mưa thì trồng lúa, không cần cày bừa, đem sức ra ít mà lại
thì nhiều” [192; 22].
Tuy nhiên, cư dân luôn phải đối phó với lũ lụt, với thú dữ, với những
điều kiện có hại cho cuộc sống. Năm nào có lũ lụt lớn, sinh hoạt đời sống của
người dân gặp nhiều khó khăn, thậm chí đói ăn. Cuộc sống khó khăn khắc
nghiệt đó, không những đòi hỏi người nông dân không ngừng phấn đấu vượt
khó mà còn thích ứng vá sống chung với những điều kiện khắc nghiệt đó. Họ
luôn đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau xây dựng quê hương mới của
mình. Trải qua nhiều năm, lần lần những đức tính đó đã trở thành truyền

thống. Và truyền thống lao động cần cù đó đã gắn kết cuộc sống của họ vào
18


những mảnh đất mà cha ông đã để lại, họ phấn đấu lao động sản xuất để cải
thiện cuộc sống để đưa phường Mỹ Thới ngày càng phát triển
Nhờ vị trí trải dài theo bờ sông Hậu đã tạo nên lượng phù sa dồi dào
phục vụ cho trồng lúa, rau màu và trông cây công nghiệp ngắn ngày. Bên
cạnh đó, nhờ áp dụng những tiến bộ khoa học kỷ thuật vào mảnh đất canh tác
của mình mà người dân đã làm cho bộ mặt nông nghiệp của phường Mỹ Thới
thay đổi rõ rệt trong những năm qua và trở thành một trong những phường
đứng đầu thành phố Long Xuyên về sản lượng nông nghiệp. Về trồng trọt
“Năm 2014, thu hoạch trọn vẹn 3 vụ lúa trong năm, năng suất lúa bình quân
8 tấn/ha. Diện tích gieo trồng trong năm đạt 3.180 ha, trong đó diện tích lúa
3.102, 16 ha, hoa màu 77, 84 ha, sản lượng lúa đạt khoảng 25.297,28 tấn, giá
trị sản xuất nông nghiệp đạt khoảng 120 trđ/ha/năm (tăng 15 trđ/ha so năm
2013")” [1; 64]. Bên cạnh ngành trồng trọt thì ngành chăn nuôi cũng khá phát
triển. Phường Mỹ Thới có nghề chăn nuôi gia cầm phát triển từ rất sớm và trở
thành vùng cung cấp chính số lượng gia súc gia cầm cho thành phố Long
Xuyên.Theo báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2014 của Ủy ban nhân
phường Mỹ Thới thì “Tổng đàn gia súc của toàn phường 1.379 con, gia cầm
21.930 con” [1; 64]. Ngành nuôi trồng thủy sản chỉ mới phát triển trong thời
gian gần đây, tuy nhiên với sự phát triển của ngành chế biến thủy sản cũng đã
cho thấy tiềm năng phát triển của mình. Năm 2014,“Diện tích ao hầm nuôi
thủy sản toàn phường là 107 ha, tổng sản lượng đạt 10.900 tấn” [1; 64], chủ
yếu là cá tra, cá trê, rô phi, cá lốc, cá điêu hồng, lươn,…
Bên cạnh nông nghiệp thì việc sản xuất tiểu thủ công nghiệp cũng phát
triển. Phường Mỹ Thới tồn tại rất nhiều cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp
như nghề làm lò, nghề làm bún, nghề than tổ ông nhưng nổi tiếng nhất là nghề
làm lưỡi câu. Sản phẩm của làng nghề rất phong phú với hơn 10 chủng loại có

tên lưỡi câu rùa, hòa ung, ó, câu đúc, móng heo, vịnh chèo…. với gần 30 kích
19


cỡ lớn nhỏ khác nhau. Các sản phẩm phải qua gần chục công đoạn làm rất tỉ
mỉ, phức tạp như quay dây, vuốt thẳng, chặt thành đoạn, cắt ngạnh, quay mũi,
gõ mũi, uốn lưỡi, dập đích, xóc bóng. Cái hay của nghề làm lưỡi câu là các hộ
sản xuất đã tính toán tổ chức làm theo hình thức dây chuyền, mỗi lao động
phụ trách một công đoạn, nhờ vậy quen tay nên làm ra sản phẩm rất nhanh,
đạt tiêu chuẩn cao về chất lượng được người tiêu dùng tín nhiệm.
1.2. Quá trình lập đình
Thoạt đầu, người đi khai hoang lẻ loi, công cụ lao động thuở ấy còn quá
thô sơ nên phải chọn những giòng đất cao ráo dọc hai bên sông rạch để làm
nơi định cư sinh sống, rồi mới lần lượt mở rộng dần địa bàn cư trú và diện
tích canh tác, theo cách lấn chiếm. Nhờ sáng tạo ra kỷ thuật “đào mương, lên
liếp”, họ mở rộng địa bàn sinh sống và sản xuất xuống vùng đất trủng thấp.
Tiến trình của việc xác lập đơn vị cư trú đầu tiên là xóm, sau đó mới phát
triển thành ấp, rồi mới lập làng. Khi lập làng, họ phải làm đơn, trong đơn phải
kê rõ số dân đinh, diện tích đất đai đã khai khẩn, ranh giới cụ thể. Quan trên
xác minh tường tận, rồi mới cáo bẩm về triều đình. Khi có lệnh của triều đình,
làng mới tách khỏi làng cũ.
Khi làng mới được hình thành thì nó luôn luôn đòi hỏi những cơ sở công
ích. Trước hết là lập chợ, sau đó xây cầu, đắp lộ,... Đồng thời thiết chế văn
hóa đình, chùa, miễu, võ là nhu cầu tinh thần cơ bản của một làng. Theo Minh
điều hương ước, chỉ có xã và thôn mới được phép lập đình và võ, là một thứ
“công sở” của thôn, là điểm canh của “đội dân phòng” và nơi thờ Tiên sư.
Những người có công khai hoang lập làng, lúc sống được làm hương chức,
khi chết được tôn làm “tiền hiền khai khẩn”, còn người có công khai thị, tu
kiều, bồi lộ được tôn làm “ Hậu hiền khai cơ”. Đặc biệt người có công tái lập
làng hay tách làng lập làng mới được tôn làm “Hậu hiền khai khẩn”.

Trong thiết chế văn hóa của làng Việt, đình là cơ sở tín ngưỡng có tính
chất chính thống. Việc ông thần Thành Hoàng của làng được vua phong sắc là
20


×