Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Áp dụng ẩn dụ ngữ pháp của halliday vào việc phân tích một số kiểu câu tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐÀM THỊ THUÝ

ÁP DỤNG ẨN DỤ NGỮ PHÁP CỦA HALLIDAY
VÀO VIỆC PHÂN TÍCH MỘT SỐ KIỂU CÂU
TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐÀM THỊ THUÝ

ÁP DỤNG ẨN DỤ NGỮ PHÁP CỦA HALLIDAY
VÀO VIỆC PHÂN TÍCH MỘT SỐ KIỂU CÂU
TIẾNG VIỆT

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ học
Mã số: 60220240

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Hồng Dƣơng

Hà Nội - 2015



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 3
1. Lí do chọn đề tài................................................................................ 3
2. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 4
3. Tư liệu nghiên cứu ............................................................................ 4
4. Mục đích nghiên cứu ......................................................................... 4
5. Nhiê ̣m vu ̣ nghiên cứu ........................................................................ 4
6. Phương pháp nghiên cứu và thủ pháp nghiên cứu ............................ 4
7. Ý nghĩa đề tài .................................................................................... 5
8. Bố cục của luận văn .......................................................................... 5
CHƢƠNG 1. ............................................................................................ 6
CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI ....................................................... 6
1.1. Dẫn nhập ........................................................................................ 6
1.2. Sơ lược về ngữ pháp chức năng hệ thống ...................................... 6
1.2.1. Ngữ pháp chức năng hệ thống ................................................ 6
1.2.2. Các siêu chức năng trong ngữ pháp chức năng hệ thống của
Halliday .............................................................................................. 8
1.3. Về khái niệm ẩn dụ ngữ pháp ...................................................... 12
1.4. Về các kiểu câu trong tiếng Việt .................................................. 20
1.5. Tiểu kết......................................................................................... 23
CHƢƠNG 2. .......................................................................................... 24
MÔ HÌNH ẨN DỤ CHUYỂN TÁC TRONG CÂU TIẾNG VIỆT .. 24
2.1. Dẫn nhập ...................................................................................... 24
2.2. Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu ................................................. 24
2.2.1. Các kiểu quá trình ................................................................. 25
2.2.2. Tham thể và chu cảnh ........................................................... 26
2.3. Mô hình ẩn dụ chuyển tác trong câu tiếng Việt ........................... 30
2.4. Cách lập ngôn ẩn dụ ngữ pháp trong tiếng Việt .......................... 33
2.4.1. Danh hóa động từ .................................................................. 36

2.4.2. Danh hóa tính từ .................................................................... 39
2.5. Tiểu kết......................................................................................... 41
MÔ HÌNH ẨN DỤ LIÊN NHÂN TRONG CÂU TIẾNG VIỆT ...... 42
3.1. Dẫn nhập ...................................................................................... 42
3.2. Ẩn dụ thức trong tiếng Việt ......................................................... 42
3.2.1. Câu trần thuật ........................................................................ 44
3.2.2. Câu nghi vấn ......................................................................... 44
3.2.3. Câu cầu khiến ........................................................................ 51
3.2.4. Câu cảm thán ......................................................................... 55
3.3. Vấn đề tình thái ............................................................................ 59
3.3.1. Khái niệm tình thái ................................................................ 59
3.3.2. Một số phương tiện biểu thị tình thái trong tiếng Việt ......... 61

1


3.3.3. Ẩn dụ tình thái ....................................................................... 62
3.4. Tiểu kết......................................................................................... 72
KẾT LUẬN ............................................................................................ 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................. 74
PHỤ LỤC ............................................................................................... 77

2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đã từ lâu, các đề tài về ẩn dụ luôn được các nhà nghiên cứu quan
tâm và khai thác. Mỗi ngành khoa học như triết học, văn học, nhân chủng
học, xã hội học, tâm lí học,… lại tiếp cận lí thuyết ẩn dụ từ một góc nhìn

khác nhau. Đối với ngôn ngữ học, ẩn dụ được nghiên cứu từ bình diện
ngữ nghĩa. Có thể nói rằng, các lí thuyết ngôn ngữ học về ẩn dụ lấy lí
thuyết nghĩa làm nền tảng nghiên cứu. Vì thế, lí thuyết ngữ nghĩa khác
nhau dẫn đến các lí thuyết ẩn dụ khác nhau. Trong đa số các trường phái
ngôn ngữ, ẩn dụ thường được tiếp cận từ bình diện nghĩa từ vựng. Điển
hình như trong bộ khung ngữ pháp tạo sinh, ẩn dụ được giải thích bằng
ngữ nghĩa học thành tố (ẩn dụ được xem là sự chuyển tải các nét nghĩa từ
Phương tiện sang Chủ đề). Ngoài ra, còn có lí thuyết ngữ nghĩa ẩn dụ
dựa trên lí thuyết trường nghĩa (các khía cạnh trường nghĩa của từ hay
ngữ chỉ Phương tiện được chuyển vào từ hay ngữ chỉ Chủ đề). Nhưng
ngôn ngữ học chức năng hệ thống – một đại diện của hướng tiếp cận
ngôn ngữ theo mô hình chức năng đã nghiên cứu ẩn dụ không chỉ ở bình
diện từ vựng. Trong ngôn ngữ học chức năng của Halliday, một khái
niệm ẩn dụ mới về ẩn dụ được xây dựng: ẩn dụ ngữ pháp. Vì sự khác
biệt ấy, hiện nay ở Viê ̣t Nam hiện có rất ít công trình nghiên cứu về vấn
đề này. Vì thế, chúng tôi lựa chọn đề tài “Á p dụng ẩn dụ ngữ pháp của
Halliday vào viê ̣c phân tích một số kiểu câu tiế ng Viê ̣t” cho nghiên cứu
của mình. Từ đó xác đinh
̣ rõ ẩ n du ̣ hoa ̣t đô ̣ng như thế nào và tác đô ̣ng ra
sao trong một số thể loa ̣i văn bản nói chung và trong một số kiểu câu
tiếng Việt nói riêng.
Nghiên cứu về ẩ n du ̣ ngữ pháp giúp chúng ta khẳ ng đinh
̣ rằ ng ẩ n
dụ không chỉ nằm trong khuôn khổ của cấu trúc mang tính so sánh

3

,



không chỉ nằm trong phạm vi ngữ nghiã từ vựng mà còn là vấ n đề ngữ
nghĩa – ngữ pháp và du ̣ng ho ̣c.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là ẩn dụ ngữ pháp trong một
số kiể u câu tiế ng Viê ̣t.
3. Tƣ liệu nghiên cứu
Để thực hiê ̣n đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát một số truyện
ngắ n của c tác giả Nguyễn Nhật Ánh (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Bảy
bước đến mùa hè, Chú bé rắc rối, Phòng trọ ba người, Thiên thần nhỏ
của tôi), và hai cuốn: Truyện ngắn hay 2014, Truyện ngắn đặc sắc 2014
(nhiều tác giả).
4. Mục đích nghiên cƣ́u
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu và làm sáng rõ ẩn dụ
ngữ pháp theo quan niê ̣m của Halliday , cụ thể là tập trung làm nổi bật
các phương thức thể hiện mô hình chuyển tác và mô hình liên nhân trong
tiếng Việt.
5. Nhiêm
̣ vu ̣ nghiên cƣ́u
Nhiê ̣m vu ̣ nghiên cứu của luâ ̣n văn là:
- Tìm hiểu và làm rõ khái niệm ẩn dụ , cụ thể là ẩn dụ ngữ pháp
theo quan điể m của Halliday để làm cơ sở cho viê ̣c nghiên cứu.
- Thu thập tư liệu và phân loại các kiểu quá trình.
- Phân tích các phương thức thể hiện mô hình ẩn dụ chuyển tác và
mô hình ẩn dụ liên nhân của các kiểu câu tiếng Việt.
6. Phƣơng pháp nghiên cƣ́u và thủ pháp nghiên cƣ́u
- Luâ ̣n văn sử du ̣ng phương pháp miêu tả , phương pháp phân tích
ngữ nghĩa ngữ pháp để làm nổi bật các mô hình ẩn dụ ngữ pháp.

4



- Ngoài ra, luận văn còn sử du ̣ng các thủ pháp nghiên cứu như: thủ
pháp thống kê, đó là thố ng kê số lầ n sử du ̣ng các kiể u câu theo quá triǹ h ,
các vị từ tình thái, … trên các nguồn tư liệu nghiên cứu.
7. Ý nghĩa đề tài
- Ý nghĩa lí luận : Kế t quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm
sáng tỏ rằng ẩn dụ ngữ pháp chính là con đường lập ngôn giúp con người
tạo ra những cách biểu hiện ẩn dụ mới, làm cho ngôn ngữ hành chức luôn
số ng đô ̣ng.
- Ý nghĩa thực tiễn : Các kết quả nghiên cứu của đề tài hi vọng
phầ n nào sẽ góp thêm hiể u biế t và cách nhìn nhâ ̣n về ẩ n du ̣ ngữ pháp với
sự hành chức của nó trong mô ̣t số kiể u câu tiế ng Viê ̣t.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyế t liên quan đế n đề tài
Chương 2: Mô hình ẩ n dụ chuyển tác trong câu tiếng Việt
Chương 3: Mô hình ẩn dụ liên nhân trong câu tiếng Việt

5


CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Dẫn nhập
Hiện nay, nghiên cứu về ngôn ngữ học chức năng hệ thống, đặc
biệt là nghiên cứu ngữ pháp chức năng là một hướng nghiên cứu được
nhiều người quan tâm. Lí thuyết chức năng hệ thống có nguồn gốc trực
tiếp từ các công trình nghiên cứu của J.R. Firth (1890-1960), một nhà
ngôn ngữ học nổi tiếng người Anh. Chương 1 của luận văn tập trung đến

các vấn đề lí luận cơ bản của ngữ pháp chức năng hệ thống, trong đó đặc
biệt nhấn mạnh đến nội dung chính của ngữ pháp chức năng và các siêu
chức năng trong ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday, để từ đó xây
dựng cơ sở lí luận cho đề tài, làm định hướng để tiến hành khảo sát thực
tiễn ở các chương tiếp theo.
1.2. Sơ lƣợc về ngữ pháp chức năng hệ thống
1.2.1. Ngữ pháp chức năng hệ thống
Chủ nghĩa chức năng không coi ngôn ngữ như là một tập hợp các
quy tắc mà như là một nguồn lực, một cách thức của hành động, hay một
hành vi xã hội. Nói theo cách nói của Dik (1978), trong chủ nghĩa chức
năng, "nó (ngôn ngữ) được xem như là một công cụ của sự tương tác xã
hội giữa người với người, được sử dụng với mục đích chủ yếu là thiết lập
các mối quan hệ giữa người nói và người nghe". Bình diện này của ngôn
ngữ tạo cơ sở cho một số lí thuyết chức năng như ngữ pháp chức năng
của Dik, ngữ pháp Tagmemic của Kenneth Pike, ngữ pháp về bình diện
câu chức năng (Functional Sentence Perspective) của trường phái ngôn
ngữ học Praha, ngữ pháp chức năng của Hagege Pháp, và nổi bật nhất là
ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday.
Định ngữ “hệ thống” (systemic) trong tên gọi Ngữ pháp chức năng
hệ thống nhấn mạnh đến tính hệ thống của những sự chọn lựa khả dụng

6


(available) ở bất kì thời điểm nào trong một cuộc giao tiếp. Đó là hệ
thống những sự lựa chọn đồng thời về từ vựng-ngữ pháp và ngữ nghĩa
khả dụng để biểu thị nghĩa kinh nghiệm, nghĩa liên nhân và nghĩa văn
bản. Nói cách khác, hệ thống ngôn ngữ, với tư cách là nguồn lực tạo
nghĩa, cung cấp cho chúng ta những sự lựa chọn cần thiết, đảm bảo có
thể biểu đạt các loại nghĩa khác nhau.

Ở Việt Nam, việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt được bắt đầu
muộn hơn nhiều so với việc nghiên cứu các ngôn ngữ khác trên thế giới,
nhưng những thành tựu mà các nhà ngôn ngữ học Việt Nam và các nhà
ngôn ngữ học nước ngoài nghiên cứu tiếng Việt đã đạt được là đáng kể.
Việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt theo quan điểm ngữ pháp chức
năng xuất hiện vào những năm của thập niên 80 của thế kỉ XX qua một
số bài viết mang tính chất giới thiệu như: Giới thiệu lý thuyết phân đoạn
thực tại câu của Lý Toàn Thắng (1981), Vấn đề thành phần câu của
Hoàng Tuệ (1988),... nhưng công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng
Việt theo quan điểm chức năng có hệ thống đầu tiên là sự ra đời của
cuốn sách Tiếng Việt: sơ thảo ngữ pháp chức năng (quyển 1) của Cao
Xuân Hạo (1991). Quan niệm về ngữ pháp chức năng của Cao Xuân Hạo
nhìn chung không khác với quan niệm của các nhà ngữ pháp chức năng
trên thế giới như Dik (1978), Martinet (1975), Givón (1979, 1982). Theo
ông, ngữ pháp chức năng là "một lí thuyết và một hệ thống phương pháp
được xây dựng trên quan điểm coi ngôn ngữ như là một phương tiện
thực hiện sự giao tiếp giữa người với người" [ 11]. "Ngữ pháp chức năng
tự đặt cho mình cái nhiệm vụ nghiên cứu, miêu tả và giải thích các quy
tắc chi phối hoạt động của ngôn ngữ trên các bình diện của mặt hình
thức và mặt nội dung trong mối liên hệ có tính chức năng (trong mối liên
hệ giữa những phương tiện và những mục đích) thông qua việc quan sát
cách sử dụng ngôn ngữ trong những tình huống giao tế hiện thực không

7


phải chỉ để lập những danh sách đơn vị và tiểu hệ thống đơn vị ngôn
ngữ, mà còn để theo dõi cách hành chức của ngôn ngữ qua những biểu
hiện sinh động của nó trong khi được sử dụng" [ 15-16].
Để làm rõ quan điểm chức năng của mình Cao Xuân Hạo viết

"Những quy tắc xây dựng cấu trúc ngôn từ cơ bản - câu - được ngữ pháp
chức năng trình bày và giải thích trên cơ sở những mối liên hệ khăng khít
giữa ngôn ngữ và tư duy trong việc cấu trúc hóa và tuyến tính hóa những sự
tình được phản ánh và trần thuật, trong môi trường tác động của những
nhân tố đa dạng của những tình huống và văn cảnh, dưới sự tham gia của
những mục tiêu hữu thức hay vô thức của người nói dưới sự chi phối của
những công ước cộng tác giữa những người tham dự hội thoại" [ 16].
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về ngữ pháp chức năng
hiện nay ở Việt Nam chưa nhiều.
1.2.2. Các siêu chức năng trong ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday
Theo Halliday, cú (clause) là sự hiện thực hóa đồng thời của các
chức năng kinh nghiệm (một số tác giả như Hoàng Văn Vân gọi là chức
năng tư tưởng/ biểu ý hay siêu chức năng phản ánh), chức năng liên
nhân và chức năng văn bản (hay ngôn bản theo cách gọi của Hoàng Văn
Vân). Tuy nhiên không thể chỉ rõ phần nhỏ này của cú chuyển tải nội
dung ngữ nghĩa này, còn phần khác chuyển tải nội dung ngữ nghĩa khác
bởi vì chúng thường không được thể hiện trong những cấu trúc riêng
biệt, tách rời nhau. Trong một cú (clause) có đến ba bình diện cấu trúc,
mỗi bình diện giải thích một loại ý nghĩa khu biệt. Halliday gọi ba bình
diện này là cú như là một thông điệp (clause as message), cú như là sự
trao đổi (clause as exchange) và cú như là sự thể hiện (clause as
representation).
Halliday nhận thấy ngôn ngữ có ba siêu chức năng, đó là:

8


1.2.2.1. Siêu chức năng kinh nghiệm
Siêu chức năng kinh nghiệm được dùng để truyền tải những thông
tin mới, chia sẻ những nội dung mà người nghe chưa biết. Siêu chức

năng này hiện diện trong việc sử dụng của tất cả các ngôn ngữ, bởi vì
cho dù một người sử dụng bất cứ một ngôn ngữ nào với mục đích gì thì
anh ta cũng phải nói đến các loại kinh nghiệm của anh ta về thế giới.
Siêu chức năng kinh nghiệm kiến tạo và phản ánh kiến tạo của
chúng ta về thế giới, về “hiện thực” (reality), có liên quan đến “trường”
(field) của diễn ngôn. Thế giới kinh nghiệm được thể hiện trong hệ thống
chuyển tác (transitivity system), gồm các kiểu quá trình: vật chất, tinh
thần, quan hệ, hành vi, phát ngôn và hiện hữu. Trên nguyên tắc một quá
trình bao gồm ba thành phần kinh nghiệm: (1) Chính quá trình (process
types), (2) Các tham thể trong quá trình (participant types), (3) Các chu
cảnh liên quan đến quá trình (circumstance types).
Các khái niệm quá trình, tham thể và chu cảnh là những phạm trù
ngữ nghĩa giải thích một cách khái quát nhất các hiện tượng của thế giới
hiện thực được thể hiện trong các cấu trúc của ngôn ngữ như thế nào.
Hệ thống chuyển tác thể hiện siêu chức năng kinh nghiệm được
hiển thị thông qua cấu trúc nghĩa biểu hiện. Theo cấu trúc nghĩa biểu
hiện, câu được phân chia thành: QUÁ TRÌNH + tham thể (bắt buộc) +
cảnh huống (không bắt buộc). Khi phân tích những câu cụ thể chúng ta
dùng những khái niệm cụ thể hơn ứng với từng kiểu quá trình trong hệ
thống chuyển tác như: hành thể (Actor), Cảm thể (Senser), Đương thể
(Carrier), Đích thể (Goal), Tiếp thể (Recipient),...
1.2.2.2. Siêu chức năng liên nhân
Siêu chức năng này thể hiện mối tương tác hai chiều giữa những
đối tượng sử dụng ngôn ngữ. Siêu chức năng liên nhân liên quan đến
không khí (tenor) hay tính tương tác (interactivity) của diễn ngôn. Đến

9


lượt mình, không khí (tenor) hay tính tương tác (interactivity) được diễn

giải qua 3 thành tố là sự thể hiện cá nhân của người nói hay người viết
(speaker/writer personal), khoảng cách xã hội (social distance) và vị thế
xã hội tương đối (relative social status).
Siêu chức năng này được thể hiện thông qua hệ thống THỨC
(Mood system) và hệ thống TÌNH THÁI (Modality system). THỨC chỉ
rõ vai trò mà người nói lựa chọn trong tình huống nói và vai trò mà
người nói ấn định cho người nghe. Chẳng hạn, người nói chọn thức yêu
cầu thì anh ta cho mình vài trò ra lệnh và sắp đặt người nghe vào vị trí
tuân lệnh (ví dụ: Đưa cho tôi cái bút đó!). TÌNH THÁI được định rõ
người nói thể hiện sự đánh giá hoặc nói ra dự đoán của mình (ví dụ:
Cuối tuần sẽ có áp thấp).
Theo cấu trúc thức, câu gồm hai phần: Phần thức (Mood) và Phần
dư (Residue). Theo Halliday, thức là một thành phần cụ thể của câu,
được đưa đi đẩy lại trong một loạt những trao đổi, đẩy sự tranh cãi về
phía trước. Đối với tiếng Anh, thức gồm hai thành phần nhỏ là Chủ ngữ
(Subject) và Hữu định (Finite). Hữu định là một trong số tác tử động từ
biểu đạt thì (tense) như is, has, was hay tình thái can, might, must. Phần
còn lại được Halliday gọi là phần Dư (Residue). Thành phần này bao
gồm ba thành phần chức năng Vị ngữ (Predicator), Bổ ngữ
(Complement) và Phụ ngữ (Adjunct).
Thuật ngữ "Chủ ngữ" mà Halliday sử dụng tương ứng với thuật
ngữ "chủ ngữ ngữ pháp" trước đây, nhưng nó được giải thích theo chức
năng, tức là chủ ngữ được đặt trong bình diện liên nhân. Ví dụ:
I think he will come here, won't he?
Ở ví dụ trên, Chủ ngữ được xác định sẽ là "he", mà không phải
"I". Theo Halliday, Chủ ngữ là thành phần được tạo dựng lại bởi đại từ ở
thành phần đính kèm, thành phần đính kèm ở ví dụ trên là won't he? (có

10



phải (anh ấy) không?). Thông tin chính mà người nói muốn truyền đạt
tới người nghe là "anh ấy có đến đây hay không đến đây" chứ không
phải phụ thuộc vào suy nghĩ anh ấy nghĩ như thế nào.
Ở Việt Nam, Diệp Quang Ban (2005) đã áp dụng mô hình của
Halliday để phân tích câu một cách toàn diện theo ba siêu chức năng.
Ông cho rằng, trong tiếng Việt, động từ không biến hình thì người ta chỉ
có thể nói đến thức của câu: “Thức của câu là giá trị tình thái của các
kiểu câu trong sử dụng” [3, 29]. Cấu trúc thể hiện siêu chức năng liên
nhân, Diệp Quang Ban cho rằng thức của câu tiếng Việt được diễn đạt
bằng những dấu hiệu hình thức (những yếu tố ngôn ngữ) ít nhiều có tính
chất chuyên dụng, với tên gọi là biểu thức thức (mood expressions). Biểu
thức thức của tiếng Việt diễn đạt thái độ của người nói và được làm
thành từ “một số hư từ, một số phụ từ và một số bán thực từ” [3, 29].
1.2.2.3. Siêu chức năng văn bản
Với chức năng này, câu nói được tổ chức như một thông điệp. Siêu
chức năng văn bản sẽ làm cho câu nói hay một đoạn văn bản mạch lạc và
nhất quán, nó được tổ chức một cách rõ ràng. Trong tiếng Anh cũng như
trong nhiều ngôn ngữ khác, câu nói được tổ chức như một thông điệp
bằng việc giao cho một phần của nó một vị thế đặc biệt. Một thành phần
trong câu nói được xác định rõ là thành phần Đề ngữ, thành phần này kết
hợp với thành phần còn lại trong câu để tạo ra một thông điệp.
Đề ngữ là thành phần được dùng làm xuất phát điểm của thông
điệp. Phần còn lại của thông điệp được gọi là Thuyết ngữ. Như vậy, cấu
trúc của một thông điệp sẽ bao gồm một Đề ngữ và một Thuyết ngữ.
Như vậy, có thể nhận thấy các siêu chức năng có các vị thế khác
nhau trong câu và các kiểu cấu trúc tương ứng như sau: siêu chức năng
kinh nghiệm được hiển thị thông qua cấu trúc nghĩa biểu hiện với cấu

11



trúc chức năng tương ứng Tham thể + quá trình + chu cảnh; siêu chức
năng liên nhân tương ứng với vị thế của câu như là sự trao đổi, cùng
cấu trúc chức năng tương ứng Thứ + Phần dư; siêu chức năng văn bản
tương ứng với câu như là thông điệp, và cấu trúc chức năng tương ứng
Đề ngữ + Thuyết ngữ.
1.3. Về khái niệm ẩn dụ ngữ pháp
1.3.1. Khái niệm Ẩn dụ ngữ pháp
Nếu một cái gì đó được cho là ẩn dụ ngữ pháp thì nó phải có tính
ẩn dụ trong mối liên hệ với một cái gì khác. Điều bày thường được thể
hiện như là một mối quan hệ một chiều: một ý nghĩa ẩn dụ nào đó của
một từ có sự tương ứng của một ý nghĩa phi ẩn dụ của một từ khác
không được cho là có "nghĩa đen". Halliday (1985) cho rằng, phép ẩn dụ
không nhất thiết xảy ra ở cấp độ từ vựng mà còn ở cấp độ ngữ pháp,
người ta gọi là phép ẩn dụ ngữ pháp. Tuy nhiên, ở đây chúng ta đang
xem ẩn dụ không phải "từ dưới lên", như là một sự thay đổi về ý nghĩa
của một cách diễn đạt nhất định, mà lại xem nó "từ trên xuống", như là
một sự thay đổi về cách diễn đạt của một ý nghĩa nhất định.
nhìn ‘từ dƣới lên’

nhìn ‘từ trên xuống’
‘many people [protested]’

nghĩa đen

nghĩa ẩn dụ

a moving mass


‘a moving mass of

of water

feeling or rhetoric’

(nhiều ngƣời phản đối)

flood

a large number

a flood

[of protets]

[of protets]

tương thích

ẩn dụ

Ngữ pháp chức năng của Halliday chỉ nghiên cứu một bình diện
là nghĩa, do đó ở đây nghĩa được hiểu chính là chức năng và có ba cấu

12


trúc khác nhau để biểu thị ba loại nghĩa: nghĩa liên nhân, nghĩa kinh
nghiệm và nghĩa văn bản. Theo đó, cấu trúc dùng để biểu thị nghĩa liên

nhân là cấu trúc Thức (Phần thức + Phần dư), cấu trúc để biểu thị nghĩa
kinh nghiệm là Quá trình + Tham thể + Chu cảnh và cấu trúc biểu thị
nghĩa văn bản là Đề + Thuyết. Khi cấu trúc vốn biểu thị loại nghĩa này
được dùng để biểu thị loại nghĩa khác thì ta có ẩn dụ ngữ pháp
(grammatical metaphor).
Có thể thấy rằng, ẩn dụ ngữ pháp khác với ẩn dụ từ vựng. Yếu tố
ngữ nghiã – từ vựng vốn thường được thể hiện bằng một từ, giờ được
thể hiện bằng một từ khác; chính từ khác này lại thể hiện một từ khác
nữa. Loại ẩn dụ này là ẩn dụ từ vựng.
1.3.2. Các loại ẩn dụ ngữ pháp
Halliday đã phân biệt hai loại ẩn dụ ngữ pháp chính:
Có hai loại ẩn dụ ngữ pháp chính trong mệnh đề: ẩn dụ thức (trong
đó bao gồm ẩn dụ tình thái) và ẩn dụ chuyển tác. Xét về mô hình chức
năng ngữ nghĩa, theo thứ tự có ẩn dụ liên nhân và ẩn dụ ý niệm.
(Halliday, 1994). Một số chi tiết cụ thể về hai loại ẩn dụ này sẽ được
thảo luận ở trong phần tiếp theo.
a) Ẩn dụ chuyển tác
Ẩn dụ chuyển tác còn được gọi là ẩn dụ ngữ pháp ý niệm. Sự thay
đổi ngữ pháp giữa các dạng thức đồng dạng và không đồng dạng ở đây
áp dụng các cấu hình chuyển tác và có thể được phân tích về mặt cấu
trúc chức năng của các cấu hình này (Miriam Taverniers, 2002). Nói
cách khác, chức năng ý niệm, với cái mà chúng ta quan tâm đến ở đây, bị
trói buộc một cách chặt chẽ với hệ thống chuyển tác, hệ thống mà cho
phép chúng ta phân tích thế giới của kinh nghiệm của chúng ta thành một
bộ có giới hạn các loại quá trình (vật chất, tinh thầ n, quan hệ, hành vi, vị
từ, tồn tại). Các quá trình này được nhận biết như là cấu hình của các
chức năng chuyển tác, thể hiện quá trình, các tham tố trong sự tình (tình

13



huống), các định ngữ (thuộc tính) được gán vào các tham tố và chu cảnh
gắn liền với quá trình. Các quá trình được nhận biết một cách điển hình
bằng các nhóm động từ; các tham tố (người hành động (hành thể), người
thụ cảm, hiện tượng, vật mang v.v…) thường được gọi là nhóm danh từ;
các định ngữ của tham tố thường được thể hiện bằng các tính từ; và chu
cảnh (bối cảnh) (về thời gian, nơi chốn, cách thức v.v…) nói chung gắn
liền với nhóm động từ hay cụm giới từ. Chúng là các mô hình điển hình
của sự thể hiện về mặt ngữ pháp ngữ nghĩa (cái mà Halliday gọi là các
dạng thức đồng dạng), nhưng những mã hóa (mô hình) ít điển hình hơn
cũng luôn tiềm ẩn sẵn có đối với người sử dụng ngôn ngữ (chẳng hạn
như các dạng thức ẩn dụ). Để minh họa hãy xem xét hai ví dụ sau:
(a)

We walked in the evening along the river to Henley (Chúng

tôi đi bộ vào ban đêm dọc theo bờ sông tới Henley.
(b)

Our evening walk along river took us to Henley. (chuyến đi

bộ vào ban đêm dọc sông đã đưa chúng tôi tới Henley.
Có thể dễ dàng quan sát thấy rằng cả hai mệnh đề (a) và (b) đều
cho phép chúng ta mô tả cùng một sự tình. Tuy nhiên, các thành phần
cấu tạo quá trình trong (a) đã được miêu tả trong một kiểu đồng dạng,
trong khi đó, (b) chứng tỏ sự ưu tiên đối với các thức ẩn dụ của sự diễn
đạt. Do đó, quá trình vật chất walk (đi bộ) được miêu tả bằng một động
từ trong (a), được mã hóa trong (b) với tư cách là một tham tố (Actor,
hành thể) có được sự diễn đạt về từ vựng bằng một danh từ. Hai yếu tố
chu cảnh như thời gian (trong buổi tối) và nơi chốn (dọc sông) lần lượt

trở thành loại từ và tính ngữ của hành thể mới (the new Actor); chu cảnh
về thời gian ở đây được mô tả với tư cách là một danh từ, trong khi đó
yếu tố địa điểm vẫn giữ nguyên là một cụm giới từ (cho dù ở cấp bậc
khác trong mệnh đề). Hành thể của (a) được chia tách thành 2 phần;
phần đầu tiên thực hiện chức năng như một người sở hữu của thực thể
(chuyến đi bộ buổi tối dọc theo sông của chúng tôi), phần thứ 2 thực hiện

14


chức năng như hành thể bị tác động (us- chúng tôi) của một quá trình vật
chất mới được diễn đạt bằng động từ took (đưa). Halliday (1994) đã biện
luận là một phân tích kết hợp nên phù hợp với các yếu tố của các biến
thể ẩn dụ đồng dạng càng nhiều càng tốt để có thể hiểu sự tương phản
trong chức năng ngữ pháp một cách đơn giản hơn; điều này có thể cũng
giúp chúng ta chỉ ra cái xuất hiện đồng thời của ẩn dụ từ vựng và quan
trọng nhất là rút ra kết luận hợp lý vì động cơ mang tính chức năng đối
với việc lựa chọn biến thể ẩn dụ:
“on the fifth day”
Trong ngày thứ 5

“they”
họ

“at the summit”
trong cuộc họp
thượng đỉnh

“arrived”
đã tới nơi


Circumstance:
Chu cảnh

participant:
Tham tố:

circumstance:
chu cảnh

Process:
Quá trình

Time
Thời gian

Actor
Hành thể

Place
Nơi chốn

Materil
Vật chất

Prep.phrase
cụm giới từ

n. group
Prep. Phrase group

verbal
nhóm danh từ nhóm cụm giới từ Vị từ (động từ)

The fifth day
Ngày thứ 5

saw
trông thấy

them
họ

at the summit
tại cuộc họp thượng đỉnh

participant:
tham tố

process
quá trình

participant
tham tố

circumstance
chu cảnh

Senser
Người thụ
cảm


Mental
Thuộc tâm trí

Phenomenon
Hiện tượng

Place
Nơi chốn

n.group
nhóm danh từ

Perception
Tri nhận
Verbal group
Nhóm động từ

n. gruoup
nhóm danh từ

Prep. Phrase
Cụm giới từ

15


Có thể chỉ ra “một chuỗi cách thể hiện ẩn dụ” (Halliday, 1994) khi
xen vào giữa dạng thức ẩn dụ dưới sự phân tích và một sự diễn đạt hoàn
toàn đồng dạng. Halliday đã đưa ra minh họa về một chuỗi như vậy

trong các ví dụ dưới đây (trong số đó (e) là dạng thức đồng dạng nhất):
a.

Các tiến bộ trong công nghệ đang thúc đẩy nhanh việc viết

các chương trình kinh doanh.
b.

Các tiến bộ trong công nghệ đang làm cho việc viết các

chương trình kinh doanh nhanh hơn.
c.

Các tiến bộ trong công nghệ đang cho phép người ta viết

các chương trình kinh doanh nhanh hơn
d.

Bởi vì công nghệ đang được cải tiến, người ta có thể viết

các chương trình kinh doanh nhanh hơn.
e.

Bởi vì công nghệ đang trở lên tốt hơn, người ta có thể viết

các chương trình kinh doanh nhanh hơn
Ẩn dụ ý niệm được thấy trong tất cả các loại diễn ngôn của người
lớn. Tuy nhiên hiếm có sự đồng dạng hoàn toàn và bất đồng dạng hoàn
toàn: “Dường như trong hầu hết các loại diễn ngôn cả dạng nói và dạng
viết, chúng ta có xu hướng thể hiện đâu đó ở giữa hai thái cực này. Cái

gì đó mà hoàn toàn đồng dạng dường như có vẻ có một chút tẻ nhạt;
trong khi đó cái gì đó mà hoàn toàn bất đồng dạng thì thường có vẻ giả
tạo và không tự nhiên.” (Halliday, 1985).
Nói chung, người ta biện luận rằng ngôn ngữ viết có nhiều ẩn dụ
ý niệm hơn diễn ngôn dạng nói. Điều này được cho là có sự khác biệt
chung hơn trong độ phức tạp: ngôn ngữ viết được cho là “có mức độ
dày đặc về từ vựng, trong khi đó ngôn ngữ nói lại có những phức tạp về
mặt ngữ pháp”.
Trong ngôn ngữ viết, các nghĩa từ vựng khác nhau được “đóng”
vào trong một nhóm danh từ đơn lẻ. Đây chính là môi trường mà ở đó
xuất hiện các ẩn dụ ý niệm. Cũng cần phải đề cập đến ở đây là sự giải ẩn

16


dụ hóa: các ẩn dụ về mặt ngữ pháp dần dần mất đi bản chất ẩn dụ của
chúng và trở nên “bị thuần chủng hóa”.
Halliday đưa ra 3 loại ẩn dụ chuyển tác bị thuần chủng hóa trong
tiếng Anh:
(1)

Các cụm từ như: have a bath (tắm), do a dance (khiêu vũ),

make a mistake (mắc lỗi)…Trong những dạng thức này, nghĩa quá trình
được diễn đạt bằng Range (dãy/phạm vi) chứ không phải là động từ.
(2)

Các ví dụ chẳng hạn như she has brown eyes (cô ấy có mắt

màu nâu) (câu này có dạng thức đồng dạng là her eyes are brown- mắt

cô ấy màu nâu) hoặc He has a broken wrist (anh ấy có cổ tay bị gãy)
(dạng thức đồng dạng là his wrist is broken – cổ tay của anh ấy bị gãy)
(3)

Các cách diễn đạt chẳng hạn như: he writes good books –

Anh ấy viết sách hay (dạng thức đồng dạng: He writes books, which are
good – Anh ấy viết sách, các cuốn sách đều hay) hoặc We sell bargains –
chúng tôi bán mặc cả (dạng thức đồng dạng: the thing we sell are cheap
– các thứ mà chúng tôi bán là rẻ)
b) Ẩn dụ ngữ pháp liên nhân
Có hai loại ẩn dụ ngữ pháp liên nhân có thể được phân biệt là ẩn
dụ thức và ẩn dụ tình thái
Các kiểu ẩn dụ tình thái
Sự biến đổi ngữ pháp xuất hiện dựa trên mối quan hệ logic ngữ
nghĩa của sự phóng chiếu. Nói cách khác, sự phóng chiếu có liên quan
khi tình thái được diễn đạt một cách ẩn dụ.
Mệnh đề phóng chiếu có liên quan thường có một từ hoặc một
mệnh đề biểu thị niềm tin, khả năng có thể xảy ra, chắc chắn xảy ra hay
các đặc điểm khác mà liên tưởng tới tình thái.
1. a. I think it’s going to rain (Tôi nghĩ trời sắp mưa)
b. dạng thức đồng dạng: It is probably going to rain (Có thể
trời sắp mưa)

17


2. a. He doesn’t believe it can be proved by statistics (Anh ấy
không tin là có thể chứng minh bằng số liệu)
b. dạng thức đồng dạng: It probably can’t be proved by statistics (Có

lẽ không thể chứng minh bằng số liệu)
Người nói có thể diễn đạt ý kiến của họ bằng các mệnh đề riêng
biệt bằng các cách khác nhau:
It is obvious that… (Rõ ràng là…)
Everyone admits that…(Mọi người đều thừa nhận rằng…)
The conclusion can hardly be avoided that…(Kết luận hầu như
không thể tránh được là…)
Common sense determines that…(Phán đoán theo kinh nghiệm
cho cho thấy/ Theo lẽ thường là…)
You can’t seriouoly doubt that (Bạn không thể thực sự nghi ngờ rằng…)
Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể nói chính xác cái gì đó
là cách diễn đạt ẩn dụ của tình thái và cái gì đó không phải là cách diễn
đạt ẩn dụ của tình thái” (Halliday, 1985) do sự đa dạng rất lớn của các
cách diễn đạt về nghĩa tình thái. Các đặc điểm của các cách diễn đạt ẩn
dụ có thê được nhận biết như sau:
(1) Mệnh đề được diễn đạt trong mệnh đề được phóng chiếu, chứ
không phải là mệnh đề phóng chiếu. Điều này được chỉ ra như sau: đuôi
của câu thể hiện mệnh đề được phóng chiếu như trong câu I think it’s
going to rain, isn’t it (Tôi nghĩ trời sắp mưa, anh nhỉ) (chứ không phải
Don’t I? )
(2) Khi mệnh đề là phủ định, sự phủ định có thể được diễn đạt
trong bản thân chính mệnh đề hoặc trong mệnh đề phóng chiếu:
3.

a. I think Jane doesn’t know (Tôi nghĩ Jane không biết)
b. I don’t think Jane knows (Tôi không nghĩ là Jane biết)

Ẩn dụ thức
Để có thể hiểu khái niệm ẩn dụ liên nhân của thức thì chúng ta cần
phải xem xét cái mà các loại mặc định mã hóa là gì. Xét về thức, Halliday


18


đã phân biệt 3 loại chính của chức năng tương tác: câu nhận định là các
cách diễn đạt mà đưa ra thông tin, câu hỏi là cách diễn đạt để hỏi thông
tin, và câu cầu khiến là cách diễn đạt mà đòi hỏi cái gì đó diễn ra. Mỗi
một loại chức năng này có loại mã hóa ngầm định và chuẩn riêng. Câu
nhận định được mã hóa bằng thức tường thuật, câu hỏi được mã hóa bằng
thức nghi vấn và câu cầu khiến được mã hóa bằng thức mệnh lệnh.
Mối quan hệ đồng dạng giữa thức và chức năng lời nói
Thức nghi vấn → câu hỏi
Thức trần thuật → câu nhận định
Thức mệnh lệnh → câu cầu khiến
Sự nhận biết ẩn dụ và điển hình của các chức năng lời nói trong
các loại thức
Chức năng

Câu nhận định

Câu hỏi

Câu cầu khiến

lời nói
Thức
Trần thuật

I have never let I wonder where You should tell the
you down!


you have been

truth.

Anh sẽ không bao Em phân vân liệu Anh nên nói sự
giờ bỏ rơi em
Nghi vấn

anh đã ở đâu.

Have I ever let Where have you Could you tell me
you down?

Cầu khiến

thật

been?

the truth?

Anh đã bao giờ Anh đã ở đâu?

Anh có thể nói sự thật

bỏ rơi em chưa?

với em được không?


Admit that I have Tell me where Tell me the truth!
never

let

you you have been!

down!
Thừa

Nói cho em biết Nói sự thật với em
nhận

đi, anh đã ở đâu đi!

anh chưa bao giờ
bỏ rơi em.

19

đi!


1.4. Về các kiểu câu trong tiếng Việt
Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa về câu được đưa ra. Câu là
đơn vị cơ bản của lời nói, của ngôn từ, của văn bản (Benveniste, 1961).
Nó là đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng vào việc giao tiếp. Nói cách khác,
câu là ngôn bản (văn bản) nhỏ nhất.
Về phương diện cấu trúc, câu là phạm vi lớn nhất của những mối
quan hệ ngữ pháp chính danh. Tất cả các quan hệ ngữ pháp có thể có

được đều chỉ có trong phạm vi câu. Trong những ngôn từ hay văn bản
gồm hai câu trở lên, giữa câu này với câu kia có thể có nhiều mối quan
hệ về đề tài, về ý tứ, nhưng không thể có những mối quan hệ ngữ pháp.
Có thể nói, câu là đơn vị được cấu tạo bằng những thành tố ngữ pháp,
nhưng nó không thể làm thành tố ngữ pháp trong một đơn vị nào lớn hơn
[dẫn theo Cao Xuân Hạo].
Như vậy, trong hệ thống tôn ti của các đơn vị của ngôn từ làm nên
một văn bản thì câu là đơn vị trung tâm. Nếu không hiểu được cương vị
và cấu trúc của câu, không thể nào hiểu được những đơn vị ngôn từ lớn
hơn, cũng như không hiểu được bất cứ điều gì về những đơn vị nhỏ hơn
cấu tạo nó [Cao Xuân Hạo].
Về phương diện chức năng, câu là "sự thể hiện ngôn ngữ học của
một mệnh đề" (Sapir). Nó là đơn vị mà ngôn ngữ dùng để biểu hiện một
nhận định gồm có một chủ đề được kết hợp với một điều nói về chủ đề đó.
Thậm chí, nhiều tác giả còn nói đến sự có mặt của một chỗ ngừng
ở đầu và ở cuối câu (Harris). Ngoài ra, người ta còn viện đến ngữ điệu.
Ngữ điệu hiểu theo nghĩa là những nét âm điệu bao trùm lên những ngữ
đoạn lớn hơn từ (khác với thanh điệu) được dùng vào những mục đích
ngôn ngữ học trong một số ngôn ngữ - toàn là những ngôn ngữ không có
thanh điệu. Những tác giả nói đến ngữ điệu như một đặc trưng của câu
bao giờ cũng nói rõ nó có giá trị đó trong ngôn ngữ nào. Và ngay trong

20


những ngôn ngữ dùng ngữ điệu để phân biệt câu hỏi với câu khẳng định
chẳng hạn, nghĩa là dùng ngữ điệu để phân biệt loại câu chứ không phải
để phân định biên giới của câu.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu câu theo hướng của ngữ pháp chức
năng đã nhanh chóng được áp dụng trong một số công trình nghiên cứu

về tiếng Việt nói chung, câu tiếng Việt nói riêng. Song chỉ đến khi cuốn
Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng (quyển 1) của Cao Xuân Hạo
ra đời vào năm 1991 thì sự quan tâm đến ngữ pháp chức năng mới phát
triển thành một trào lưu rộng rãi. Nổi bật có một số công trình chuyên
sâu: Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng (Cao Xuân Hạo), Ngữ
pháp chức năng tiếng Việt - Quyển 1 - Câu trong tiếng Việt - Cấu trúc Nghĩa - Công dụng (Hoàng Xuân Tâm - Nguyễn Văn Bằng - Bùi Tất
Tươm - Cao Xuân Hạo (chủ biên)), Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng
Việt mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống (Hoàng Văn Vân), Ngữ
pháp tiếng Việt (Diệp Quang Ban), Câu quan hệ tiếng Việt dưới góc nhìn
của ngữ pháp chức năng (Lê Thị Lan Anh),...
Cuốn sách Ngữ pháp chức năng tiếng Việt - Quyển 1 - Câu trong
tiếng Việt - Cấu trúc - Nghĩa - Công dụng của Cao Xuân Hạo, là công
trình nghiên cứu tiếng Việt trên những quan điểm và phương pháp của
ngữ pháp chức năng, lấy câu làm đơn vị xuất phát. Phát ngôn nhỏ nhất
có thể dùng trong giao tiếp là một câu (thường thì một phát ngôn có thể
gồm nhiều câu). Khi một người nói ra một câu hay một số câu hướng
vào một người nghe cụ thể, trong một tình huống cụ thể, nhằm một mục
đích tác động nhất định, ta có một hành động phát ngôn. Theo Cao Xuân
Hạo, phát ngôn có thể là một câu có tình thái "cầu khiến" hay "mệnh
lệnh", phát ngôn là một câu hỏi (nghi vấn), câu trần thuật,...
Để thực hiện một mục đích phát ngôn, người ta thường dùng một
cấu trúc cú pháp đặc trưng với những phương tiện ngôn ngữ riêng biệt
21


như: tiểu từ, phụ từ, phụ tố, trật tự từ, ngữ điệu, hiện tượng tỉnh lược,
v.v. Nghĩa là có một mối tương quan khá đều đặn giữa hình thức của câu
và mục đích sử dụng nó. Từ đó hình thành nên khái niệm kiểu câu
(sentence type) và những kiểu câu thông dụng nhất thường được nhắc
đến là: câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán [dẫn

theo Bùi Mạnh Hùng]. Như vậy, phân loại câu theo mục đích phát ngôn
gồm có các kiểu câu sau:
Câu nghi vấn: là câu có từ nghi vấn như ai, gì, nào, đâu, mấy,
sao, bao giờ, bao lâu, bao nhiêu; à, ư, hả, chăng, chứ, (có)… không,
(đã)…chưa, v.v. hoặc từ hay nối các vế có mối quan hệ lựa chọn.
Câu cầu khiến: Trên nguyên tắc thì câu cầu khiến không nhất
thiết phải được xác lập thành một kiểu câu riêng. Mục đích sử dụng cầu
khiến có thể đạt được bằng những kiểu câu khác như câu trần thuật hay
câu nghi vấn. Tuy nhiên có lẽ do hành động yêu cầu, đề nghị, ra lệnh là
hành động thường xuyên và quan trọng đến mức mà dường như không
có ngôn ngữ nào trên thế giới thiếu kiểu câu này (J. Sadock & A. Zwicky
1990). Các ngôn ngữ chỉ khác nhau ở dấu hiệu hình thức thể hiện câu
cầu khiến và mức độ rõ rệt của dấu hiệu hình thức đó.
Khác với nhiều ngôn ngữ châu Âu, trong tiếng Việt, dấu hiệu hình
thức của câu cầu khiến không được thể hiện rõ. Trong nhiều trường hợp,
kiểu câu này dễ lẫn với kiểu câu trần thuật. Đó là lí do mà có tác giả
không coi câu cầu khiến là một kiểu câu riêng trong tiếng Việt mà chỉ là
một dạng của câu trần thuật (Cao Xuân Hạo).
Câu cảm thán: Cũng như câu cầu khiến, câu cảm thán trong tiếng
Việt là kiểu câu không có những dấu hiệu hình thức thật rõ để phân biệt
với câu trần thuật. Vì vậy mà nhiều tác giả không tách câu cảm thán
thành một kiểu câu riêng (Cao Xuân Hạo).

22


Trong tiếng Việt có thể coi câu cảm thán là câu có những từ ngữ
như ôi, than ôi, hỡi ơi, chao ơi (ôi), trời ơi; thay, biết bao, xiết
bao. Những từ ngữ cảm thán ôi, than ôi, hỡi ơi, chao ơi (ôi), trời ơi, v.v.
có thể tự tạo thành một câu đặc biệt mà cũng có thể là một bộ phận biệt

lập trong câu và thường đứng ở đầu câu.
Câu trần thuật: được coi là kiểu câu không đánh dấu (unmarked
sentence). Có thể giải thích một cách đơn giản, đó là kiểu câu không có
dấu hiệu hình thức của những kiểu câu khác (câu nghi vấn, câu cầu
khiến, câu cảm thán).
Trong các ngôn ngữ biến đổi hình thái như tiếng Anh, câu trần
thuật có động từ ở hình thái thức trần thuật và chủ ngữ đứng trước động
từ làm vị ngữ. Những dấu hiệu này đều không áp dụng được cho tiếng
Việt, một ngôn ngữ không biến hình và vị trí của hai thành phần chính
trong câu là cố định (ngoại trừ một số trường hợp cá biệt, thành phần thứ
hai có thể đảo lên trước, thường có đánh dấu về tu từ).
1.5. Tiểu kết
Như vậy, ở chương 1 chúng tôi đã trình bày sơ lược về ngôn ngữ
học chức năng hệ thống nói chung và ngữ pháp chức năng nói riêng. Các
hệ thống trong ngữ pháp chức năng của Halliday đóng vai trò quan trọng
trong việc kiến giải các loại nghĩa khác nhau và ngôn ngữ được tổ chức
theo lối siêu chức năng.
Trong chương này chúng tôi đã trình bày các siêu chức năng trong
ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday, gồm: siêu chức năng kinh
nghiệm, siêu chức năng liên nhân và siêu chức năng văn bản. Ba siêu
chức năng này đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai nội dung của
chương 2 và chương 3. Bên cạnh đó, chúng tôi đề cập đến khái niệm ẩn
dụ và ẩn dụ ngữ pháp để làm sáng tỏ hơn cơ sở lí thuyết của đề tài.
Những lí thuyết ở chương này là cơ sở cho những khảo sát cụ thể ở
những chương tiếp theo.

23



×