BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ĐÀO THỊ NHUNG
QUAN NIỆM CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
VỀ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Hà Nội- 2015
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ĐÀO THỊ NHUNG
QUAN NIỆM CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
VỀ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
Chuyên ngành
: Tâm lý học
Mã số
: 60.31.04.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Thị Hằng
Hà Nội- 2015
4
MỤC LỤC
Trang
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO............................................................................................................................1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO............................................................................................................................3
5
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Phòng Sau đại học, Ban
Chủ nhiệm khoa Tâm lí Giáo dục trường Đại học sư phạm Hà Nội và toàn thể
các thầy cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Phùng Thị Hằng – người đã
trực tiếp hướng dẫn, góp ý, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận
văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các bạn sinh viên Học
viện Báo chí và Tuyên truyền; các bạn sinh viên Học viện an ninh nhân dân;
gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ,quan tâm và động viên tôi rất
nhiều trong quá trình học tập, hoàn thiện luận văn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
TÁC GIẢ
ĐÀO THỊ NHUNG
6
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GĐ
:
Gia đình
HVAN
:
Học viện An ninh
HVBCTT :
Học viện Báo chí Tuyên truyền
XĐ
:
Xung đột
XĐTL
:
Xung đột tâm lý
XH
:
Xã hội
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1.Cơ sở lí luận
Mỗi chúng ta ai ai cũng trải qua những giai đoạn nhất định của cuộc
đời. Mỗi người đều sẽ trải nghiệm đời sống cá nhân, đều mong muốn có một
gia đình hạnh phúc. Bản thân tôi, đứng trước ngưỡng cửa hôn nhân cũng
luôn trăn trở và mong muốn về một gia đình hạnh phúc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nhiều gia đình cộng lại mới
thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Hạt nhân của xã hội là gia đình". Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng và
Nhà nước quán triệt trong Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng và trong các
bộ luật liên quan, với các nội dung hướng tới việc củng cố vị trí, vai trò và
chức năng của gia đình. Một gia đình hạnh phúc, hoà thuận sẽ tác động tới
cộng đồng, thúc đẩy xã hội vận động tạo ra sự biến đổi và phát triển. Gia
đình hạnh phúc bền vững không chỉ có sự “no ấm, bình đẳng, tiến bộ" mà
còn là nơi hội tụ tổng thể những nét đẹp văn hoá của mỗi gia đình, cộng
đồng và xã hội. Nó được thể hiện qua thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia
đình, trong đó phải đảm bảo các nguyên tắc: Đối với người trên phải tôn
kính, lễ độ, khiêm tốn và quan tâm, chăm sóc; đối với người dưới phải biểu
lộ thái độ thông cảm, nhường nhịn, giúp đỡ, vị tha; đối với người cùng thế
hệ phải hết sức tôn trọng, chân thành, bác ái; trong quan hệ vợ chồng phải
hoà thuận trên cơ sở tình yêu thương chung thuỷ và sự hiểu biết lẫn nhau.
Thực tiễn đã chứng minh, gia đình yên ấm hạnh phúc là điều kiện, tiền
đề quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách và bảo đảm cho lao
động sáng tạo đạt hiệu quả cao nhất.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Gia đình được coi như một xã hội thu nhỏ, chịu sự chi phối của xã hội
lớn. Trong mỗi thời kì lịch sử xã hội cũng như gia đình đều có sự biến đổi.
Ứng với mỗi thời kì phát triển của xã hội có kiểu loại gia đình tương ứng. Quan
niệm của con người về gia đình cũng thay đổi theo từng giai đoạn của lịch sử.
1
Sau nhiều năm đổi mới, đất nước ta hiện nay đang đẩy mạnh nhịp độ tăng
trưởng kinh tế, ổn định chính trị, ổn định xã hội, tiến hành công nghiệp hóa vì
mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Trong xu thế
chuyển biến đó, con người được khẳng định vừa là động lực vừa là mục tiêu của
sự phát triển. Mọi kế hoạch xây dựng và phát triển nhất thiết phải gắn với kế
hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và
hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình ngay ngày hôm nay.
Trong giai đoạn hiện nay, trong điều kiện đất nước ta đang đạt chỉ số
tăng trưởng ngày càng cao, thu nhập của gia đình đã đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt vật chất, song qua điều tra nghiên cứu xã hội học cho thấy kết cấu gia
đình ngày càng lỏng lẻo, tỷ lệ ly hôn trên cả nước chiếm từ 31%-40% trên
số kết hôn. Điều đó có nghĩa cứ 3 cặp kết hôn thì sẽ có một cặp chia tay và
chiếm 60% trong số này là lớp người trẻ thuộc thế hệ 8X (từ 23-30 tuổi). Từ
đó dẫn đến hậu quả số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là 1.641.656 em, chiếm
6,55% tổng số trẻ em dưới 16 tuổi, 22 ngàn trẻ em lang thang cần được
chăm sóc, bảo vệ, giúp đỡ về kinh tế cũng như việc làm. Trong những năm
vừa qua, chính phủ đã có nhiều chính sách, chủ trương, dự án tác động đến
gia đình như xóa đói giảm nghèo, luật hôn nhân và gia đình đã được sửa đổi
cho phù hợp với thực tế, cùng với hàng loạt những chính sách liên quan đến
gia đình. Đó là những biện pháp tích cực để xây dựng gia đình. Tuy nhiên,
theo chúng tôi, ngoài ra, cần tiến hành công tác giáo dục nhằm nâng cao
nhận thức lớp trẻ về hôn nhân và gia đình. Sinh viên là lực lượng tiên tiến
của xã hội, là chuyên gia của mọi lĩnh vực trong xã hội của tương lai. Không
những thế họ còn là những người chủ gia đình trong tương lai. Vậy hiện
nay, sinh viên quan niệm như thế nào về gia đình và hạnh phúc gia đình?
Đây là vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Tìm hiểu vấn đề này
giúp chúng ta nắm được thực trạng quan niệm của sinh viên về hạnh phúc
gia đình trong thời kì kinh tế thị trường hiện nay. Trên cơ sở đó đề ra một số
biện pháp nâng cao nhận thức, thái độ của sinh viên về vấn đề này, góp phần
2
định hướng cho họ trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình tương lai. Với
những lí do trên chúng tôi lựa chọn đề tài: “Quan niệm của sinh viên hiện
nay về hạnh phúc gia đình” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm phát hiện thực trạng quan niệm của sinh viên hiện nay về
hạnh phúc gia đình, từ đó đề xuất một số biện pháp tác động giúp sinh viên
có quan niệm đúng đắn về hạnh phúc gia đình.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên các trường: Trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học
viện An ninh nhân dân.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quan niệm của sinh viên hiện nay về hạnh phúc gia đình.
4. Giả thuyết khoa học
Đa số sinh viên hiện nay có quan niệm đúng đắn về hạnh phúc gia
đình, tuy nhiên vẫn còn một bộ phận sinh viên quan niệm chưa đầy đủ và
thiếu tính toàn diện. Mặt khác, quan niệm của sinh viên về hạnh phúc gia
đình còn bộc lộ đặc điểm về giới tính: Sinh viên nam thường thiên về tính
khái quát, sinh viên nữ thường quan tâm nhiều hơn đến những cái cụ thể
trong quan niệm.Có thể giúp sinh viên có quan niệm đầy đủ và toàn diện
hơn về hạnh phúc gia đình nếu như đề xuất được những biện pháp tác động
phù hợp với tình hình thực tiễn và đặc điểm tâm, sinh lý của sinh viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa cơ sở lí luận về gia đình và hạnh phúc gia đình
5.2. Xác định thực trạng quan niệm của sinh viên về hạnh phúc gia
đình và nguyên nhân của thực trạng
5.3. Đề xuất một số biện pháp tác động tâm lý giúp sinh viên nâng
cao nhận thức và có thái độ đúng đắn khi nhìn nhận về vấn đề hạnh phúc
gia đình.
3
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Vì điều kiện và thời gian có hạn chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu
300 sinh viên các trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện An
ninh nhân dân.
- Có nhiều loại hình gia đình khác nhau. Trong đề tài này chúng tôi đi
sâu nghiên cứu quan niệm của sinh viên về hạnh phúc gia đình- loại hình gia
đình hạt nhân.
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng phối hợp các
nhóm phương pháp nghiên cứu sau đây:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng
hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu lí luận, chẳng hạn: Tâm lý học
gia đình, Giáo dục gia đình, tâm lý vợ chồng, quản lý nhà nước về gia đình,
… nhằm xây dựng khung lý thuyết cho đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra viết
Chúng tôi sử dụng một hệ thống các câu hỏi đóng và câu hỏi mở để
khảo sát quan niệm của sinh viên về hạnh phúc gia đình thông qua các khía
cạnh: Hạnh phúc; một gia đình hạnh phúc; mô hình gia đình;những điều
kiện cần có trước khi kết hôn để góp phần tạo nên hạnh phúc gia đình tương
lai, những yêu cầu đối với người vợ, người chồng để đảm bảo hạnh phúc gia
đình; bình đẳng trong quan hệ vợ chồng; xung đột trong quan hệ vợ chồng
và giải quyết xung đột trong quan hệ vợ chồng.
7.2.2. Phương pháp quan sát
Chúng tôi tiến hành quan sát những biểu hiện bề ngoài của sinh viên
thông qua các hoạt động ngoại khóa; thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp;
những cuộc trò chuyện riêng tư, theo nhóm của sinh viên nhằm thu thập
những thông tin thực tiễn có liên quan đến quan niệm của sinh viên về hạnh
phúc gia đình.
4
7.2.3. Phương pháp đàm thoại
Chúng tôi tiến hành trò chuyện, trao đổi, đàm thoại với sinh viên, với
giáo viên nhằm tìm hiểu nhận thức, thái độ của sinh về hạnh phúc gia đình
nhằm làm phong phú thêm các thông tin thực tiễn.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
Chúng tôi xin ý kiến chuyên gia về việc phân tích các đặc điểm tâm lý
của sinh viên và đề xuất các biện pháp tác động.
7.2.5. Phương pháp nghiên cứu chân dung tâm lý.
Mỗi trường đại học chúng tôi nghiên cứu một chân dung, 2 trường đại
học tương ứng với 2 chân dung. Những chân dung này sẽ góp phần mô
phỏng về quan niệm của sinh viên về hạnh phúc gia đình.
7.3. Nhóm phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học
Chúng tôi sử dụng một số công thức toán học như: Công thức tính
trung bình cộng, công thức tính phần trăm, công thức tính hệ số tương quan
của Sperman, sử dụng phần mềm SPSS,…..để xử lý các thông tin thực tiễn
của đề tài.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Gia đình và hạnh phúc gia đình là vấn đề phức tạp, phong phú và đa
dạng. Nó là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Những nhà
kinh tế học nghiên cứu gia đình với tư cách là một đơn vị kinh tế, tiêu dùng.
Các nhà nhân chủng học nghiên cứu gia đình theo sự biến đổi đa dạng của
các loại hình gia đình giữa các nền văn hóa. Các nhà sử học nghiên cứu các
mô hình gia đình đã qua trong các thời kỳ lịch sử. Các nhà dân tộc học
nghiên cứu các đặc trưng gia đình ở các dân tộc khác nhau. Còn các nhà tâm
lý học nghiên cứu cơ chế tác động về mặt tâm lý của các mối quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình. Toàn bộ các nghiên cứu từ trước đến nay về
gia đình và hạnh phúc gia đình có thể khái quát như sau:
1.1.1. Trên thế giới
Từ khoảng thế kỉ I đến thế kỉ IV, dân tộc Ấn Độ đã có tác phẩm
“Camasutra” của tác giả WLL.Durant viết về tình yêu, xây dựng gia đình
như thế nào cho phù hợp. Trong giai đoạn này, Ấn Độ đang diễn ra cuộc vận
động thanh niên quan niệm đúng đắn trong tình yêu và hôn nhân. Tác phẩm
đã được đánh giá cao và được sử dụng trong đề tài nghiên cứu cấp quốc gia
của Ấn Độ.
C.Mác và Ăngghen đã đề cập đến vấn đề về hôn nhân và gia đình trong
các thời kỳ phát triển của lịch sử trong cuốn “Hôn nhân và gia đình” qua các
thời kì lịch sử.
Nhà giáo dục lỗi lạc của Liên xô A.X.Xukhomlinxki đã trình bày các vấn
đề trong gia đình ở cuốn “Giáo dục con người chân chính như thế nào?”.
Nhà tâm lý học người Mỹ Tal Ben-shahar trong công trình nghiên cứu
của mình về hạnh phúc gia đình “Learn the Secret of Daily Joy and Lasting
Fulfillment” (tạm dịch là để hạnh phúc hơn hãy học những bí mật niềm vui
hàng ngày và hiện thực hoá lâu dài”, đã đề cập đến hạnh phúc và hạnh phúc
6
gia đình như một ý nghĩa của cuộc đời, cách để có được hạnh phúc và muốn
có được hạnh phú con người phải hành động như thế nào? Và công trình này
sau khi xuất bản thành cuốn sách cùng tên đã thu hút rất nhiều độc giả cũng
như những nghiên cứu về gia đình và xã hội học quan tâm, đánh giá cao.
Trong những năm 90 ở Mỹ, các nhà tâm lý học Richard Stevens,
Brett Kahn, nhà triết học kiêm kinh tế học Revees, nhà hoạt động xã hội
Andrew Mawson đã tiến hành công trình nghiên cứu “Trở thành người
hạnh phúc như thế nào?”, công trình được sự hỗ trợ của đài truyền hình
BBC2 và đã kết thúc thành công. Trong công trình đã được đề cập đến
một cách cụ thể về hạnh phúc và hạnh phúc gia đình, con người sẽ trở
thành hạnh phúc và có được hạnh phúc gia đình khi các cá nhân tích cực
vì nhau, quan tâm chia sẻ với nhau.
Trong tác phẩm “Bức tranh gia đình” 2004, T.S Johan Goetle đã
nghiên cứu về toàn bộ đời sống gia đình và ảnh hưởng của gia đình đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Đồng thời tác phẩm cũng đã đưa
ra những phương thức để xây dựng một gia đình hạnh phúc. Quan điểm và
cách tiếp cận của Johan Goethe được các nhà nghiên cứu về gia đình đánh
giá với nhận xét: “Đây là tác phẩm mà những gia đình trẻ cần đọc”. Tác
phẩm cũng đã được in và xuất bản nhiều lần, được đánh giá là một trong
những quyển sách bán chạy nhất nước Mỹ lúc bấy giờ.
TS.David Niven sau nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy môn Tâm lý
học tại Mỹ đã tổng kết những kinh nghiệm cũng như kiến thức của mình về
“Bí quyết để có gia đình hạnh phúc” cùng với Giáo sư Steve Brukett (người
đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu về con người) viết thành cuốn sách mang
tên: “Bí quyết để có một gia đình hạnh phúc”, cuốn sách này đã được công
ty Frits News- Trí Việt mua bản quyền xuất bản, và được NXB Trẻ xuất bản
năm 2007. Trong tác phẩm này David Niven đã viết: “Cuộc sống gia đình
hạnh phúc hay không là tuỳ thuộc vào ý thức xây dựng và giữ gìn của những
người trong cuộc. Dù sống trong hoàn cảnh gia đình như thế nào đi chăng
7
nữa nhưng nếu bạn biết cách sắp xếp, vun vén và quan trọng hơn cả là đối
xử với nhau bằng con tim chân thành thì bạn hoàn toàn có thể được hưởng
hạnh phúc gia đình”
Trong cuốn “Trong gia đình” Protopopova trình bày một số khía cạnh
của đời sống tâm lý giữa vợ chồng, giữa các thành viên khác trong gia đình,
sự đấu tranh giữa vợ chồng để tìm ra bến bờ hạnh phúc của gia đình.
Cuốn “Xây dựng gia đình” của L.Coovaleva, tác giả đã đề cập đến rất
nhiều vấn đề khác nhau như: Lựa chọn bạn đời như thế nào? Giữ gìn tình
yêu như thế nào? Và cần xây dựng hạnh phúc như thế nào?....
Cuốn “Tình yêu - Gia đình - Hạnh phúc” của Bawngdelade nói về
vấn đề đạo đức giữa vợ và chồng, và các mặt khác.
Ngoài ra còn có một số tác giả khác như Macarenco, Auckaia… cũng
đã đề cập đến các khía cạnh khác của gia đình như: Giáo dục trong gia đình,
sự bảo tồn hạnh phúc gia đình…Bên cạnh đó còn rất nhiều bài báo, tạp chí,
tập san… bàn về gia đình nói chung và hạnh phúc gia đình nói riêng.
1.1.2. Ở Việt Nam
Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1991 xuất bản cuốn “ Người phụ
nữ và gia đình Việt Nam hiện nay” có bài viết: “suy nghĩ về những yếu tố cơ
bản tạo độ bền vững của hạnh phúc gia đình, đó là sự hoà hợp tình cảm, hoà
hợp tình dục, phong cách nuôi dạy con, cách tổ chức cuộc sống gia đình”
“Tâm lý học gia đình” của tác giả Ngô Công Hoàn (1993) là một tác
phẩm tiêu biểu với các quan niệm khác nhau về gia đình và khả năng giữ
gìn, bảo toàn, phát huy hạnh phúc trong gia đình. Trong tác phẩm này, tác
giả đã đề cập đến những đặc điểm, những qui luật tâm lý diễn ra trong cuộc
sống thường ngày của mỗi gia đình. Tác giả đã tập hợp được khá nhiều
những công trình nghiên cứu của các nhà triết học, xã hội học, giáo dục
học… trong và ngoài nước, đã đề cập đến vấn đề giáo dục trên nhiều mặt
trong cuộc sống đương đại cũng như trong truyền thống dân tộc.
8
“Tâm lý học tình yêu gia đình của Nguyễn Đình Xuân” (1993), đề
cập một cách khá đầy đủ những vấn đề xoay quanh chủ đề tương đối nhất
quán, như:
- Mối quan hệ giữa tâm lý và sự phát triển gia đình
- Các yếu tố tâm lý trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình
- Tâm lý của các thành viên trong gia đình
- Xung đột và cách giải quyết xung đột
- Các biện pháp xây dựng gia đình hạnh phúc…
Trong báo cáo tại hội nghị “Người mẹ Việt Nam và vấn đề nuôi dạy
con” của giáo sư Đặng Xuân Hoài, trên cơ sở đưa ra một số dẫn chứng đáng
lo ngại xung quanh vấn đề hôn nhân giữa nam và nữ trong và ngoài nước đã
chỉ ra sự cần thiết phải có một kế hoạch, một chương trình cụ thể nhằm giúp
thanh niên quan niệm đúng đắn về tình yêu và có tâm thế nhất định cho việc
làm cha, làm mẹ sau này.
Trong cuốn “hạnh phúc gia đình trẻ” của nhiều tác giả do NXB Trẻ
(1994) tập hợp một số bài nghiên cứu về gia đình và hạnh phúc gia đình của
những gia đình trẻ, trong đó đã đề cập đến những vấn đề như: Cách thức tổ
chức cuộc sống gia đình, vai trò của người phụ nữ và đàn ông trong việc xây
dựng, gìn giữ hạnh phúc gia đình, xung đột trong gia đình,….
Trong công trình nghiên cứu về “Gia đình trẻ và việc thi hành nhân
cách thanh niên”, PTS.Dương Tự Đam đã bàn về vấn đề: xây dựng hạnh
phúc gia đình không chỉ góp phần hình thành nhân cách của trẻ ngay từ bé
mà còn góp phần tạo nên một xã hội phồn thịnh. Đồng thời, công trình
nghiên cứu cũng đã đề cập đến những cơ sở lý luận và thực tiễn cùng với
những vấn đề cơ bản về nội dung, phương pháp giáo dục con cái góp phần
hình thành nhân cách thanh niên thời đại mới. Nội dung của công trình
nghiên cứu đã được NXB thanh niên xuất bản thành cuốn sách “Gia đình trẻ
và việc thi hành nhân cách thanh niên” (2007).
9
Trong cuốn “Bí quyết xây dựng hạnh phúc gia đình hạnh phúc lứa
đôi” Huỳnh Đức Quang đề cập đến vấn đề hôn nhân, mối quan hệ giữa tình
yêu và hôn nhân ở tuổi trẻ cũng như trách nhiệm của vợ chồng với con cái
và việc nuôi dạy chúng nên người.
Cuốn “Giáo dục gia đình” của TS.Phạm Khắc Chương đề cập đến
tầm quan trọng của gia đình, các nội dung và phương pháp giáo dục trong
gia đình.
“Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình” của trung tâm nghiên cứu
khoc học về gia đình và phụ nữ (Đề tài KX 07-09) nhấn mạnh vai trò, chức
năng của gia đình, nội dung, phương pháp giáo dục trong gia đình hiện nay
cũng như ảnh hưởng của các môi trường giáo dục khác đến gia đình.
Cuốn “Xây dựng gia đình, xây dựng cuộc sống văn minh hạnh phúc”
của nhà xuất bản phụ nữ giới thiệu một số bài phát biểu tại hội nghị chuyên
đề bàn về cuộc vận động phụ nữ tham gia xây dựng gia đình văn hóa, trong
đó đặc biệt nhấn mạnh vị trí, chức năng của gia đình.
Cuốn “Nhận định gia đình Việt Nam hiện nay” của trung tâm nghiên
cứu khoa học về phụ nữ đề cập đến thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay,
sự biến đổi và xu hướng phát triển của nó.
Bên cạnh đó còn có nhiều luận văn, luận án nghiên cứu những vấn
đề liên quan đến gia đình và hạnh phúc gia đình. Luận án tiến sĩ của
NCS Cao Thị Huyền Nga đã đề cập đến xung đột tâm lý trong quan hệ
vợ chồng, một trong những nguyên nhân cơ bản gây đổ vỡ cuộc sống gia
đình. Tác giả đã phân tích, làm rõ những vấn đề lí luận về xung đột tâm
lý trong quan hệ vợ chồng. Trên cở sở đó, đã phân tích thực trạng và làm
rõ nguyên nhân xung đột tâm lý trong quan hệ vợ chồng hiện nay. Từ
đó, tác giả đã đề xuất các giải pháp thỏa đáng để giải quyết xung đột tâm
lý trong quan hệ vợ chồng, góp phần củng cố gia đình, tạo sự ổn định,
bền vững cho hôn nhân ở nước ta hiện nay.
10
Tóm lại, gia đình và vấn đề hạnh phúc gia đình có nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu. Những nghiên cứu mà tôi đã nêu trên đã đề cập đến
những vấn đề như: Hôn nhân và gia đình, bức tranh gia đình, bí quyết để
có gia đình hạnh phúc, xây dựng gia đình, tình yêu- hôn nhân- gia đình,
tâm lý học tình yêu gia đình, giáo dục gia đình,…..Tất cả những vấn đề
này được đề cập dưới các góc độ: kinh tế học, giáo dục học, lịch sử học,
xã hội học, tâm lý học,….một cách sâu sắc, rõ nét.Tuy nhiên, vấn đề quan
niệm của sinh viên về hạnh phúc gia đình còn ít được quan tâm. Vì vậy,
trong đề tài này chúng tôi muốn nghiên cứu quan niệm của sinh viên
trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay về vấn đề hạnh phúc gia đình.
Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức, thái độ
của sinh viên về vấn đề này, góp phần định hướng cho họ trong việc xây
dựng hạnh phúc gia đình tương lai.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quan niệm
Theo từ điển Từ và ngữ Việt Nam:
Quan niệm dt (Quan: Nhìn xem, niệm: suy nghĩ): Cách hiểu riêng của
mình về một sự vật, một vấn đề.[14;318]
1.2.2. Gia đình
1.2.2.1. Gia đình là gì?
Gia đình có ý nghĩa và tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với sự phát
triển của xã hội nói chung và sự phát triển nhân cách của cá nhân nói riêng.
Như Ph.ăngghen đã từng nói rằng, nhân tố quyết định trong lịch sử suy cho
đến cùng là sản xuất và tái sản xuất trực tiếp. Như vậy, mỗi thời đại lịch sử
được quyết định bởi trình độ phát triển của lao động và trình độ phát triển
của gia đình. Do vậy, gia đình là vấn đề rất quan trọng được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu, trong đó có các nhà tâm lý học. Theo các nhà
khoa học, đặc biệt là các nhà tâm lý học, gia đình là gì? Nó nảy sinh và hình
thành như thế nào?
11
Thep Morgan: “GĐ là một yếu tố năng động, nó không bao giờ đứng
nguyên một chỗ mà chuyển từ hình thức thấp lên một hình thức cao, khi xã
hội chuyển từ một giai đoạn thấp lên một giai đoạn cao”. Vì vậy, ông đã
chia lịch sử ra thành 3 thời đại chính: Mông muội, dã man, văn minh. Mỗi
thời đại chia thành các giai đoạn: Thấp, giữa, cao. Tương ứng với các giai
đoạn phát triển này trong sự phát triển của xã hội loài người có ba hình thức
hôn nhân. Đó là:
- Thời đại mông muội: hình thức hôn nhân là quần hôn và quan hệ tính
giao bừa bãi.
- Thời đại dã man: hình thức GĐ đối ngẫu.
- Thời đại văn minh: Hình thành GĐ một vợ, một chồng và được bổ
sung bằng tệ ngoại tình và nạn mại dâm.
Về đại thể GĐ phát triển qua các hình thức: thị tộc, đại GĐ, GĐ phụ
quyền (GĐ gia trưởng), gia đình hạt nhân. Không kể những hình thức GĐ
của những thời đại trước, sự phát triển từ GĐ gia trưởng sang GĐ hạt nhân
được miêu tả như một quá trình có tính quy luật diễn ra ở hầu hết các nước
phát triển theo hướng công nghiệp hóa, thành thị hóa. Hiện nay, GĐ hạt
nhân là hình thức GĐ phổ biến và tiến bộ nhất.
Đứng trên những góc độ khác nhau, các nhà khoa học đã đưa ra những
định nghĩa khác nhau về GĐ.
Theo quan niệm xưa nay ở nước ta, GĐ là một cộng đồng bao gồm
những người xây dựng cuộc sống chung theo tục lệ hôn nhân giá thú, gắn bó
với nhau bằng quan hệ máu mủ, ruột rà, cùng sống trong một nhà, có sân
phía trước hoặc ở phía sau trên một thửa đất cơ bản là ổn định.
Còn định nghĩa đương đại có rất nhiều.
Theo C.Mác và Ăngghen: GĐ là mối quan hệ vợ và chồng, giữa cha
mẹ và con cái…
Tuyên bố về tiến bộ xã hội trong phát triển của liên hợp quốc (Quyết
định số 2542 của Đại hội đồng Liên hiệp quốc) định nghĩa: “GĐ là đơn vị
12
cơ bản của xã hội, là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của
mọi thành viên, nhất là trẻ em.”
Theo bác sĩ Nguyễn Khắc Viện: GĐ gồm bố mẹ, con cái và có hay
không có một số người khác ở chung một nhà.
PGS.TS Đặng Xuân Hoài cho rằng: GĐ là đơn vị nhỏ nhất của xã hội,
phụ thuộc vào xã hội và là tấm gương phản chiếu mọi thành tựu, cũng như
mâu thuẫn của xã hội.
Còn nhà xã hội học Nga T.A.Phanaxeva đã tổng kết có ba quan niệm
khác nhau về gia đình:
- Quan điểm thứ nhất: GĐ là một nhóm nhỏ xã hội, liên kết với nhau
bằng một chỗ ở, bằng một ngân sách chung và mối quan hệ ruột thịt.
- Quan niệm thứ hai: GĐ là một nhóm nhỏ xã hội liên hệ với nhau
trong một nhà, bằng một ngân sách chung và mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau
bằng tình cảm và trách nhiệm.
- Quan hệ thứ ba: GĐ hiện đại là một nhóm nhỏ xã hội bao gồm bố mẹ
và con cái của một vài thế hệ, các thành viên trong gia đình có mối quan hệ
rằng buộc về vật chất, tinh thần theo những nguyên tắc, mục đích sống như
nhau về các vấn đề trong sinh hoạt.
Theo chúng tôi, định nghĩa của hai nhà xã hội học E.Bơghet và
H.Lốccơ là đầy đủ hơn cả vì nó vừa chỉ ra cấu trúc của gia đình, vừa chỉ
ra mối quan hệ, và quan trọng nhất là đã chỉ được ra rằng, tổng hòa các
thành viên trong GĐ, bằng giao tiếp và sự tác động qua lại đã tạo ra
được một nền văn hóa. Theo hai ông: “GĐ là một nhóm người liên kết
với nhau bằng quan hệ hôn nhân, máu mủ, hay bằng nhận con nuôi, tạo
ra một hệ riêng biệt, tác động qua lại và giao tiếp lẫn nhau qua vai trò xã
hội của từng người: là chồng, là vợ, là bố, là mẹ, là anh chị em,…, tạo
nên một nền văn hóa chung.”
13
Từ góc độ tâm lý học, Tác giả Ngô Công Hoàn cho rằng, để khái
niệm GĐ bao hàm được nội dung chuẩn xác cần xem xét những đặc
trưng cơ bản sau:
Một là, GĐ là một nhóm nhỏ, nhất thiết phải có hai người trở lên
Hai là, trong GĐ phải có giới tính khác nhau qua quan hệ hôn nhân.
Ba là, Quan hệ giữa các thành viên trong GĐ phải là quan hệ ruột thịt,
huyết thống nghĩa là có quan hệ tái sản xuất ra con người.Nếu không có
quan hệ này không thể gọi là GĐ theo đúng nghĩa.
Bốn là, trong GĐ các thành viên gắn bó với nhau về đặc điểm tâm sinh
lý. Cha mẹ truyền cho con cái những đặc điểm thể chất qua gen di truyền
sinh học. Còn thông qua nếp sinh hoạt, truyền thống, phong tục, tập quán
con cái tiếp nhận từ ông bà, cha mẹ những dấu ấn tâm lý.
Năm là, Quan hệ kinh tế. Các thành viên trong GĐ sống và hoạt động
bằng một ngân sách chung, do các thành viên lao động trong GĐ đem lại.
Sáu là, các thành viên trong GĐ sống trong cùng một nhà.
Từ các đặc trưng cơ bản trên tác giả đưa ra một định nghĩa về gia đình
dưới góc độ tâm lý học như sau: “GĐ là một nhóm nhỏ xã hội, các thành
viên có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm- sinh lý, có
chung các giá trị vật chất và tinh thần ổn định trong các thời điểm lịch
sử nhất định.” [11,8]
Từ những quan niệm trên, theo chúng tôi khi đề cập đến khái niệm
GĐ cần hiểu GĐ là một nhóm nhỏ xã hội. Nó có cơ cấu và thực hiện
những chức năng nhất định. Để hiểu rõ hơn, chúng tôi đi sâu làm rõ hai
vấn đề: Cơ cấu và chức năng của GĐ.
1.2.2.2. Cơ cấu của gia đình
Có thể hiểu cơ cấu trong GĐ là số lượng, thành phần và mối quan hệ
qua lại giữa các thành viên trong gia đình. Có nhiều cách phân loại cơ cấu
GĐ, ở mỗi loại đều có những căn cứ và những tiêu chuẩn khác nhau.
14
Nếu lấy hôn nhân làm chuẩn thì có:
- Cơ cấu GĐ một vợ, một chồng gọi là GĐ đơn hôn hay GĐ son trẻ.
- Cơ cấu GĐ một vợ, nhiều chồng hay một chồng, nhiều vợ gọi là GĐ
đa hôn.
Nếu theo số thế hệ trong gia đình thì có:
- GĐ hai thế hệ là GĐ hạt nhân
- GĐ gồm nhiều thế hệ cùng sinh sống trong một nhà gọi là GĐ mở
rộng
Xã hội học phân chia cơ cấu GĐ thành ba loại có liên quan mật thiết
với nhau:
- Cơ cấu uy quyền là loại cơ cấu trong đó cho biết những quyết định
căn bản trong GĐ thuộc về ai. Từ đó có sự phân biệt giữa GĐ gia trưởng
(hay độc đoán) với GĐ dân chủ. Trong cơ cấu uy quyền gia trưởng, vợ phục
tùng chồng, con cái phục tùng cha mẹ, chủ yếu là bố. Trong cơ cấu dân chủ,
sự phân bố vai trò của các thành viên trước hết căn cứ vào phẩm chất và
năng lực của cá nhân vợ chồng, các thành viên trong GĐ dựa vào những
quyết định những công việc quan trọng.
- Cơ cấu giao tiếp có ảnh hưởng căn bản tới tất cả các mặt hoạt động
của GĐ.
- Cơ cấu vai trò là hệ thống các quan hệ và tương tác giữa các thành
viên GĐ theo những vai trò qui định cho mỗi thành viên. Thông thường sự
phân chia vai trò chịu ảnh hưởng lớn của truyền thống và tập quán xã hội,
của môi trường xã hội gần gũi, nhưng cũng bị chi phối bởi kinh nghiệm cá
nhân của mỗi thành viên GĐ, cũng được qui định về cả mặt pháp lý.
Trong GĐ giá trị cấu trúc là giá trị tồn tại bên trong thể hiện sự gắn bó
giữa các thành viên của cộng đồng đặc biệt này. Đó là các giá trị biểu hiện
trong quan hệ cơ bản của GĐ: quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ con cái,
quan hệ anh chị em. Trong các mối quan hệ đó GĐ trở thành chỗ dựa, tổ ấm
cho mỗi thành viên hình thành và phát triển nhân cách, gắn bó nhau trong
15
cuộc sống tình cảm, yêu thương nhau và có nghĩa vụ, trách nhiệm cùng lo
lắng, săn sóc nhau.
a. Quan hệ vợ - chồng.
Quan hệ vợ chồng là quan hệ chủ đạo trong GĐ để nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu giới tính và đáp ứng nhu cầu tình cảm của các thành viên.
Quan hệ vợ chồng có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, đó là quan hệ khép kín
Thứ hai, đó là quan hệ đa chức năng, quan hệ chủ đạo trong GĐ
Thứ ba, quan hệ vợ chồng có tính gắn kết cao, thể hiện sự thân tình và
trách nhiệm đối với nhau.
Thứ tư, quan hệ vợ chồng thể hiện sự cân bằng giữa tính lãng mạn và
tính hiện thực.
Thứ năm, quan hệ vợ chồng mang tính chân thực. Vợ chồng thường đối
xử với nhau chân thật, nhưng như thế không có nghĩa là mọi thứ được phơi
bày ra hết, mà phải hướng tới cái đẹp, sự tế nhị, khéo léo.
Thứ sáu, quan hệ vợ chồng có tính tương hợp rất cao, thể hiện ở nhiều
mặt: quan niệm sống, tính tình, tuổi tác, địa vị xã hội, sinh lý,….
Hôn nhân là khởi đầu cho cuộc sống GĐ. Quan hệ vợ chồng là quan hệ
đặc thù giữa người đàn ông và người đàn bà, được phê chuẩn bởi xã hội. Đó
là quan hệ xã hội đầu tiên, duy nhất khởi nguồn cho lịch sử nhân loại. Trong
GĐ mỗi thành viên có một vị trí và vai trò nhất định. Cùng với sự phát triển
của xã hội thì quan niệm của người đời về vị trí, vai trò của người vợ, người
chồng trong GĐ cũng khác nhau. Thời phong kiến, người đàn ông trong GĐ
được đánh giá rất cao. Trong GĐ, người chồng đóng vai trò là người chủ gia
đình, đứng mũi chịu sào, lo toan các công việc lớn trong GĐ như làm nhà,
dựng vợ, gả chồng cho con cái, lo làm ăn, kiếm tiền…Khi ra xã hội, người
chồng là người đại diện cho GĐ trong quan hệ với họ hàng, làng xóm, là
người chịu trách nhiệm về các thành viên trong GĐ. Vì vậy, người chồng
thường rất gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, thiếu dân chủ với vợ con.
16
Người vợ trong GĐ không được coi trọng lắm. Người vợ là người tề gia, nội
trợ, sinh con, phục vụ chồng là chủ yếu. Còn trong xã hội hiện nay, cùng với
sự phát triển của xã hội, nhận thức của mọi người về vấn đề này đã có nhiều
thay đổi. Trong GĐ, quan hệ vợ chồng trở nên bình đẳng, dân chủ hơn.
Người chồng có thể coi là người chủ số một, người vợ là người chủ số hai,
tùy thuộc vào điều kiện, khả năng của mỗi người. Tuy nhiên, muốn GĐ thực
sự hạnh phúc, người chồng vẫn phải đóng vai trò trụ cột của GĐ. Bởi vì,
người phụ nữ luôn muốn chồng mình là một người đàn ông mạnh mẽ, dũng
cảm, cương quyết để chỉ huy, làm chỗ dựa cho các thành viên khác trong
GĐ trong lúc thuận lợi hay khó khăn. Sức mạnh của người chồng là ở bản
lĩnh, sự thông minh, khôn khéo, mau chóng xử lý và thích ứng với mọi hoàn
cảnh, đồng thời phải có tính cương quyết, kiên trì, bao dung, độ lượng và
biết kiềm chế bản thân. Ngoài việc nội trợ, chăm lo thu vén GĐ, người vợ
còn tham gia các công tác xã hội. Do vậy, người chồng nên dành thời gian
giúp đỡ cho vợ những công việc trong GĐ, đặc biệt là những lúc ốm đau,
mệt mỏi, bận rộn. Điều đó thể hiện ý thức trách nhiệm, tình yêu thương của
chồng đối với vợ. Người vợ nào cũng muốn được chồng yêu thương, thông
cảm, đoán được ý vợ và chăm sóc vợ một cách tự giác, chu đáo. Người
chồng lí tưởng là hiểu tâm lí vợ, nhạy cảm, vị tha. Hơn thế nữa, người chồng
ngoài tình yêu thương ra còn có nghĩa vụ là chăm sóc, giúp đỡ vợ về mọi
mặt, tạo điều kiện cho vợ tiến bộ.
Trong GĐ, vai trò của người phụ nữ rất quan trọng. Có thể nói, người
vợ đóng vai trò chính trong việc xây dựng hạnh phúc GĐ. Muốn làm tốt
được vai trò này, người vợ phải biết thu vén, tổ chức tốt cuộc sống GĐ, biết
quán xuyến công việc GĐ từ việc lớn đến việc nhỏ. Xưa và nay cũng vậy,
người phụ nữ đóng vai trò tề gia nội trợ trong GĐ. Người phụ nữ đảm đang,
biết tề gia nội trợ là ước mơ của tất cả các ông chồng. Người vợ còn đóng
vai trò là người giúp chồng làm nên sự nghiệp. Người ta thường nói, đằng
sau một người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ. Để làm tốt được vai
17
trò này, người vợ phải hiểu những hoài bão, ước mơ của chồng để cảm
thông, chia sẻ, vui sướng, đau khổ, lo lắng cùng với chồng khi thất bại, khó
khăn hay lúc thắng lợi. Đối với người chồng, không có gì sung sướng bằng
có được người thân yêu đồng thời là người bạn thân thiết để tâm sự cõi lòng,
để bàn việc đời. Muốn vậy, người vợ phải có những hiểu biết nhất định về
văn hóa, khoa học, nghệ thuật, về cách đối nhân xử thế,…Người vợ phải
thường xuyên học hỏi, nâng cao trình độ cho phù hợp với bước tiến của
chồng. Đôi khi người vợ cũng phải biết hi sinh bản thân vì sự nghiệp của
chồng. Trong trường hợp vợ có nghề nghiệp, trình độ văn hóa,….cao hơn
chồng thì cũng không nên tỏ ra kiêu căng, tự cao, coi thường chồng. Cần
phải động viên, khích lệ chồng vươn lên.
Nói đến quan hệ vợ chồng, một vấn đề không thể không đề cập đến đó
là các giai đoạn phát triển của quan hệ vợ chồng. Xung quanh vấn đề này, có
nhiều quan niệm khác nhau xuất phát từ những mục đích, những tiêu chí
khác nhau. Trong đề tài này, chúng tôi xin đưa ra cách phân loại của tác giả
Ngô Công Hoàn, mà theo chúng tôi là hợp lí hơn cả. Tác giả Ngô Công
Hoàn chia cuộc sống gia đình thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn tìm hiểu trước hôn nhân. Trong giai đoạn này,
nam nữ nam nữ thanh niên gặp nhau, cảm mến nhau, có nhu cầu giao tiếp
trao đổi tư tưởng, tình cảm để nhận thức, hiểu nhau về những phẩm chất
nhân cách, về nguồn gốc xã hội, những thói quen, nếp sống của cả hai bên.
Giai đoạn 2: Giai đoạn mới kết hôn. Đây là giai đoạn hôn nhân, giai
đoạn hợp thức hóa về mặt pháp lí.
Giai đoạn 3: Giai đoạn vợ chồng thích nghi với cuộc sống chung. Đây
là giai đoạn mà sự thỏa mãn nhu cầu tình thần, sinh lý đạt đến đỉnh cao của
nó,…Giai đoạn này với mục tiêu là xây dựng GĐ, thích nghi với cuộc sống
chung.
Giai đoạn 4: Giai đoạn thực hiện những chức năng khác nhau của GĐ.
Trong giai đoạn này, đứa trẻ ra đời, hôn nhân chuyển sang một giai đoạn
18