ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƢỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ THÚY NGAQUAN HỆ TRIỀU CỐNG
ĐẠI VIỆT -MINHTHẾ KỈ XV-XVI
Luận vănThạc sĩ chuyên ngành:Lịch sử Việt Nam
Mã số:60 22 03 13
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:TS. Phạm Đức Anh
Hà Nội –2016
MỤC LỤC
MỞĐẦU....................................................................................................................4
1. Lý do chọn đềtài...................................................................................................4
2. Lịch sửnghiên cứu vấn đề....................................................................................5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu........................................................................8
4. Mục tiêu nghiên cứu..............................................................................................8
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu........................................................8
6. Đóng góp chủyếu của luận văn.........................................................................10
7. Bốcục luận văn....................................................................................................11
CHƢƠNG 1. SỰHÌNH THÀNH QUAN HỆTRIỀU CỐNG GIỮA ĐẠI VIỆT VỚI
TRUNG QUỐC TRONG GIAI ĐOẠNTHẾKỈXV-XVI..........................12
1.1. Khái quát vềquan hệtriều cống giữa Đại Việt với Trung Quốc trƣớc
thếkỉXV..................................................................................................................121
.1.1. Giai đoạn trước thếkỉXIII............................................................................12
1.1.2. Giai đoạn từthếkỉXIII đến đầu thếkỉXV..................................................14
1.2. Bối cảnh Đại Việt trong thếkỉXV-XVI.........................................................18
1.2.1. Tình hình chính trị-quân sự........................................................................18
1.2.2. Tình hình kinh tế............................................................................................23
1.3. Trung Quốc dƣới thời nhà Minh (thếkỉXV-XVI).......................................29
1.3.1. Tình hình chính trị-quân sự........................................................................29
1.3.2. Tình hình kinh tế............................................................................................32
1.3.3. Tình hình văn hóa –tư
tưởng.......................................................................35Tiểu kết chương
1.....................................................................................................37
CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TRIỀU CỐNG GIỮA ĐẠI VIỆT VỚITRUNG
QUỐC TRONG THẾKỈXV-XVI............................Error! Bookmark not defined.
2.1. Hoạt động triều cống giữa triều Lê sơ với nhà MinhError!
defined.
Bookmark not
2.1.1. Lệcống và cống phẩm.......................................Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Lộtrình đi sứ......................................................Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Thành phần sứđoàn............................................Error! Bookmark not defined.
2.1.4. Những hoạt động triều cống chủyếu..................Error! Bookmark not defined.
2.2. Hoạt động triều cống giữa nhà Mạc với triều MinhError!
defined.
Bookmark
not
2.2.1. Lệcống và cống phẩm.......................................Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Lộtrình đi sứ......................................................Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Thành phần sứđoàn..........................................Error! Bookmark not defined.
2.2.4. Những hoạt động triều cống chủyếu................Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 2..........................................................Error! Bookmark not
defined.
CHƢƠNG 3. MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀQUAN HỆTRIỀU CỐNG ĐẠI VIỆT –
TRUNG QUỐC THẾKỈXV-XVI..............................Error! Bookmark not defined.
3.1. Mục đích thiết lập quan hệtriều cống................Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Vềphía Đại Việt.................................................Error! Bookmark not defined
.3.1.2. Vềphía nhà Minh...............................................Error! Bookmark not defined.
3.2. Quá trình thiết lập và duy trì quan hệtriều cốngError!
defined.
Bookmark
not
3.2.1. Đại Việt gặp khó khăn trong quá trình thiết lập quan hệtriều cống với nhà
Minh..............................................................................Error! Bookmark not
defined.
3.2.2. Đại Việt duy trì quan hệtriều cống với nhà Minh trong thếkỉXVXVI.....Error! Bookmark not defined.
3.3. Kết quả, ý nghĩa của quan hệtriều cống............Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Góp phần duy trì mối quan hệtốt đẹp giữa hai quốc giaError!
not defined.
Bookmark
3.3.2.Đại Việt và nhà Minh đều đạt được những lợi ích nhất định thông qua hoạt
động triều cống.............................................................Error! Bookmark not
defined.
3.3.3. Thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hóa giữa hai quốc giaError! Bookmark not
defined.
Tiểu kết chương 3.........................................................Error! Bookmark not
defined.
KẾT LUẬN..................................................................Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................37
PHỤLỤC.....................................................................Error! Bookmark not defined
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đềtàiCùng với cầu phong, triều cống là một trong những hình thức
đặc biệt của quan hệ bang giao giữa Đại Việt với Trung Quốc.Trung Quốc là một
quốc gia có lịch sử phát triển lâu đời, các vương triều phong kiến với ưu thế về
kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa đã tự cho mình là “thiên triều”, “thượng quốc’’,
có quyền áp đặt chính sách đối ngoại đối với các nước nhỏ hơn. Những quốc gia
lân cận muốn duy trì nền hòa bình, độc lập và tự chủ nhất thiết phải lựa chọn con
đường thiết lập và duy trì quan hệ triều cống với Trung Quốc. Nhìn trong suốt tiến
trình lịch sử, Đại Việt cũng không phải là ngoại lệ.Trong quan hệ bang giao, để giữ
vững hòa hiếu, tránh gây xung đột và chiến tranh, việc khéo léo trong đường lối
đối ngoại giữ vị trí hết sức quan trọng. Suốt lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam,
các vương triều đều rất coi trọng mối quan hệ với các nước láng giềng, nhất là với
Trung Quốc ở phía Bắc. Những hoạt động chính trong bang giao như cầu phong,
triều cống, thăm hỏi... đều được các triều đình Đại Việt xử lý một cách khôn
ngoan. Quan hệ triều cống ở mỗi triều đại, thời điểm lại mang màu sắc riêng.Sau
khi thành lập vào năm 1368, nhà Minh (1368-1644) đã nhanh chóng vươn lên trở
thành một đế chế cường thịnh nhất trong “Thế giới phương Đông’’. Với tư cách là
một triều đại lớn, xen giữa hai vương triều ngoại tộc là Mông –Nguyên và Mãn
Thanh, có thể coi sự thiết lập nhà Minh là sự phục hưng quyền lực của người Hán
và là một triều đại Hán tộc điển hình. Từ đó, những tư tưởng cổ xưa của người Hán
đã thấm sâu vào giai cấp thống trị nhà Minh. Vương triều này không chỉ muốn
khuếch trương những giá trị của văn hóa Hán mà còn nuôi tham vọng mở rộng
những ảnh hưởng chính trị, kinh tế, văn hóa ra các quốc gia trong khu vực. Trong
đó, việc thiết lập hệ thống phiên thầnở khu vực Đông Nam Á và Nam Á là một
biểu hiện quan trọng của chủ trương phát triển tư tưởng bành trướng Đại Hán cũng
như khẳng định vị thế nước lớn của mình. Do vị trí địa –chính trị, nhất là những hệ
lụy của hơn 1000 năm Bắc thuộc, Đại Việt đã có quan hệ triều cống với Trung
Quốc từ rất sớm. Đến thế kỉ XV-XVI, quan hệ triều cống giữa hai
6triều Lê sơ, Mạc với nhà Minh được duy trì chặtchẽ, mang tính điển hình và là cơ
sở, nền tảng của quan hệ bang giao giữa hai nước.Nghiên cứu về quan hệ Việt Nam
–Trung Quốc trong lịch sử, từ lâu đã được nhiều học giả trong và ngoài nước quan
tâm và đã có nhiều đóng góp quan trọng. Tuy nhiên, quan hệtriều cống giữa hai
nước trong suốt thời phong kiến hoặc giữa các triều đại cụ thể, chủ yếu mới chỉ
được trình bày một cách khái quát, còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng rõ. Với
đề tài “Quan hệ triều cống Đại Việt –Minh thế kỉ XV-XVI” luận văn muốn đi sâu
nghiên cứu về quan hệ triều cống giữa hai nước trong thời kỳ mối quan hệ nàydiễn
ra mạnh mẽ và liên tục nhất từ khi được thiết lập. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy,
ứng xử với các vương triều phong kiến Trung Quốc như thế nào để vừa có thể
chung sống hòa bình với một nước láng giềng lớn mạnh, tránh được những căng
thẳng, xung đột, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vừa có
thể đoàn kết được toàn dân, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, không phải là một
vấn đề đơn giản và luôn là một thách thức lớn đối với các vương triều Đại Việt.
Nghiên cứu quan hệ triều cống giữa Đại Việt với nhà Minh trong thế kỉ XV-XVI để
nhận thấy sự kế thừa những đường lối đúng đắn trong việc duy trì quan hệ với
quốc gia láng giềng lớn như Trung Quốc. Từ đó, gópphần nâng cao giá trị của
những bài học và đường lối ngoại giao thời phong kiến. Những bài học đó không
chỉ có ý nghĩa trong ngoại giao thời phong kiến mà chúng còn có ảnh hưởng, tác
động đến đường lối, chính sách ngoại giao của Việt Nam trong thời kỳ hiện nay
nhằm duy trì một nền ngoại giao khéo léo, hòa bình ,đồng thời kiên định con
đường bảo vệ độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ.Từ những lý do khoa học và
thực tiễn trên đây, quan hệ triều cống giữa Đại Việt với nhà Minh trong thế kỉ XVXVI là vấn đề lý thú và cần được nghiên cứu và làm rõ.2. Lịch sửnghiên cứu vấn
đềQuan hệ triều cống giữa Đại Việt với triều Minh trong thế kỉ XV-XVI đã được
đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu trước đây.Năm 1952, Việt Hoa bang giao
sửdo Huyền Quang -Xuân Khôi biên soạn, được Nhà xuất bản Chấn hưng văn hóa
ấn hành là một trong những công trình có giá trị quan trọng. Tác phẩm nghiên cứu
về mối quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc từ
7thế kỉ X về sau. Trong đó, tác giả đi theo trình tự thời gian, qua từng triều đại ở
nước ta và Trung Quốc, nêu những sự kiện bang giao giữa hai nước. Trong thế kỉ
XV –XVI, tác giả đã cung cấp sự kiện và phân tích về bang giao, quan hệ triều
cống giữa Đại Việt và nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nhà Lê sơ và nhà
Mạc với các nội dung liên quan đến đi sứ, tuế cống...Năm 1995, Quan hệ giữa Việt
Nam và Trung Quốc thế kỷ XV –đầu thế kỷ XVIcủa Tạ Ngọc Liễn được xuất bản.
Đây là nghiên cứu quan trọng về quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc
trong khoảng thời gian từ thế kỉ XV đến đầu thế kỉ XVI. Trong đó, tác giả đã phân
tích về quá trình thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với nhà Minh sau năm
1427. Vấn đề triều cống giữa hai nước trong thời kỳ này được nghiên cứu khá kĩ
lưỡng và có những đánh giá tương đối toàn diện.Năm 1996, tác giá Nguyễn Lương
Bích xuất bản cuốn Lược sử ngoại giao Việt Nam các đời trước. Đây là tác phẩm
nghiên cứu chuyên sâu về ngoại giao của Việt Nam trải qua những thời kỳ khác
nhau. Trong mỗi thời kỳ, tác giả lựa chọn những nội dung cơ bản và quan trọng
nhất để tiến hành phân tích và nghiên cứu. Trong thế kỉ XV –XVI, tác giả chủ yếu
phân tích về cuộc đấu tranh ngoại giao trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, trong các
triều đại chỉ đề cập đến một số sự kiện, nội dung tiêu biểu liên quan đến bang giao
giữa Việt Nam và Trung Quốc.Năm 2005, Nguyễn Thế Long công bố nghiên cứu
Bang giao Đại Việtgồm 5 tập. Phần mở đầu tác giả trình bày những nét khái quát
nhất về tầm quan trọng của bang giao như: việc phong vương của các triều đại
phong kiến Việt Nam, nghi thức phong vương, nghi thức đón tiếp sứ thần phương
Bắc, việc cử sứ thần đi cống Bắc triều, đồ cống Bắc triều và lệ cống người vàng,
khen thưởng và kỷ luật với sứ thần, đấu tranh không cho gọi Man di, việc giám sát
các sứ thần nước ngoài... Nội dung chủ yếu của tác phẩm này là trình bày về bang
giao của Việt Nam từ triều Đinh (thế kỉ X) đến triều Nguyễn (1884). Trong đó, tập
3 viết về bang giao Đại Việt dưới thời nhà Lê, Mạc, Lê trung hưng; đề cập đến
những nội dung cơ bản của bang giao Việt Nam –Trung Quốc trong các thế kỉ XVXVI.
8Năm 2007, cuốn Lịch sử Việt Nam thế kỷ XV –XVIdo nhóm tác giả Tạ Ngọc
Liễn, Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Đức Nhuệ, Nguyễn Minh Tường, Vũ Duy
Mền biên soạn là tập III trong bộ Lịch sử Việt Nam gồm 15 tập của Viện Sử học
thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Nội dung được đề cập trong tập sách này là
về lịch sử Việt Nam trong hai thế kỷ XV và XVI, tương ứng với thời kỳ tồn tại của
các triều đại Hồ (1400-1407), Lê sơ (1428-1527), Mạc (1527-1592) và sự nghiệp
trung hưng của nhà Lê. Nội dung cơ bản bao quát toàn bộ quá trình diễn biến lịch
sử từ đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVI trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hoá và mối quan hệ của Việt Nam với các nước khác. Trong đó, có riêng
một phần nói về đường lối trị nước và chính sách đối ngoại của nhà Lê sơ thế kỷ
XV và quan hệ chính trị giữa nhà Mạc và nhà Minh từ 1527-1592.Năm 2013, tác
giả Nguyễn Thị Kiều Trang bảo vệ Luận án Tiến sĩ Lịch sử với đề tài: “Quan hệ
sách phong, triều cống Minh–Đại Việt (1368-1644)’’ tại trường Đại học Sư phạm
Hà Nội. Đây là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ giữa hai nước,
trong đó có vấn đề triều cống. Luận án đã làm rõ các cơ sở về tư tưởng, lợi ích, lịch
sử của quan hệ sách phong, triều cống Minh –Đại Việt; quá trình biến đổi của mối
quan hệ này. Từ đó Luận án rút ra những nhận xét có ý nghĩa quan trọng về mối
quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước. Tuy nghiên, nghiên cứu của tác giả
chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề về đến lý thuyết, và phân tích, luận giải cho
những hiện tượng được đề cập đến mà chưa đi sâu vào những nội dung cụ thể của
hoạt động triều cống. Mặt khác, luận án tiếp cận nghiên cứu từ phía nhà Minh nên
nhiều vấn đề của Đại Việt liên quan đến vấn đề triều cống chưa đượcquan tâm
đúng mức.Những công trình nghiên cứu đi trước đã khái quát hoặc đi sâu nghiên
cứu hoạt động bang giao của Đại Việt và Trung Quốc trong các thế kỉ XV-XVI trên
nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó, vấn đề triều cống giữa hai nước được đề cập
đến thường xuyên như một yếu tố quan trọng góp phần duy trì mối quan hệ vốn có,
phát huy tinh thần hòa hiếu, hòa bình, không gây chiến tranh. Tuy nhiên, đa số các
công trình đó chủ yếu mới chỉ liệt kê những sự kiện, những hoạt động liên quan
đến quan hệ triều cống như một bộ phận của hoạt động bang giao. Do đó, vấn đề
quan hệ triều cống giữa Đại Việt với nhà Minh trong thế kỉ
9XV-XVI cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan
trọng trong mối quan hệ giữa hai nước, đồng thời cần so sánh để thấy được những
khác biệt trong chính sách triều cống của hai triều Lê sơ và Mạc thời kỳ này.3. Đối
tƣợng và phạm vi nghiên cứu3.1.Đối tượng nghiên cứu:Luận văn tiếp cận vấn đề
chủ yếu dưới góc độ sử học, tập trung nghiên cứu quan hệ triều cống giữa Đại Việt
với nhà Minh trong giai đoạn thế kỉ XV-XVI.3.2.Phạm vi nghiên cứu-Vềkhông
gian: giới hạn trong phạm vi lãnh thổĐại Việt dưới hai triều Lê sơ, Mạc và
Trung Quốc (thời nhà Minh).-Vềthời gian: cụthểtừnăm 1428 đến năm 1592,
tương ứng với thời kỳtồn tại của hai vương triều Lê sơ (1428-1527) và Mạc
(1527-1592).4. Mục tiêu nghiên cứuLuận văn hướng tới giải quyết những vấn đề
khoa học cơ bản sau đây:Thứ nhất, trình bày khái quát tình hình bang giao và quan
hệ triều cống giữa Đại Việt với Trung Quốc trước thế kỷ XV, qua đó phân tích
những thành tựu, hạn chế và bài học lịch sử đặt ra đối với hai triều Lê sơ và Mạc.
Thứ hai, làm rõ bối canhtlịch sử của Đại Việt và Trung Quốc trong thế kỉ XV-XVI
và tác động của bối cảnh đó đến quá trình thiết lập và duy trì quan hệ triều cống
giữa hai quốc gia.Thứ ba, tìm hiểu hoạt động bang giao và quan hệ triều cống giữa
Đại Việt với nhà Minh từ năm 1428 đến năm 1592 với những nội dung cụ thể như:
lệ cống và cống phẩm, lộ trình đi sứ, thành phần sứ đoàn, các hoạt động triều
cống...Thứ tư, đưa ra một số nhận xéttrong quan hệ triều cống giữa hai triều Lê sơ,
Mạc với nhà Minh, qua đó khái quát những kinh nghiệm và bài học đối với tiến
trình lịch sử Việt Nam.5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu5.1. Nguồn tư
liệuTrước hết phải kể đến Đại Việt sử ký toàn thưcủa Ngô Sĩ Liên, bắt đầu được
biên soạn từ năm 1479, đến thời Lê -Trịnh tiếp tục được bổ sung và khắc in năm
1697. Đây là
10bộ sử ghi chép lại toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam từ thời Hùng Vương dựng
nước đếncuối thế kỷ XVII. Trong phần ghi chép về hai triều Lê sơ và Mạc (thế kỉ
XV -XVI), các tác giả đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng liên quan đến hoạt
động bang giao của triều đìnhĐại Việt với Trung Hoa, như cầu phong, sách phong,
triều cống, vấn đề biên giới, đón tiếp sứ thần, cử người đi sứ...Đại Việt thông sửdo
Lê Quý Đôn (1726-1784) hoàn thành năm1749, gồm 30 quyển. Đây là bộ sử được
viết theo thể kỷ truyện (chỉ có phần Bản kỷ là chép theo lối biên niên) chép từ thời
vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đến vua Lê Cung Hoàng (theo Phàm lệ của tác giả). Bên
cạnh đó, tác phẩm còn có phần chép riêng về lịch sử triều Mạc với tiêu đề “Phụ
chép về nhà Mạc”, Trong tác phẩm này, Lê Quý Đôn đã ghi chép khá nhiều sự kiện
quan trọng liên quan đến bang giao Đại Việt –Trung Quốc trong giai đoạn thế kỷ
XV-XVI.Lịch triều hiến chương loại chílà một công trình đồ sộ của PhanHuy Chú
(1782-1840), được hoàn thành vào năm 1821. Tác phẩm gồm 49 quyển chia thành
10 chí, gồm: dư địa chí, nhân vật chí, quan chức chí, lễ nghi chí, khoa mục chí,
quốc dụng chí, hình luật chí, binh chế chí, văn tịch chí, khoa mục chí và bang giao
chí. Trong đó, đặc biệt là Bang giao chíđã trực tiếp đề cập đến những vấn đề lịch
sử ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII theo từng
nội dung: điển sách phong, lễ cống và lễ sính, nghi thức tiếp đãi, việc biên cương.
Trong từng nộidung, tác giả ghi chép cụ thể về từng triều đại theo tiến trình thời
gian. Bang giao Đại Việt–Trung Quốc trong các thế kỉ XV-XVI diễn ra chủ yếu
dưới triều Lê sơ và triều Mạc. Trong đó, vấn đề triều cống được ghi chép thành
những sự kiện cụ thể, bao gồm những nội dung rõ ràng về thành phần đi sứ, cống
phẩm, con đường đi sứ....Khâm định Việt sử thông giám cương mụclà công trình
do quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào năm 1856 và hoàn thành sau đó ba
năm (1859). Bộ sử này ghi chép các sự kiện theo lối biên niên, từ thời Hùng
Vương đến trước khi triều Nguyễn được thành lập. Tuy tác phẩm này có sử dụng
lại tư liệu của các bộ sử thời kỳ nước và được ghi chép khá sơ lược (cương mục),
nhưng trong đó có nhiều nội dung quan trọng liên quan đến quan hệ bang giao và
triều cống của Đại Việt với nhà Minh trong giai đoạn thế kỷ XV-XVI.
11Nguồn tư liệu trực tiếp và quan trọng nhất sử dụng trong luận văn này là các thư
tịch cổ của Trung Quốc và Việt Nam. Năm 2010, nhóm tác giả Hồ Bạch Thảo,
Phạm Hoàng Quân đã biên dịch bộMinh thực lục:Quan hệ Trung Quốc –Việt Nam
thế kỉ XIV-XVII, xuất bản thành 3 tập. Đây là một công trình đồ sộ được sử quán
triều Minh biên soạn theo thể biên niên, ghi chép về 13 đời hoàng đế nhà Minh từ
thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII. Trong bộ sử mang tổng hợp này, điều đáng lưu ý là có
những ghi chép khá cụ thể về mối quan hệ giữa nhà Minh với Đại Việt, đặc biệt là
những thông tin trực tiếp liên quan đến hoạt động cầu phong và triều cống. Đó là
những tư liệu trực tiếp và quan trọng nhất để tác giả thực hiệnluận văn này.Ngoài
ra, luận văn còn sử dụng một số nguồn tư liệu khác và tham khảo những công trình
nghiên cứu đi trước của các tác giả ở cả trong và ngoài nước .5.2. Phương pháp
nghiên cứuLuận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu sau đây:Phương pháp lịch
sử:Nhìn nhận quan hệ bang giao và triều cống giữa Đại Việt với nhà Minh trong
giai đoạn thế kỷ XV-XVI, cũng như trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam thời
trung đại; phân tích bối cảnh lịch sử và tác động của bối cảnh đó tới quan hệ triều
cống củaĐại Việt dưới thời Lê sơ và Mạc; luận giải các vấn đề nghiên cứu dưới
góc độ lịch sử.Phương pháp logic: được sử dụng đểphân tích làm sáng rõ những
đặc điểm nổi bật trong quan hệ triều cống Đại Việt –Minh trong thế kỉ XVXVI.Phương pháp thống kê –phântích định lượng: Nhằm tập hợp thông tin, xử lý
các tư liệu đám đông, qua đó rút ra những quy luật vận động và xu thế biến đổi
trong quan hệ triều cống giữa Đại Việt với nhà Minh trong thế kỷ XV-XVI.Bên
cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác, như: phương pháp khảo cứu
và so sánh tài liệu, phương pháp cấu trúc -hệ thống, phương pháp phân tích và tổng
hợp...6. Đóng góp chủyếu của luận văn
12Tái hiện bức tranh toàn cảnh về quan hệ bang giao nói chung, quan hệ triều cống
nói riêng giữa Đại Việt thờiLê, Mạc với nhà Minh ở Trung Quốc trong giai đoạn
thế kỉ XV-XVI.Luận giải có căn cứ những cơ sở, tiền đề và nhân tố tác động đến
việc thiết lập, duy trì mối quan hệ triều cống giữa hai nước,qua đó chứng minh đây
là thời kỳ mà quan hệ triều cống diễn ra thường xuyên, liên tục và có nhiều đặc
điểm đáng chú ý.Cung cấp thêm tư liệu cho việc nghiên cứu mối quan hệ bang
giao giữa hai nước trong thế kỉ XV-XVI nói riêng và trong lịch sử nói chung.Trên
cơ sở nghiên cứu, luận văn bước đầu rút ra một số kinh nghiệm và bài học lịch
sửtrong quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc; góp phần nhận diện rõ
hơn về mối quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn hiện nay.7. Bốcục luận
vănNgoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn bao gồm 3 chương:Chương 1.Sựhình thành quan hệ triều cống giữa Đại
Việt với Trung Quốctronggiai đoạnthế kỉ XV-XVI.Chương 2.Hoạt động triều cống
giữa Đại Việt với Trung Quốctrong giai đoạn thế kỉ XV-XVI.Chương 3.Một vài
nhận xét về quan hệ triều cống Đại Việt –Trung Quốcthế kỉ XV-XVI
13CHƢƠNG 1. SỰHÌNH THÀNH QUAN HỆ TRIỀU CỐNG GIỮA ĐẠI VIỆT
VỚI TRUNG QUỐCTRONG GIAI ĐOẠNTHẾ KỈ XV-XVI1.1.Khái quát vềquan
hệtriều cống giữa Đại Việt với Trung Quốc trƣớc thếkỉXV1.1.1.Giai đoạn trước
thếkỉXIII*Khái niệm “cống’’, “triều cống’’Cống: trong tiếng Hán, từ “cống’’ có
nghĩa là “dâng lên’’, “dâng biếu’’. Khái niệm này được hiểu là hành động của kẻ
dưới dâng quà, tài sản, tiền bạc, phương vật...lên cho bề trê, cấp trên.Triều cống:
khái niệm “triều cống’’ trong tiếng Hán gồm hai từ: “triều’’ chỉ triều đình và
“cống’’ là dâng lên, dâng biếu. Khái niệm này được dùng để chỉ việc một nước nhỏ
đem dâng phẩm vật cho nước lớn, hoặc một nước chư hầu đem dâng phẩm vật lên
nhà vua. Chế độ triều cống gắn với chế độ phân phong thời Tây Chu. Theo đó, vua
các nước chư hầu nhà Chu có nghĩa vụ hàng năm đến chầu và nộp cống cho triều
đình. Đây là nguồn gốc của chế độ triều cống mà sau này các vương triểu phong
kiến Trung Quốc áp dụng với các nước xung quanh.Trung Quốc là quốc gia được
hình thành từ rất sớm, vào khoảng thế kỷ XXI TCN. Ngay từ nhà Hạ, người Hán
đã tự coi mình là dân tộc thượng đẳng, quốc gia mình là trung tâm của vũ trụ, trung
tâm của thiên hạ. Tư tưởng “ngũ phương nhị tằng” sớm hình thành và phát triển
trong giai cấp thống trị Trung Quốc suốt các triều đại phong kiến. Theo tư tưởng
đó, vua của người Hán được coi là Thiên tử (con trời), có nhiều quyền hành, được
mọi người tôn sùng và phục vụ, dưới gầm trời này không đâu không là đất của vua,
tấtcả trên mặt đất không ai không là tôi tớ của vua. Người Trung Quốc coi các dân
tộc xung quanh mình là hạ đẳng, là “nhung”, “di”, “man”, “địch”, là các nướcphiên
thần, chư hầu, có nhiệm vụ thần phục Thiên tử. Theo truyền thuyết và nhiều sử
sách ghi chép lại thì Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ từ thời cổ đại. Tuy nhiên,
quan hệ bang giao chính thức giữa hai nước chỉ được
14thiết lập khi người Việt có chính quyền tự chủ, thoát khỏi ách thống trị của
người Hán. Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê,
Lý đã thiết lập và từng bước tăng cường mối quan hệ với các nước láng giềng,
nhất là với Trung Quốc. Cùng với hoạt động cầu phong, phía Đại Việt còn thực
hiện việc qua lại, thăm hỏi với các triều đại phong kiến Trung Hoa.Lịch triều Hiến
chương loại chíđã ghi chép lại sự kiện vua Đinh sai người sang Trung Quốc:“Đinh
Tiên Hoàng, năm Thái Bình thứ 7 (976) (ngang với năm Khai bảo thứ 9 đời Tống
Thái Tổ), sai Trần Nguyên Thái sang thăm lại (báo sính) nhà Tống [4, tr.217]. Mục
đích của chuyến thăm hỏi này nhằm đáp lại việc nhà Tống sang sách phong cho
vua Đinh. Bên cạnh đó, dưới thời Đinh, chỉ có thêm một sự kiện khác vào năm
977, khi vua Đinh sai sứ sang mừng vua Tống Thái Tông lên ngôi.Từ thế kỉ X đến
trước thế kỉ XIII, các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý đều cử người sang sứ nhà Tống.
Quan hệ giữa hai nước trong khoảng thời gian này chưa được gọi cụ thể là “triều
cống’’ mà ban đầu chỉ dừng lại ở mức đi lại thăm hỏi, tặng quà lẫn nhau giữa hai
quốc gia, trong đó chủ yếu xuất phát từ phía ĐạiViệt. Hoạt động chủ yếu là nhà
Tống sai người sang thăm Đại Việt và Đại Việt cử người sang đáp lễ nhà Tống.
Theo thống kê trong Đại Việt sử ký toàn thư, từ triều Đinh đến triều Lý, phía Đại
Việt đã liên tục cử người sang Trung Quốc để thăm hỏi, tặng quà, mừng lên ngôi,
tạ ơn... Trong đó, dưới triều Đinh, Đại Việt đã hai lần cử sứ giả sang Trung Quốc
thăm hỏi và mừng vua Tống lên ngôi. Dưới triều Tiền Lê, vua Lê cử người sang
thăm nhà Tống vàocác năm 983, 985, 986, 995. Mục đích của những chuyến đi này
là nhằm thông hiếu khi triều đại mới được thành lập, chủ động sang thăm nhà Tống
và sang thăm lại khi vua Tống cử người sang Đại Việt. Dưới triều Lý, hoạt động
qua lại thăm hỏi, tặng quà giữa hai nước có bước chuyển biếnquan trọng. Ngoài
việc vua Lý cử sứ giả sang nhà Tống kết hiếu, thăm hỏi còn diễn ra hoạt động tặng
quà, hiến sản vật. Trong suốt thời kỳ tồn tại của vương triều Lý, Đại Việt đã ba lần
sang kết hiếu với nhà Tống vào các năm 1012, 1026 và 1039; có 5 lần vua Lý cử
người sang thăm và thăm lại nhà Tống vào các năm 1011, 1030, 1064, 1130 và
1164. Ngoài những hoạt động này còn diễn ra thêm những hoạt động khác như cử
người
15sang báo tin thắng trận, đem sản vật sang hiến nhà Tống. Thành phần cống phẩm
được đem đi thường bao gồm ngựa man, voi, tê ngưu đen, tê ngưu trắng, đồ dùng
bằng vàng, bạc... Sự kiện đầu tiên khi nhà Lý sang tặng quà cho nhà Tống là vào
năm 1014: “..tướng của người Man là Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí đem
20 vạn người Man vào cướp, đóng đồn ở bến Kim Hoa, dàn bày quân dinh, gọi là
trại Ngũ Hoa. Châu mục châu Bình Lâm là Hoàng Ân Vĩnh đem việc ấy tâu lên.
Vua sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh, chém được hơn 1 vạn đầu, bắt sống
được quân lính và ngựa không kể xiết. Xuống chiếu cho Viên ngoại lang là Phùng
Chân và Lý Thạc đem một trăm con ngựa Man bắt được sang biếu nhà Tống” [29,
tr.163]. Từ đó về sau, vào những dịp nhất định, vua Lý lại sai người đem voisang
hiến nhà Tống. Lệ cống voi trở thành truyền thống và liên tục được thực hiện. Đến
thời vua Lý Anh Tông, lệ này mới dần giảm bớt và được thay thế bằng việc đem
vàng, bạc, tiền giấy và các loại hương liệu phụ thêm vào do việc cống voi gặp
nhiều khó khăn trên con đường sang nhà Tống.Như vậy, giai đoạn trước thế kỉ
XIII, giữa Đại Việt và Trung Quốc đã có mối qua lại với nhau. Tuy nhiên, hoạt
động tiến cống trong thời gian này chưa được quy định rõ ràng. Mục đích của
những chuyến đi sứ là thăm hỏi, tạ ơn, mừng lên ngôi, báo tin thắng trận... Lễ vật
được mang theo trong những chuyến đi này thườnglà voi, tê ngưu, ngựa, vàng, bạc,
tiền giấy, hương liệu... Những hoạt động này là cơ sở góp phần duy trì mối quan hệ
giữa hai nước và thúc đẩy hoạt động tiến cống giữa Đại Việt với Trung Quốc thời
gian tiếp theo. Nhận xét về hoạt động tiến cống trong thời gian này, Phan Huy Chú
viết: “Từ nhà Lý nhà Lê về trước, tuy ta vẫn thần phục Trung Quốc, nhưng kỳ cống
hiến chưa định hạn năm; chỉ sau khi được sách phong, mới có lễ báo sính (thăm
lại, hoặc khi giao hiếu, khi báo tin thắng trận, thì mới có sứ đi lại). Về số lễ vật, tuy
không khảo xét tường tận, những thấy chép trong sử thì cũng có thể biết đại khái
[4, tr.219].1.1.2.Giai đoạn từthếkỉXIII đến đầu thếkỉXV* Dưới triều Trần:Trong
mối quan hệ với Trung Quốc, Đại Việt thời Trần có sự khác biệt so với các triều đại
trước đó: cùng lúc thực hiện mối quan hệ với Nam Tống và Mông Cổ (sau là nhà
Nguyên). Vào những năm cuối vương triều, triều Trần còn xác lập quan hệ bang
giao với
16nhàMinh. Đối với mỗi vương triều phong kiến Trung Quốc, triều Trần lại có
những chính sách khác nhau trong việc duy trì mối quan hệ, trong đó, vấn đề triều
cống, thăm hỏi cũng có những khác biệt.Với Nam Tống: quan hệ ngoại giao đã
được các triều đại trước của Đại Việt thiết lập và duy trì. Nếu như các triều đại
trước duy trì việc cầu phong, triều cống đều đặn với nhà Tống thì đến triều Trần,
vấn đề triều cống lại không được thực hiện thường xuyên. Phải ba năm sau khi
thiết lập vương triều, tức năm 1229, vua Trần Thái Tông mới sai sứ sang thăm
nước Tống, mục đích của chuyến đi này chỉ là thăm hỏi qua lại giữa hai quốc gia.
Đến năm 1258, nhà Trần tiếp tục sai sứ sang thông hiếu với nhà Tống. Ghi chép về
những chuyến đi sứ của sứ thần triều Trần sang Nam Tống rất hạn chế, chỉ nói
chung chung là sang thăm hỏi hay thông hiếu chứ không nói rõ về vấn đề triều
cống. Triều Trần hầu như không thực hiện triều cống đối với Nam Tống. Sở dĩ có
hiện tượng này là do xuất phát từ nhiều nguyên nhân.Thứ nhất, Nam Tống đang
tập trung toàn bộ lực lượng để đối phó với Mông Cổ nhằm bảo vệ lãnh thổ. Triều
Nam Tống không kiểm soát được vùng biên giới tiếp giáp với Đại Việt nên con
đường thông sứ của Đại Việt với Nam Tống gặp nhiều khó khăn. Thậm chí có
những thời điểm, sứ thần triều Trần phải mất nhiều thời gian để sang đến nhà
Tống, con đường đi sứ trở nên xa xôi và hiểm trở hơn.Thứ hai, Nam Tống đang
đứng trước nguy cơ bị Mông Cổ xâm lược, do lo sợ triều Trần liên minh với Mông
cổ nên triều đình Nam Tống chủ động giữ hòa khí, chủ động phong vương cho vua
Trần mà không đả động gì đến vấn đề triều cống. Mục đích của việc làm này là
nhằm duy trì mối quan hệ giữa hai nước, giảm thiểu nguy cơ triều Trần liên minh
với Mông Cổ chống lại nhà Tống.Chính vì vậy, đối với triều Nam Tống, việc cử sứ
giả sang thăm hỏi và dâng tặng một số vật phẩm của triều Trần là hành động tự
nguyện, không tuân theo bất kỳ một quy định nào và không chịu áp lực từ phía
triều Nam Tống. Hoạt động thăm hỏi giữa hai nước trong thời điểm này mang tính
chất lễ sính hơn là triều cống.Với Mông Cổ (sau là nhà Nguyên): cùng với việc
duy trì mối quan hệ với Nam Tống, triều Trần cũng thiết lập mối quan hệ với nhà
Nguyên. Mặc dù thất bại trong cuộc
17xâm lược Đại Việt năm 1258 nhưng triều đình Mông Cổ cũng nhanh chóng đưa
ra yêusách với triều Trần trong vấn đề triều cống. Vua Mông Cổ sai sứ sang Đại
Việt đòi của dâng hàng năm, tăng thêm vật cống. Ngay sau đó, vua Trần Thái Tông
đã sai sứ sang Mông Cổ. Lịch triều hiến chương loại chí, phần Bang giao chíchép:
“Trần Thái Tông, nămNguyên Phong thứ 8 (1258) (ngang với năm Bảo Hựu thứ 6
nhà Tống), sai sứ sang nước Mông Cổ, sai Lê Phụ Trần làm chánh sứ, Chu Bác làm
phó sứ, định lệ 3 năm một lần’’ [4, tr.219]. Tuy nhiên tại thời điểm này, định lệ
cống 3 năm 1 lần chưa được thống nhất giữa hai nước.Năm 1261, vua Nguyên sai
sứ mang dụ sang Đại Việt. Nội dung tờ dụ có đoạn: “Quân dân nước An Nam,
phàm các việc như áo mũ, lễ nhạc, phong tục đều theo lệ cũ trong nước, không cần
thay đổi; đã nghiêm cấm các tướng ngoài biên không được tự tiệnđem quân sang
cướp bờ cõi, làm nhiễu loạn nhân dân. Nhân dân nước ấy đều nên trị yên như cũ’’
[4, tr.220]. Nhà Nguyên cũng có dụ quy định về việc thực hiện quan hệ triều cống
giữa hai nước, về vấn đề thời gian cũng như thành phần sứ đoàn đi cống: “...dụ cứ
3 năm một kỳ cống, phải tuyển những người nho sĩ, thầy thuốc, thầy số, thầy bói
và các hạng thợ, mỗi hạng ba người, cùng với sản vật như trầm hương, sừng tê,
ngọc trai, đồi mồi, vàng bạc, ngà voi, bát sứ...cùng đem đến cống’’ [4, tr.220]. Sau
khi nhận được tờ dụ, vua Trần Thánh Tông sai Viên ngoại lang Dương An Dưỡng
sang tạ ơn và xin định cống vật. Từ năm 1263, lệ cống 3 năm một lần cống bắt đầu
được thực hiện. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập mối quan hệ
giữa hai nước, nhất là về vấn đề triều cống. Trước kia hoạt động triều cống giữa
Đại Việt và Trung Quốc chưa có quy định rõ ràng, được thực hiện vào những dịp
tùy ý thì nay đến triều Trần đã được hợp thức hóa theo một thể lệ rõ ràng hơn. Mặc
dù lệ cống 3 năm đã được phía nhà Nguyên chấp nhận nhưng trên thực tế, hoạt
động triều cống của triều Trần với nhà Nguyên chỉ được thực hiện ở một số năm
đầu và một số thời điểm nhất định chứ không được duy trì liên tục. Có sự gián
đoạn trong quan hệ triều cống giữa hai nước là do âm mưu và những cuộc chiến
tranh xâm lược mà nhà Nguyên thực hiện với Đại Việt. Sự thất bại của nhà Nguyên
trong chiến tranh xâm lược Đại Việt cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ giữa
hai nước, trong đó có vấn đề triề
cống. Theo thống kê từ chính sử, trong suốt thời Trần, Đại Việt chỉ thực hiện triều
cống với nhà Nguyên vào các năm 1278, 1289, 1292 và năm 1331. Sự kiện cuối
cùng nói về việc triều Trần sang cống nhà Nguyên là vào năm 1331, nhân dịp vua
Nguyên sai sứ sang thông báo việc lên ngôi, vua Trần Hiến Tông sai DoãnTử Trinh
sang sứ. Nội dung của những chuyến đi sứ này không được ghi chép rõ ràng mà
chỉ ghi chung chung là sang tiến cống nhà Nguyên; thành phần sứ đoàn, lễ vật đem
theo, thời gian đi sứ...cũng không được ghi chép cụ thể.Ngoài những chuyến đi sứ
với mục đích triều cống, triều Trần còn cử sứ giả sang nhà Nguyên vào những dịp
vua mới lên ngôi, tạ ơn, sang thăm hỏi...nhằm duy trì mối quan hệ giữa hai
nước.Với nhà Minh: năm 1368, Chu Nguyên Chương lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật
đổ nhà Nguyên, thiết lập triều Minh, mối quan hệ giữa triều Trần với triều Minh
cũng được thiết lập. Trước đó, vào năm 1359, khi cuộc khởi nghĩa của Chu
Nguyên Chương đang diễn ra, nghĩa quân đang cầm cự với Trần Hữu Lượng, Chu
Nguyên Chương đã sai người sang thông hiếu với Đại Việt[4, tr.22]. Đáp lại sự
kiện này, vua Trần Dụ Tông đã sai Lê Kính Phu thông hiếu với Trung Quốc để dò
xét tình hình. Sau khi lên ngôi, Minh Thái Tổ sai Dịch Tế sang thăm. Vua Trần sai
Lễ bộ thị lang Đào Văn Đích sang thăm lại nhà Minh.Như vậy, trong suốt thời gian
tồn tại, triều Trần đã thiết lập và duy trì mối quan hệ với cả nhà Nam Tống,
Nguyên và Minh. Với mỗi triều đại này, triều Trần đều có chính sách khéo léo
trong việc duy trì việc qua lại, thăm hỏi và triều cống. Với sự kiện nhà Nguyên và
triều Trần thống nhất lệ cống ba năm một lần đánh dấu bước phát triển mới trong
quan hệ triều cống giữa hai nước, là cơ sở để những triều đại sau của Đại Việt tiếp
tục duy trì và thực hiện.* Dưới triều Hồ:Năm 1400, Hồ Quý Ly lập ra triều Hồ
(1400-1407), quan hệ với nhà Minh không còn được duy trì như trước. Nguyên
nhân chủ yếu là do triều Hồ lúc này đang phải tập trung vào công cuộc ổn định tình
hình trong nước, giải quyết cuộc khủng hoàng toàn diện
19từ cuối triều Trần. Mặt khác, do phía nhà Minh ngày càng thể hiện rõ âm mưu
xâm lược Đại Việt, tìm mọi cách để hạch sách, đòi hỏi.... Từ đó, việc qua lại thăm
hỏi giữa hai nước không được tiến hành. Sử cũ chỉ ghi chép khái quát một số sự
kiện và nội dung cũng không cụ thể. Sự kiện đầu tiên được nhắc đến là vào năm
1403, vuaMinh sai Ổ Tu sang báo tin vua Minh lên ngôi và đổi niên hiệu. Tuy
nhiên, sử sách sau đó không thấy ghi chép về việc triều Hồ cử người sang chúc
mừng. Dưới thời Hồ Hán Thương, Đại Việt phải liên tiếp đối phó với những đòi
hỏi, sách nhiễu từ phía nhà Minh:“bấy giờ sứ nước Minh đi lại liên tiếp ngoài
đường, có người yêu sách, có người trách hỏi. Hán Thương sai người tùy phương
cứu giải, vất vả việc ứng tiếp’’ [29, tr.440]. Đối với hoạt động triều cống, dưới triều
Hồ duy nhất có một lần Hồ Hán Thương sai Phan Hòa Phổ “đem hai con voi đen
và trắng biếu nước Minh’’[29, tr.441]. Nguyên nhân của việc Hồ Hán Thương sai
người đem đồ sang biếu nước Minh là do trước đây Chiêm Thành đã cống cho Đại
Việt hai con đen và trắng, dâng đất để xin hòa hoãn nhưng lại tâu với vua Minh là
họ Hồ chiếm đất và bắt cống voi. Nhà Minh có cớ để sai sứ sang trách hỏi về vấn
đề này. Ngoài ra, trong suốt triều Hồ không thấy có ghi chép thêm sự kiện nào về
vấn đề triều cống giữa hai nước. Như vậy, quan hệ triều cống giữa Đại Việt với
Trung Quốc đến triều Hồ đã bị gián đoạn, hoạt động thăm hỏi, qua lại không được
thực hiện thường xuyên, hoạt động triều cống không được thực hiện theo lệ ba năm
một kì cống được hình thành từ thời Trần.Từ năm 1406, nhà Minh đẩy mạnh
những hành động xâm lược Đại Việt, đến năm 1407, triều Hồ kháng chiến thất bại,
Đại Việt bước vào thời kì Minh thuộc (1407-1427). Từ đây, quan hệ triều cống
giữa hai nước chấm dứt, thay vào đó là quan hệ thống trị của nhà Minh đối với
nhân dân Đại Việt.1.2.Bối cảnh Đại Việt trong thếkỉXV-XVI1.2.1.Tình hình chính
trị-quân sựDưới ách đô hộ của nhà Minh, nhân dân Đại Việt đã nhiều lần nổi dậy
khởi nghĩa, trong đó tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh
đạo. Sau gần 10 năm (1418-1427) chiến đấu gian khổ, nghĩa quân Lam Sơnđã
giành nhiều chiến thắng quan trọng, gần đi đến thắng lợi cuối cùng. Chính trong
hoàn cảnh đó, ban lãnh đạo của khởi
20nghĩa đã chủ trương dùng biện pháp đàm phán, kết hợp giữa đấu tranh quân sự
với ngoại giao nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh, tránh bớt họa binh đao cho
nhân dân hai nước. Trong những bức thư gửi tướng nhà Minh, Nguyễn Trãi vạch
rõ, nếu việc thương lượng thành công thì mau chóng kết thúc chiến tranh, điều đó
không những có lợi cho nhân dân Đại Việt mà còn có lợi cho nhân dân và quân
lính nhà Minh. Với những lời lẽ sắc bén, khôn ngoan, Nguyễn Trãi đã khẳng định
chủ trương của nghĩa quân là sẵn sàng giảng hòa mở đường cho quân Minh con
đường rút quân trong danh dự, giữ thể diện cho ”thiên triều”. Tuy nhiên, tướng nhà
Minh là Vương Thông luôn giữ thái độ chần chừ, lưỡng lự, lấy cớ chưa có lệnh của
triều đình nên chưa có câu trả lời dứt khoát. Trong những bức thư cuối cùng gửi
cho Vương Thông, Nguyễn Trãi đã phân tích một cách có lý có tình để xóa bỏ
những ngờ vực, lo lắng của Vương Thông. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã đề xuất việc
trao đổi con tin, thậm chí Lê Lợi đã cho con trai mình là Tư Tề cùng tướng Lưu
Nhân Chú vào thành Đông Quan làm con tin với mục đích khiến cho Vương Thông
tin và thực sự đầu hàng. Cuộc đàm phán về việc rút toàn bộ quân Minh về nước đã
thành công và kết thúc bằng một hội thề được tổ chức vào ngày 10-12-1427 tại một
địa điểm ở phía Nam thành Đông Quan. Vương Thông đại diện cho quân Minh
cam kết rút hết quân về nước, bắt đầu từ ngày 29-12-1427.Văn bản hội thề Đông
Quan đã đi vào lịch sử như một bản hiệp định rút quân. Đây là lần đầu tiên trong
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, bằng những thắng lợi về quân sự đập tan ý
chí xâm lược của quân thù, và với một bản hiệp định đã buộc quân xâm lược phải
trịnh trọng dưới hình thức tuyên thệ, tuyên bố rút quân về nước, từ bỏ dã tâm xâm
lược Đại Việt.Như vậy, dù đang giành thế chủ động trong cuộc chiến, liên tiếp
giành những thắng lợi quyết định, đẩy quân Minh vào thế bị động nhưng Lê Lợi và
nghĩa quân Lam Sơn vẫn chủ trương thương lượng với nhà Minh, mong muốn kết
thúc chiến tranh nhanh chóng, sẵn sàng tạo mọi điều kiện để quân Minh rút quân
về nước. Chủ trương nảy của nghĩa quân là một bước đi đúng đắn, khôn khéo trong
thời điểm bấy giờ do nhà Minh vẫn là một trong những triều đại phong kiến lớn
mạnh trong lịch sử Trung Quốc, nên việc thất bại trong chiến tranh giữa là điều
không dễ dàng chấp nhận. Ban lãnh đạo của khởi nghĩa
21Lam Sơn hiểu rõ rằng khi khởi nghĩa giành thắng lợi, việc thiết lập lại và duy trì
mối quan hệ với nhà Minh là tất yếu. Chính vì vậy, việc chủ động thương lượng,
viết thư giảng hòa, nhanh chóng kết thúc chiến tranh mà vẫn giữ được thể diện cho
nhà Minh là cần thiết. Đây là cơ sở quan trọng cho việc tái thiết lập quan hệ với
nhà Minh sau chiến tranh, trong đó có quan hệ triều cống.Sau khi khởi nghĩa Lam
sơn giành thắng lợi, năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thuận
Thiên, lập nên triều Lê sơ (1428-1527). Triều Lê sơ sau khi thành lập phải đối diện
với nhiều khó khăn ở cả trong và ngoài nước. Ở trong nước, tình hình gặp khó
khăn do đất nước trải qua hơn 20 năm sống dưới ách thống trị của nhà Minh, kinh
tế khó khăn, người dân ly tán, chính quyền nhà nước mới thành lập, đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn. Ở bên ngoài, triều Lê sơ gặp khó khăn trong việc thiết lập
lại quan hệ bang giao với nhà Minh do phía nhà Minh vẫncòn tâm lý cay cú vì thất
bại. Việc giải quyết những khó khăn trong và ngoài nước là việc làm cần thiết để
xây dựng một vương triều vững chắc trong thời điểm bấy giờ.Sau khi đánh đuổi
quân Minh ra khỏi lãnh thổ, triều Lê sơ hướng tới xây dựng một mô hìnhnhà nước
tập quyền mới. Nhắc đến thể chế chính trị mới dưới thời Lê sơ phải kể đến công
lao của Lê Thái Tổ và Lê Thánh Tông. Nếu Lê Thái Tổ là người có công thu phục
lại giang sơn, đặt nền móng ban đầu cho việc xây dựng thể chế chính trị mới thì Lê
Thánh Tông chính là người đã hoàn thiện và đưa thiết chế quân chủ tập quyền phát
triển đến đỉnh cao.Ở trung ương, vua Lê Thánh Tông đã tiến hành điều chỉnh lại
các cơ quan quản lý nhà nước và các chức quan liên quan, xoá bỏ một số cơ quan
và chức quan trung gian trong bộ máy nhà nước thời điểm đó. Các chức vụ trung
gian giữa vua và các cơ quan hành chính như Tướng quốc, Bộc xạ, Tư đồ, Đại
hành khiển... đều bị bãi bỏ. Vua trực tiếp chỉ đạo 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình,
Công) do quan Thượng thư đứng đầu. Những bộ này là cơ quan chính phụ trách
mọi mặt của triều đình. Giúp việc cụ thể có 6 tự, Viện Hàn lâm, Viện quốc sử,
Quốc tử giám, Bí thư giám. Với những việc làm trên có thể nhận thấy quyền lực
của đất nước giờ đây tập trung trong tay vua. Nhà vua là người đứng đầu
22đất nước, có quyền lực, nắm mọi quyền hành, giúp việc cho vua có nhiều cơ
quan với chức năng khác nhau. Ở địa phương, tại các đạo Thừa tuyên, vua Lê
Thánh Tông đặt chế độ Tam ty: Đô ty (Đô tổng binh sứ ty, có nhiệm vụ phụ trách
quân đội), Thừa ty (Thừa chínhsứ ty, phụ trách các việc hành chính -dân sự) và
Hiến ty (Hiến sát sứ ty, phụ trách việc thanh tra và giám sát). Dưới đạo Thừa tuyên
là các phủ, đứng đầu là Tri phủ, dưới có huyện, đứng đầu là Tri huyện và châu
đứng đầu là Tri châu. Đơn vị hành chính cấp cơ sở là xã ở đồng bằng và các trang,
sách, động ở miền núi. Ở cấp xã, xã quan được đổi thành xã trưởng. Với các khu
vực miền núi, triều Lê sơ vẫn giao cho các tù trưởng cai quản như trước kia.
Những việc làm này thực hiện theo đúng chủ trương của vua Lê Thánh Tông
nhằm: “đảm bảo sự thống nhất trong chính quyền từ trên xuống dưới, từ trung
ương đến địa phương, các chức lớn nhỏ ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng gìn giữ
nhau, lẽ phải của nước không bị chuyện riêng, việc lớn của nước không đến lung
lay, khiến có thói tốt làm hợp đạo, đúng phép” [32, tr. 321]. Lê Thánh Tông sau khi
lên ngôi đã nhanh chóng chấm dứt tình trạng xung đột cung đình, đặc biệt là mối
hiềm khích, tranh giành lợi ích, quyền lực giữa các phe phái. Ông đã có nhiều nỗ
lực lớn để lập lại kỷ cương đất nước, duy trì sự ổn định chính trị và đẩy mạnh sự
nghiệp phục hưng dân tộc. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông ban hành Hiệu định
quan chếnhằm củng cố chế độ quân chủ tập quyền, khẳng định quyền lực tối cao
của nhà vua. Nhà Việt Nam học người Hàn Quốc là Insun Yu đã nhận xét: “Nếu coi
thiết chế chính trị mà Lê Thánh Tông thiết lập là một hệ thống thì trong hệ thống
đó không một người nào được phép đứng giữa ngai vàng và các quan Thượng thư.
Mọi công việc trong triều đều phải được báo cáo trực tiếp cho nhà vua và phải do
chính nhà vua quyết định’’ [42, tr.304]. Với những việc làm của các vua triều Lê
sơ, nhất là từ đời vua Lê Thánh Tông, chính quyền Lê sơ dã dày công kiến lập và
kiên quyết biến đổi thiết chế chính trị từ chế độ quân chủ quý tộc thời Lý–Trần
sang chế độ quân chủ tập quyền quan liêu.Sau 100 năm tồn tại (1428-1527), triều
Lê Sơ được thay thế bởi nhà Mạc. Năm 1527, Mạc Đăng Dung lên ngôi Hoàng đế,
lấy niên hiệu là Minh Đức, thiết lập vương triều mới trong lịch sử phong kiến Việt
Nam. Triều Mạc mới thành lập nhưng lại gặp
23phải những khó khăn của đất nước trong những năm cuối triều Lê sơ –cuộc
khủng hoảng kéo dài gần hai thập kỉ. Triều Mạc trong những năm đầu đã thi hành
những chính sách nhằm cải thiện tình hình đất nước. Ngay sau khi lên ngôi, Mạc
Đăng Dung đã ra lệnh đại xá thiên hạ, phong tước hiệu cho những người có công.
Triều Mạc vẫn giữ nguyên mô hình thiết chế chính trị và tổ chức bộ máy chính
quyền được xây dựng khá hoàn chỉnh dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497).
Mạc Đăng Dung cũng rất quan tâm đến vấn đề xây dựng và củng cố lực lượng
quân sự. Bên cạnh duy trì Ngũ phủ quân của triều Lê, năm 1528, Mạc Đăng Dung
cho đặt thêm 4 vệ: Hưng Quốc, Chiêu Vũ, Cẩm Y, Kim Ngô. Không những vậy,
triều Mạc còn thi hành chính sách dùng người hợp lí –sử dụng bộ phận quan lại
của vương triều cũ đã chấp nhận sự tồn tại của triều Mạc. Việc sử dụng đội ngũ
quan lại cũ tham gia bộ máy cai trị của vương triều mới là một trong những biện
pháp mềm dẻo và thiết thực của triều Mạc trong buổi đầu tạo dựng chính
quyền.Việc đất nước có độc lập, xây dựng được một bộ máy chính quyền thống
nhất từ trung ương đến địa phương đặt dưới quyền kiểm soát tối cao của Hoàng đế
là cơ sở quan trọng của triều Lê sơ và triều Mạc trong việc thiết lập và duy trì quan
hệ với nhà Minh ở Trung Quốc. Thông qua sự độc lập, tự chủ, Đại Việt hoàn toàn
có cơ sở để duy trì quan hệ triều cống với triều Minh, đồng thời thông qua quan hệ
với nhà Minh để có điều kiện để ổn định tình hình trong nước, từng bước giải
quyết những khó khăn sau chiến tranh, củng cố thể chế nhà nước và bộ máy chính
quyền, khẳng định sự tồn tại của một nhà nước độc lập.Trong quá trình xây dựng
và củng cố chính quyền, quân đội được xem như một phương tiện hữu hiệu để Nhà
nước thực hiện những chủ trương, chính sách đưa ra. Triều Lê sơ cũng rất chú ý
đến việc xây dựng quân đội và quốc phòng. Cùng với cải cách hành chính, quân
đội dưới thời Lê Thánh Tông cũng có nhiều điều chỉnh để phù hợp với tình hình và
phát huy hết khả năng của mình. Quân đội chính quy được chia thành hai bộ phận
chủ yếu: Cấm quân bảo vệ kinh thành, nhà vua và quân ngoài các địa phương.
Quân đội triều Lê sơ được phiên chế thành các lực lượng: bộ binh, thuỷ binh,
tượng binh và kỵ binh, có một đơn vị chuyên sử dụng súng hoả đồng. Năm 1466,
vua Lê Thánh Tông đặt
24quân Ngũ phủ, đứng đầu là Đô đốc phủ. Mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ gồm 5, 6 sở.
Binh chế của triều Lê sơ vào năm 1467, quân ở kinh thành phiên chế thành các ti,
vệ, sở, đội. Số lượng quân đội được quy định rõ ràng: “mỗi ti có 100 người, mỗi vệ
từ 5-6 sở, mỗi sở có 20 đội, mỗi đội có 20 người. Tất cả có 66 ti, 300 sở, 120.000
quân. Quân ngũ phủ có 30 vệ, 154 sở, 61.000 người. Quân địa phương có 27 vệ,
257 sở, 137.000 người. Tổng cộng có khoảng 317.000 người’’ [54, tr.322]. Việc rèn
luyện quân đội đượctổ chức rất chặt chẽ và cẩn thận: “Hàng năm đều có ngày tập
duyệt ở kinh thành hay địa phương. Các phiên túc trực phải thường xuyên luyện
tập. Năm 1465, Lê Thánh Tông ban bố 31 điều quân lệnh về thuỷ trận, 32 điều về
tượng trận, 27 điều về mã trận, 42 điều về bộ trận. Năm 1467, Thánh Tông quy
định cứ 3 năm tổ chức một kỳ thi khảo võ nghệ của quân sĩ và định lệ thưởng phạt”
[54, tr. 322].Khi đã xây dựng được chính quyền nhà nước mạnh, xây dựng được
một đội quân hùng hậu, triều Lê sơ ngày càng khẳng định vịthế của mình trong khu
vực. Ngoài việc duy trì quan hệ với nhà Minh, Đại Việt trong giai đoạn này còn có
mối quan hệ với nhiều quốc gia khác trong khu vực. Bằng sức mạnh của mình,
triều Lê sơ cũng tự thiết lập cho mình một hệ thống phiên thầnriêng bao gồm một
số quốc gia trong khu vực như Ai Lao, Chiêm Thành, Lão Qua... Trong đó Đại Việt
giữ vị thế là quốc gia được các nước khác thực hiện việc triều cống. Đây là cơ sở
để Đại Việt duy trì quan hệ với nhà Minh, trong đó có quan hệ triều cống trong
suốt thời gian dài mà không gặp phải sự gián đoạn. Đại Việt nằm trong hệ thống
triều cống của nhà Minh nhưng có được sự tôn trọng nhất định của nhà Minh vì
bản thân đã tự khẳng định được vị thế của mình, nhà Minh cũng phần nào e dè sự
lớn mạnh của triều Lê sơ trong thế kỉ XV-XVI.1.2.2. Tình hình kinh tếVương triều
Lê sơ thành lập trong bối cảnh tình hình kinh tế đất nước kiệt quệ sau chiến tranh.
Chính sách thống trị của triều Minh và cuộc chiến tranh kéo dài hơn 10 năm đã tàn
phá nghiêm trọng nền kinh tế của Đại Việt vốn đã suy sụp trong những năm cuối
triều Trần. Ngay sau khi đất nước giành lại độc lập, các vua triều Lê sơ đã tiến
hành khôi phục sản xuất, hàn gắn vết thương chiến tranh, tạo điều kiện để nền kinh
tế phục hồi và
25phát triển. Phát triển kinh tế là bệđỡ quan trọng cho việc xây dựng và củng cố
chính quyền.Kinh tế nông nghiệp: Xuất phát từ đặc trưng nền kinh tế Việt Nam chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp nên vấn đề ruộng đất rất được triều Lê sơ quan tâm.
Triều Lê sơ một mặt cho 25 vạn quân về làm ruộng, sử dụng ruộng đất và khôi
phục sản xuất; mặt khác kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê hương, cùng nhau
xây dựng lại xóm làng. Dưới triều Lê sơ, tồn tại 3 hình thái sở hữu ruộng đất:
ruộng đất thuộc sở hữu trực tiếp của nhà nước, ruộng đất công làng xã vàruộng đất
tư hữu. Để phân phối ruộng đất hợp lí, triều Lê sơ đã ban hành hai chính sách quan
trọng là quân điềnvà lộc điền. Hai chính sách này lần đầu tiên được ban hành vào
năm 1428, khi vua Lê Thái Tổ mới lên ngôi nhưng có hiệu quả nhất là từ sau cải
cách của vua Lê Thánh Tông (1460-1497) ). Năm 1477, vua Lê Thánh Tông ban
hành chính sách quân điềnmới, có ý nghĩa quan trọng trong việccủng cốquyền lực
tối cao của nhà nước trong sở hữu ruộng đất. Theo đó, nhà vua chính là chủ sở hữu
ruộng đất lớn nhất, có quyền hạn trong việc phân chia ruộng đất. Đây cũng là biểu
hiện cho sự lớn mạnh của bộ máy nhà nước phong kiến nhà Lê, nhà vua nắm
quyền sở hữu ruộng đất lớn, quyền lực ngày càng được khẳng định.Chính quyền
Lê sơ còn thực hiện hàng loạt các biện phápkhác để phát triển kinh tế nông nghiệp
như khai hoang mở rộng diện tích canh tác, lập đồn điền, chăm lo đê điều, thuỷ lợi;
đào kênh, khơi ngòi; quy định mọi công trình xây dựng cần điều động dân phu;
những khi gặp thiên tai, hạn hán, mất mùa, nhà vua thường miễn giảm tô thuế hay
lập đàn cầu đào... Chính sách trọng nông của nhà nước Lê sơ đã góp phần quan
trọng vào việc phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp sau một thời gian dài
đình đốn. Nông nghiệp có những bước phát triển mạnh mẽ, đời sống nhân dân
được ổn định, ấm no, thực sự có được những kết quả tốt. Qua đó thể hiện tính đúng
đắn của những chính sách phát triển của nhà nước. Nhân dân vẫn thường lưu
truyền về sự thịnh trị, ấm no của Đại Việt dưới triều Lê sơ:“Đời vua Thái Tổ, Thái
TôngThóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”.Kinh tế công thương nghiệp: cùng với
sự phát triển nông nghiệp, kinh tế công thương nghiệp Đại Việt trong thế kỉ XVXVI cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, có tác động
27nước mạnh là cơ sở để triều Lê sơ mở rộng ảnh hưởng của mình ra khu vực;
triều Mạc có điều kiện đối phó với những thế lực chống đối trong nước, củng cố sự
thống trị của vương triều mình. Chính bởi có cơ sở là một nền kinh tế phát triển mà
triều Lê sơ và triều Mạc đã xây dựng được cho mình một chính sách đối ngoại
khéo léo, thiết lập mối quan hệ bang giao thân thiện, thể hiện uy thế của một quốc
gia độc lập với các nước khác, nhất là nhà Minh ở Trung Quốc.1.2.3. Tình hình văn
hóa –tư tưởngCùng với sự phát triển của thể chế nhà nước, sự ổn định về chính trị,
phát triển kinh tế thì những thành tựu văn hóa –tư tưởng cũng là một trong những
yếu tố khẳng định sự phát triển của Đại Việt trong thế kỉ XV-XVI, đồng thời là một
trong những cơ sở thúc đẩy quan hệ giữa Đại Việt với nhà Minh ở Trung Quốc.Là
một nước có chung đường biên giới với Trung Quốc, lại trải qua hơn 1000 năm
Bắc thuộc nên Đại Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc một cách toàn
diện và sâu sắc, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng, tôn giáo. Ngay từ thời Bắc thuộc,
Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đã nhanh chóng được du nhập vào nước ta. Trong
đó, Phật giáo và Nho giáo ngày càng phát triển mạnh mẽ, có chỗ đứng nhất định
trong xã hội. Đại Việt dưới thời Lý và đầu thời Trần lấy Phật giáo làm tôn giáo
chính thống của nhà nước, đưa Phật giáo lên mức cực thịnh từ thế kỉ XI đến thế kỉ
XIII. Bên cạnh Phật giáo, Nho giáo cũng không ngừng phát triển, đến cuối thời
Trần đã dần thay thế vai trò của Phật giáo. Sau khi được thành lập, với mục đích
xây dựng một thiết chế chính trị tập quyền, vương triều Lê sơ chủ trương độc tôn
Nho giáo, lấy Nho giáo làm tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị. Nho giáo
được các vua đầu triều như Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông coi trọng,
nhưng phải đến thời vua Lê Thánh Tông, Nho giáo mới đạt tới đỉnh cao thịnh
vượng. Lê Thánh Tông là người đã đưa Nho giáo lên vị trí hàng đầu trong đời sống
văn hóa tinh thần của thời đại. Đến thời Lê sơ thì “Nho giáo giành được địa vị
thống trị và trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến, Từ đó, chính
quyền phong kiến lấy Nho giáo làm mẫu mực cho việc dựng nước trị dân, làm
khuôn vàng thước ngọc cho việc xây dựng các thiết chế chính trị và xã hội’’ [64,
tr.275-276].
28Việc đưa Nho giáo thành tôn giáo chính thống, làm công cụ tư tưởng của giai
cấp thống trị đồng thời với việc Đại Việt thời Lê sơ chịu ảnh hưởng sâu sắc của nội
dung giáo lý của Nho giáo. Nho giáo ở Đại Việt được truyền bá từ Trung Quốc
sang, chịu ảnh hưởngsâu sắc của Tống Nho. Học thuyết này do các Nho gia thời
Tống tiêu biểu là Hàn Dũ, Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di...xây dựng trên cơ sở
học thuyết của Khổng Tử, Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư. Về mặt triết học, Tống Nho
là một hệ thống lý luận có nhiều yếu tố duytâm. Về mặt chính trị, Tống nho bảo vệ
chế độ quân chủ chuyên chế, bảo vệ trật tự đẳng cấp phong kiến. Nội dung tư
tưởng của Nho giáo rất phong phú, đa dạng nhưng những tư tưởng chi phối trực
tiếp đến quan hệ bang giao, trong đó có quan hệ triều cống giữaĐại Việt với nhà
Minh trong thế kỉ XV-XVI là thuyết “Thiên mệnh’’, “Chính danh’’, “Tam cương’’,
“Ngũ thường’’.Thuyết “Thiên mệnh’’ là một trong những nội dung tư tưởng cơ bản
của Nho giáo thấm đẫm màu sắc duy tâm thần bí. Nho giáo quan niệm rằng trời là
vị chúa tể tối cao, sinh ra vạn vật, kể cả con người. Trời lập ra Hoàng đế để cai trị
dân. Vai trò và quyền lực của Hoàng đế là tuyệt đối. Với quan điểm này, Nho giáo
trở thành chỗ dựa thống trị của giai cấp phong kiến ở cả Trung Quốc và Đại Việt.
Trong quan hệ với nước ngoài, thuyết “Thiên mệnh’’ bảo vệ trật tự quan hệ nước
lớn nước nhỏ. Theo đó, người đứng đầu các nước chư hầu có nghĩa vụ phục tùng
”thiên tử” Trung Hoa. Thấm nhuần Nho giáo, sử dụng Tứ thư, Ngũ kinh, các
vương triều phong kiến Đại Việt cũng chịu sự chi phối của tư tưởng này. Thuyết
“Chính danh’’do Khổng Tử khởi xướng vừa là một tư tưởng triết học vừa là một tư
tưởng chính trị. Xét ở khía cạnh chính trị, thuyết “Chính danh’’ đề cập đến danh,
phận của con người. Thuyết này yêu cầu ai ở cươngvị nào thì phải làm đúng bổn
phận ở cương vị đó và có nhiệm vụ giữ đúng danh, phận. Theo thuyết này, vua
nước chư hầu phải thực hiện bổn phận của mình với vua của thiên triều, trong đó
triều cống là nhiệm vụ rất quan trọng.Thuyết “Tam cương’’ (đạo vua –tôi; cha –
con; chồng –vợ) và “Ngũ thường’’ (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) cũng là nội dung tư
tưởng quan trọng của Nho giáo và là chuẩn mực của Nho gia. Những nội dung này
ngày càng thấm sâu vào tư tưởng của giai cấp thống trị Đại Việt, có tác động không
nhỏ trong việc đưa ra chủ trương xây dựng đất nước và trong mối
29quan hệ với các nước láng giềng. Các thuyết “Tam cương’’ và “Ngũ thường’’ giữ
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chế độ đẳng cấp, bảo vệ trật tự xã hội và chi
phối cả cách hành xử trong quan hệ đối ngoại. Theo đạo vua –tôi thì bề tôi phải
phục tùng nhà vua, chư hầu phải phục tùng thiên triều. Làm trái điều này là không
tuân theo mệnh trời, bị trừng phạt. Một trong những lễ quan trọng của nước chư
hầu với thiên triều là phải thực hiện triều cống theo đúng định kỳ đã được quy
định.Như vậy, với việc chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, lấy Nho
giáo làm tôn giáo chính thống của giai cấp thống trị, các vua triều Lê sơ, sau này là
các vua Mạc đều hiểu rõ vị trí của mình trong hệ thống các nước thiên triều –chư
hầu mà Trung Quốc xây dựng nên. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc đưa ra
những chính sách đối ngoại khéo léo nhằm bảo vệ nền độc lập, tự chủ của dân tộc,
vẫn đảm bảo mối quan hệ tốt đẹp với nhà Minh ở Trung Quốc. Trong đo, quan hệ
triều cống là vấn đề được quan tâm và thực hiện một cách nghiêm túc.Cùng với sự
phát triển của Nho giáo, nền giáo dục và khoa cử Nho học trong thế kỉ XV-XVI
cũng đạt nhiều bước tiến quan trọng.Do chính sách trọng Nho và yêu cầu xây dựng
bộ máy phong kiến quan liêu, nền giáo dục và khoa cử dưới triều Lê sơ khá phát
triển. Ngay từ năm 1428, khi đất nước vừa mới được giải phóng, Lê Lợi đã hạ lệnh
dựng lại Quốc Tử Giám, mở các trường học ở các lộ. Năm 1429, Lê Lợi mở khoa
thi Minh Kinh để khảo sát các bậc quan văn, võ từ tứ phẩm trở xuống và tuyển lựa
nhân tài bổ sung vào bộ máy quan liêu. Trải qua các đời Lê Thái Tông, Lê Nhân
Tông, chế độ thi cử ngày càng được tổ chức đều đặn và có quy củ. Năm 1442, triều
Lê mở khoa thi Hội đầu tiên, lấy 33 người đỗ Tiến sĩ. Dưới thời vua Lê Thánh
Tông, Nhà nước còn bổ sung thêm nhiều điều quy định trong thể lệ thi cử. Ở các
đạo thừa tuyên đều có trường thi Hương, cứ 3 năm Nhà nước mở một kì thi Hương
và năm sau mở khoa thi Hội ở Kinh đô. Trong khoảng gần 100 năm dưới thời Lê
sơ, từ khoa thi Hội đầu tiên năm 1428 đến khoa thi cuối cùng năm 1526, nhà Lê đã
mở được 26 khoa thi, tuyển chọn được 1009 Tiến sĩ. Để khuyến khích việc học tập,
ngoài việc bổ dụng những người đỗ đạt cho làm quan, Lê Thánh Tông còn định lệ
xướng danh, vinh quy. Thời Lê sơ, đặc biệt dưới thời vua Lê Thánh Tông là một
thời kì thịnh đạt của nền giáo dục –khoa cử Việt nam. Riêng 38 năm dưới thời trị vì
của vua Lê Thánh Tông, ông đã tổ chức được 12 khoa thi Hội, lấy 501
30người đỗ Tiến sĩ, trong đó có 10 Trạngnguyên. Dưới thời Lê sơ, có những khoa
thi Hội thu hút hàng ngàn thí sinh dự thi.Dưới thời Mạc, chế độ giáo dục và khoa
cử tiếp tục được chú trọng. Để xây dựng đội ngũ quan lại phục vụ triều đại mình,
dù trong hoàn cảnh chiến tranh, nhà Mạc vẫn đều đặn tổ chức các khoa thi, tổng
cộng là 22 kì thi Hội, lấy đỗ 485 tiến sĩ, trong đó có 13 trạng nguyên.Sự phát triển
của nền giáo dục và khoa cử đã liên tục bổ sung cho bộ máy phong kiến quan liêu
đang phát triển, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước, nâng cao dân trí; đồng thời
cũng sản sinh ra nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà sử học lỗi lạc của dân tộc. Đây cũng
là lực lượng quan trọng tham gia vào hoạt động ngoại giao giữa Đại Việt với Trung
Quốc. Trong các đoàn đi sứ làm nhiệm vụ triều cống, bộ phận quan lại xuất thân
khoa cử có vai trò quan trọng và chiếm số lượng nhiều nhất. Bài văn bia Tiến sĩ
năm Nhâm Tuất (1484) do Đông Các Đại học sĩ Thân Nhân Trung soạn có đoạn:
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao,
nguyên khí suy thì thế nước yếu đuối rồi xuống thấp. Vì vậy các bậc thành đế,
minh vương không ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng
nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho
nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng.’’ [63, tr.65]1.3.Trung Quốc dƣới
thời nhà Minh (thếkỉXV-XVI)1.3.1.Tình hình chính trị-quân sựNăm 1368, Chu
Nguyên Chương lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ nhà Nguyên, lập nên triều Minh
(1368-1644). Triều Minh ở Trung Quốc trongthế kỉ XV-XVI bao gồm các đời vua
từ Minh Thái Tổ (1368-1398) đến Minh Thần Tông (1573-1628). Những tàn dư
của chế độ thống trị nhà Nguyên như tình trạng địa chủ cướp đoạt ruộng đất nông
dân, kinh tế trì trệ không phát triển... gây nhiều cản trở cho sự phát triển của đất
nước. Ngay sau khi thiết lập, những vị vua đầu tiên của triều Minh đã có những
chính sách tích cực nhằm xây dựng một bộ máy nhà nước hùng mạnh và phát triển.
Về bộ máy nhà nước: sau khi giành được chính quyền, Minh Thái Tổ Chu Nguyên
Chương và các vua đầu nhà Minh đã tập trung xây dựng một chính quyền trung
ương tập
31quyền vững mạnh để cai trị đất nước. Trong lịch sử chế độ phong kiến Trung
Quốc, nhà Minh là một chính quyền chuyên chế cao độ với việc tập trung mọi
quyền lực vào tay Hoàng đế và một bộ máy nhà nước được tổ chức chặt chẽ từ
trung ương đến địa phương, với nhiều thay đổi so với các triều đại trước.Đứng đầu
nhà nước là Hoàng đế, tức Thiên tử, có quyền lực vô cùng lớn, quyết định mọi
công việc của đất nước. Giúp việc cho Hoàng đế là hệ thống quan văn, quan võ từ
trung ương đến địa phương, gồm nhiều cơ quan khác nhau. Năm 1380, vua Minh
Thái Tổ bỏ chức Thừa tướng để tập trung mọi quyền hành vàotay Hoàng đế. Địa vị
của lục bộ ( Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) được nâng cao, những cá nhân phụ
trách bộ này chịu trách nhiệm trực tiếp trước Hoàng đế. Tại địa phương, nhà Minh
đặt chế độ Tam ti thừa tuyên, bao gồm: Bố -Đô –Án. Trong đó, Bố chính sứnắm
quyền dân chính, quản lý tiền bạc, lúa gạo; Đô chỉ huy sứnắm quyền quân sự; Án
sát sứnắm quyền hình pháp. Những ti này trực tiếp do triều đình chỉ huy. Ngoài ra
còn đặt Đô sát viện và các giám sát ngự sử để kiểm soát mọi hoạt động trong tổ
chức chínhquyền. Sau khi Minh Thái Tổ qua đời, các vị vua về sau đã tiếp tục củng
cố và tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Minh Thành
Tổ(1402-1424) sau khi lên ngôi đã thực hiện các biện pháp hạn chế sự phát triển
của các thế lực Phiên vương, tập trung quyền lực hành chính địa phương và quân
sự vào tay mình. Đặc biệt, Minh Thành Tổ đã cho thành lập Nội các, tạo điều kiện
để xây dựng một thể chế cơ bản về mặt chính trị của vương triều Minh. Dưới thời
Minh Thành Tổ, Đông Xưởng được thành lập nhằm giám sát và đôn đốc trong nội
bộ. Cẩm Y vệ cùng Đông Xưởng và Tây Xưởng được gọi chung là Xưởng vệ.
Xưởng vệ trở thành công cụ bảo vệ, củng cố quyền lực của các vị Hoàng đế trong
vương triều Minh. Các vua như Minh Tuyên Tông (1425-1435), Minh Anh
Tông(1435-1449)...tiếp tục duy trì bộ máy và các chính sách cai trị từ trước.Việc
xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế là một trong những
nguyên nhân quan trọng góp phần tạo nên thời kỳ thịnh trị của Trung Quốc dưới
triều đại nhà Minh. Một thiết chế chính trị tập quyền cao độ được xây dựng, khẳng
định vai trò, quyền lực tuyệt đối của Hoàng đế. Chính quyền nhà nước mạnh là cơ
sở quan
32trọng góp phần nâng cao thực lực của đất nước sau khoảng thời gian dài dưới sự
thống trị của nhà Nguyên và sau hơn 20 năm chiến tranh liên miên. Từ đó, nhà
Minh trở thành một trong những triều đại hùng mạnh nhất trong lịch sử Trung
Quốc và ảnh hưởng không nhỏ đối với các nước trong khu vực. Nhà Minh có điều
kiện để thi hành chính sách ngoại giao của một nước lớn, muốn phô trương thanh
thế và bành trướng ảnh hưởng của mình đi nhiều nơi.Về quân đội: Lực lượng quân
sự của triều Minh có nguồn gốc từ sự gia tăng về dân số nhanh chóng, xuất phát từ
nền kinh tế nông nghiệp phát triển tương đối mạnh, sản phẩm từ nông nghiệp dồi
dào, tạo điều kiện cho dân sống ổn định. Những chính sách tích cực của vua Minh
Thái Tổ đã tạo điều kiện quan trọng để tăng cường lực lượng quân sự. Minh Thái
Tổ đã ban hành chế độ vệ, sở; tại những trọng trấn quân sự đặt vệ, còn ở những địa
phương kém quan trọng hơn thì đặt sở. Trong đó, mỗi vệkhoảng 5600 người, đứng
đầu là Chỉ huy sứ; 1 vệcai quản 5 Thiên hộ sở, mỗi Thiên hộ sởcó 1120 người,
đứng đầu là Thiên hộ. Mỗi Thiên hộsởtrông nom 10 Bách hộ sở, mỗi Bách hộ
sởcó112 người, đứng đầu là Bách hộ... Trong tổ chức quân đội, vua Minh thiết lập
Ngũ quân Đô đốc phủ, gồm: Tiền quân, Hậu quân, Tả quân, Hữu quân và Trung
quân. Lực lượng quân đội thường trực triều Minh gồm 3 loại: quân trong kinh
(Cấm quân), quân Ngủ phủ và quân Đô ty đặt tại các tỉnh. Năm 1392, Trung Quốc
có khoảng 20 vạn quân trong kinh, gần 100 vạn quân ngũ phủ và quân các đô ty,
tổng cộng là 120 vạn quân [1, tr.153]. Để có thể duy trì một đội quân thường trực
đông đảo như vậy, triều Minh đã thực hiện chính sách chia quân về các vệ sở để
vừa tự túc nuôi thân vừa đóng góp quân lương cho nhà nước, đến khi có chiến sự
được điều động đi, đánh dẹp xong lại trở về đồn điền cày cấy[1, tr.153]. Chủ
trương tổ chức quân đội như vậy đã cho phép nhà Minh huy động tối đa khả năng
của quân sĩ cả trong chiến đấu và sản xuất, rèn luyện khả năng thích ứng với mọi
hoàn cảnh. Nhờ vậy mà tinh thần của quân sĩ dưới triều Minh rất dũng cảm và