MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
MỤC LỤC
1
I. MỞ ĐẦU
2
1. Lý do chọn đề tài
2
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu
3
4. Phương pháp nghiên cứu
3
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
III.
4
1. Cơ sở lý luận
4
2. Thực trạng của vấn đề
4
3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
6
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
9
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
11
1. Kết luận
11
2. Kiến nghị
11
I. MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, dạy học Giáo dục công dân là quá trình giáo viên cung
cấp cho học sinh những kỹ năng cơ bản trong cuộc sống để các em có cách ứng xử
phù hợp, tự điều chỉnh hành vi, hình thành và phát triển nhân cách…Nhằm phục vụ
cho việc giáo dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh qua môn học. Giáo dục công
dân là bộ môn mang tính trìu tượng cao vừa rất cụ thể vì kiến thức cơ bản bộ môn
đòi hỏi tính khoa học, chính xác nhưng lại gắn liền với các mối quan hệ ứng xử của
mỗi con người trong cuộc sống hiện tại. Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh
cũng mang tính đặc thù khác với các môn học khác đó là sự kết hợp hài hòa giữa
kiểm tra đánh giá cho điểm và nhận xét thông qua thái độ của học sinh. Giảng dạy
giáo dục công dân ở bậc THCS đặc biệt là lớp 9 cuối cấp, đối tượng học sinh đang
có sự biến chuyển mạnh mẽ về tâm, sinh lý. Đây là giai đoạn giao thoa về nhận
thức vì vậy dạy giáo dục công dân nói chung, giảng dạy phần pháp luật nói riêng
đòi hỏi người dạy phải khéo léo trong việc truyền tải các đơn vị kiến thức pháp luật
đến học sinh để các em tiếp thu một cách chính xác, chủ động, áp dụng tốt vào thực
tế cuộc sống để điều chỉnh hành vi “sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp
luật”.
Qua quá trình thực tế giảng dạy, tiếp thu và triển khai chuyên đề, chấm thi
giáo viên giỏi và tham gia ra đề thi học sinh giỏi giáo dục công dân nhiều năm tôi
thấy môn giáo dục công dân phần pháp luật ở lớp 9 có nhiều phạm trù khó khiến
người dạy và người học lúng túng trong quá trình truyền tải, tiếp nhận và xử lý các
đơn vị kiến thức. Một trong những bài khó nhất nhưng lại rất quan trọng trong
chương trình giáo dục pháp luật đối với học sinh cuối cấp THCS là tiết 19 + 20 bài
12: “Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân”. Sở dĩ đây là phạm trù pháp
luật quan trọng vì nó cung cấp những kiến thức cơ bản Quyền con người về hôn
nhân và gia đình trong pháp luật Việt Nam hiện hành cho đối tượng học sinh “tiền
hôn nhân”, “tiền sinh sản”. Với kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, thời lượng 2
tiết và thực trạng của giáo viên giảng dạy môn GDCD ở trường THCS hiện nay bản
thân tối thấy đa số giáo viên gặp khó khăn trong việc truyền đạt kiến thức, nhất là
khi phân tích khái niệm, nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân trong hôn nhân, giải quyết những tình huống thực tế về hôn
nhân và gia đình ở địa phương giảng dạy…Xuất phát từ thực tế đó qua hai năm
nghiên cứu tìm hiểu và thực nghiệm tôi quyết định chọn đề tài “Một số kiến thức
bổ trợ giúp dạy tốt bài 12 “Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân” môn
Giáo dục công dân lớp 9 ở trường THCS Nga Thái” để cung cấp thêm một số nội
dung kiến thức và bài tập bổ trợ giúp giáo viên GDCD lớp 9 dạy tốt hơn chuẩn mực
pháp luật này.
2. Mục đích nghiên cứu:
Giúp bổ trợ và nâng cao nhận thức cho học sinh kiến thức về hôn nhân và
gia đình, hạn chế nạn tảo hôn. Hiểu rõ hơn tình yêu và giới tính.
2
Hỗ trợ kiến thức và bài tập bổ trợ cho giáo viên dạy GDCD 9, góp phần nâng
cao chất lượng, hoàn thành mục tiêu giáo dục toàn diện trong nhà trường phổ
thông.
Bổ sung thêm những kiến thức mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài được áp dụng cho giáo viên dạy GDCD huyện Nga Sơn và đối tượng
học sinh lớp 9 ở trường THCS Nga Thái với những kiến thức bổ trợ để giáo viên và
học sinh có kiến thức đầy đủ, toàn diện hơn về quyền và nghĩa vụ của công dân
trong hôn nhân theo Pháp luật Viết Nam hiện hành.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp chính: Khảo sát điều tra nắm tình hình thực tế ở địa
phương, và nhà trường, qua đó tìm hiểu cơ sở lý luận..., phân tích các giải pháp,
tổng hợp - so sánh đánh giá kết quả để rút ra bài học kinh nghiệm và đưa ra đề
xuất giúp bài học đạt hiệu quả cao hơn.
3
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận:
Trước hết ta cần hiểu Hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa một nam và một
nữ trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, được Nhà nước thừa nhận, nhằm chung
sống lâu dài và xây dựng một gia đình hòa thuận, hạnh phúc.
Ở Việt Nam, trong lịch sử và hiện tại, gia đình đã luôn được xác định là thiết
chế xã hội rất quan trọng – Tế bào của xã hội. Do vậy, dù ở bất cứ giai đoạn phát
triển nào, chế độ xã hội nào, gia đình luôn được Nhà nước quan tâm tác động bằng
chính sách, điều chỉnh bằng pháp luật. Hôn nhân và gia đình ở Việt Nam phụ thuộc
chặt chẽ vào bản chất của chế độ xã hội qua mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.
Dưới các chế độ cũ (phong kiến, thực dân), quyền con người về hôn nhân và
gia đình được xác định theo giáo lý nho giáo. Do vậy tư tưởng “phụ quyền” và “gia
trưởng” là nguyên tắc chủ đạo trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Quyền được
xác lập và ưu tiên cho người đàn ông: cha, chồng, con trai…, quyền và nghĩa vụ
của người phụ nữ: mẹ, vợ, con gái . . . mang tính phụ thuộc vào lợi ích của người
đàn ông trong gia đình. Mặt khác, quyền về hôn nhân và gia đình trong các chế độ
xã hội này xác định theo nguyên tắc phụ thuộc về thứ bậc “trên dưới”: phụ – tử,
huynh – đệ. Trong đó, quyền của người thuộc bậc dưới cũng phụ thuộc vào lợi ích
của người thuộc bậc trên
Dưới chế độ của Nhà nước ta hiện nay, quyền con người về hôn nhân và gia
đình (quyền kết hôn, ly hôn, nhóm quyền được làm cha, làm mẹ và làm con, quyền
bình đẳng giữa vợ và chồng, quyền đại diện, quyền về nơi cư trú, quyền xác định
họ, tên, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch, quyền về lao động, tư do kinh doanh…) đã trở
thành một trong các quyền cơ bản nhất của cá nhân được pháp luật ghi nhận trong
Hiến pháp, các văn bản luật có liên quan cụ thể nhất là Hiến pháp 1992 và “Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000”. Nguyên tắc cơ bản trong công nhận và bảo đảm
thực thi quyền con người về hôn nhân và gia đình là bình đẳng, không phân biệt đối
xử, kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
* Bài 12: “Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân” ở lớp 9 bậc
THCS chúng ta cần lưu ý những đơn vị kiến thức cơ bản sau:
- Cơ sở quan trọng của hôn nhân.
- Nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân ở Việt Nam:
- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hôn nhân:
+ Độ tuổi kết hôn, điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật.
+ Những trường hợp cấm kết hôn.
+ Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong gia đình
* Bài tập bổ trợ khắc sâu kiến thức.
2. Thực trạng của vấn đề:
2.1. Một số tồn tại trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân
trong hôn nhân ở nước ta hiện nay:
- Trường hợp tảo hôn, cưỡng hôn, ép buộc trong hôn nhân vẫn còn tồn tại ở
4
nông thôn. Một số nơi nhiều cặp vợ chồng không có đăng ký kết hôn, chưa được
pháp luật thừa nhận.
- Phân biệt đối xử giữa con trai và con gái dẫn đến vi phạm chính sách kế
hoạch hóa gia đình.
- Một bộ phận không nhỏ công dân thiếu hiểu biết pháp luật về hôn nhân
- Mặt trái tác động của hội nhập, mạng intenet đến vấn đề hôn nhân
- Một số dân tộc vẫn còn hiện tượng kết hôn trong phạm vi ba đời, cùng
dòng máu về trực hệ.
2.2. Thực trạng công tác dạy và học môn Giáo dục công dân ở bậc THCS
hiện nay:
- Về quản lý chỉ đạo: hiện tại nhiều cấp quản lý chưa thật sự quan tâm đến
môn Giáo dục công dân, vẫn còn coi đó là môn phụ nên chưa tạo điều kiện về tài
liệu cũng như cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy bộ môn.
- Về đội ngũ giáo viên Giáo dục công dân ở bậc THCS: Huyện Nga Sơn nói
chung và trường THCS Nga Thái nói riêng phần lớn được đào tạo thiếu tính
chuyên sâu, đa số là giáo viên cao đẳng sư phạm Văn - Công dân; Sử - Công dân;
Địa - Công dân…trong đó môn GDCD được coi là môn 2 đào tạo theo tỷ lệ 7/3 khi
ra trường giáo viên thường chú trọng chuyên sâu môn thứ nhất nên ít quan tâm đến
môn GDCD vì vậy kiến thức môn GDCD hạn chế, đặc biệt là kiến thức về pháp
luật.
- Việc cập nhật kiến thức pháp luật của giáo viên dạy GDCD còn chậm, đặc
biệt là kiến thức về hôn nhân và gia đình. Đa số giáo viên GDCD khi dạy bài 12 ở
lớp 9 chủ yếu mới truyền đạt lại kiến thức trong sách giáo khoa, chưa phân tích sâu
và giải thích cặn kẽ các đơn vị kiến thức, tình huống pháp luật về hôn nhân dẫn đến
học sinh tiếp thu một cách thụ động, còn mơ hồ quyền và nghĩa vụ của công dân
trong hôn nhân.
- Học sinh lớp 9 cuối cấp thường coi nhẹ môn GDCD vì không tham gia thi
vào THPT, một bộ phận không nhỏ các em thiếu những kiến thức cơ bản về hôn
nhân và gia đình.
2.3. Khảo sát thực trạng dạy và học bài 12 “quyền và nghĩa vụ của công
dân trong hôn nhân”môn GDCD lớp 9.
- Về phía giáo viên: (Số liệu khảo sát năm 2015 qua thanh tra, dự giờ và ý
kiến phản hồi của giáo viên dạy GDCD ở huyện Nga Sơn)
Tổng số GV tham
Dạy khá, tốt
Dạy đạt yêu cầu
Gặp khó khăn
gia khảo sát
SL
%
SL
%
SL
%
32
5
15,6
8
25,1
19
59,3
- Về phía học sinh: (số liệu khảo sát qua kết quả học tập của học sinh lớp 9
trường THCS Nga Thái năm học 2014 2015)
Tổng số HS lớp 9 Hiểu bài khá, tốt
Hiểu bài
Chưa hiểu bài
tham gia khảo sát
SL
%
SL
%
SL
%
129
10
7,7
50
38,8
69
53,5
5
3. Các giải pháp tổ chức thực hiện:
Từ thực trạng trên bản thân là cốt cán bộ môn của huyện tôi đã nghiên cứu
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Luật Hôn nhân gia đình năm 2014(có
hiệu lực từ 01/01/2015), tìm tòi bổ sung những kiến thức cơ bản và đề xuất một số
bài tập bổ trợ nhằm tháo gỡ những khó khăn cho dạy và học chủ đề pháp luật này.
3.1. Một số kiến thức bổ trợ giúp dạy tốt bài 12 “Quyền và nghĩa vụ của
công dân trong hôn nhân” :
3.1.1. Cơ sở quan trọng của hôn nhân:
Tình yêu chân chính là cơ sở quan trọng của hôn nhân. Vấn đề đặt ra ở đây
giáo viên cần làm rõ khái niệm “tình yêu chân chính”: yêu chân thành, không vụ
lợi, sẵn sàng cùng nhau chia sẻ và vượt qua mọi khó khăn thử thách.
3.1.2. Nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân ở Việt Nam:
- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng: từ
cơ sở tình yêu chân chính tự nguyện đi đến hôn nhân, không bị ép buộc, cưỡng
hôn. Vợ chồng bình đẳng, pháp luật cấm chế độ đa thê.
- Nghĩa vụ thực hiện kế hoạch hóa gia đình: giảm sức ép dân số, tránh tình
trạng “trọng nam, khinh nữ” tư tưởng vẫn còn tồn tại trong xã hội ta hiện nay.
3.1.3. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hôn nhân:
- Độ tuổi kết hôn, điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật: ỏ Việt Nam
theo luật định nam đủ từ 20 tuổi trở lên, nữ đủ từ 18 tuổi trở lên (ta cần nói rõ đủ
20 và 18 tuổi trở lên tính theo ngày tháng năm sinh dương lịch, tránh cho học
sinh hiểu nhầm theo cách tính tuổi của nhiều vùng nông thôn miền Bắc: tính tuổi
theo âm lịch = tuổi dương lịch + 1 tuổi “mụ”). Ở đây giáo viên cần giải thích rõ độ
tuổi kết hôn theo luật định là xét về thể chất, tinh thần của con người Việt Nam,
nam từ 20 tuổi, nữ từ 18 tuổi trở lên ở độ tuổi phát triển đầy đủ về thể chất cũng
như trí tuệ, đảm bảo sinh ra những đứa con khỏe mạnh. Riêng độ tuổi kết hôn do
Đoàn thanh niên phát động: nam từ 24 tuổi trở lên, nữ từ 22 tuổi trở lên nhằm vợ
chồng đảm bảo có trình độ học vấn, có công ăn việc làm và ổn định về kinh tế, chín
chắn trong tình yêu, có đủ kiến thức trong việc xây dựng gia đình, nuôi dạy con cái.
Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định được pháp luật thừa nhận nhưng
cũng không nên bỏ qua ý kiến đóng góp đúng đắn của cha mẹ, anh em, bè bạn,
tránh tư tưởng lấy vợ, lấy chồng là việc của đôi nam nữ, không ai có quyền can
thiệp.
Mặt khác quy định độ tuổi kết hôn và điều kiện được pháp luật công nhận,
kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm giảm và
chấm dứt tình trạng tảo hôn, hôn nhân không giá thú vẫn đang diễn ra ở nhiều miền
trên đất nước ta, tình trạng tảo hôn ở nhiều vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc,
vùng xã xôi hẻo lánh hiện tại vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao.
- Những trường hợp cấm kết hôn: chúng ta chủ yếu khai thác sâu các vấn đề:
“giữa những người có dòng máu về trực hệ,; giữa những người có họ trong phạm vi
ba đời”: giáo viên có thể tích hợp kiến thức của bộ môn sinh học để giải thích lý
6
do: kết hôn cận huyết dễ dẫn đến nhiều bi kịch: nhiều bệnh nguy hiểm, suy thoái
giống nòi…( có thể liên hệ trong lịch sử với triều đại nhà Trần, hoặc các cuộc hôn
nhân cận huyết của đồng bào dân tộc vẫn đang diễn ra hiện nay. Giáo viên sử dụng
các bài viết, tranh ảnh phản ánh hậu quả của hôn nhân cận huyết giúp học sinh hiểu
rõ quy định của pháp luật)
Cấm kết hôn: giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; bố chồng với con dâu; mẹ vợ
với con rể; bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; vì nó
trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc Việt Nam (Loạn luân - Trái luân thường
đạo lý).
- Về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong gia đình: cần khẳng định rõ sự
bình đẳng, có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong việc nuôi dạy con cái, sử
dụng tài sản chung, tôn trọng danh dự và nhân phẩm, nghề nghiệp của nhau (cần
phân tích để học sinh có thái độ lên án các hành vi bạo lực gia đình; các hủ tục coi
nhẹ người phụ nữ “đàn ông trên nhà, đàn bà dưới bếp”…hiện nay vẫn còn diễn ra ở
nhiều vùng miền trên đất nước ta.
3.1.4. Một số kiến thức bổ trợ mở rộng về hôn nhân cận huyết và tảo hôn:
* Thông tin:
Hôn nhân cận huyết thống của các dân tộc thiểu số ở nước ta bao gồm các
trường hợp sau: Hôn nhân anh chị em họ chéo (tức hôn nhân con cô con cậu): Con
cô con cậu lấy nhau, có thể là con gái cô lấy con trai cậu, hoặc con gái cậu lấy con
trai cô; Hôn nhân anh chị em họ song song tức hôn nhân con gì – con già và (hôn
nhân con chú – con bác). Một biểu hiện rõ nét của hôn nhân cận huyết thống ở
miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là hôn nhân con cô con cậu. Đây là hình thức
hôn nhân giữa con của anh hoặc em trai với con của chị hoặc em gái.
Hiện tượng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống còn phổ biến ở nhiều vùng,
nhiều dân tộc, đặc biệt là một số dân tộc vùng cao, vùng sâu như Lô Lô, Hà Nhì,
Phù Lá, Chứt, Ê đê, Chu Ru. Đặc biệt là các dân tộc Si La (Điện Biên, Lai Châu),
Lô Lô, Pu Péo (Hà Giang), Rơ Mân, Brâu (Kon Tum) là những dân tộc dưới 1.000
dân đang có nguy cơ suy giảm do tình trạng hôn nhân cận huyết. Trường hợp hôn
nhân con cô con cậu xảy ra khá phổ biến trong cộng đồng người Lô Lô. Cứ 50
trường hợp kết hôn thì có 12 trường hợp kết hôn là con cô, con cậu. Tại thị trấn
Mèo Vạc (huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang) có 50 hộ thì có 8 trường hợp kết hôn
con cô, con cậu; xã Hồng Trị năm 2005 trong 12 trường hợp kết hôn thì có tới 8
trường hợp là quan hệ hôn nhân con cô con cậu. Theo tập tục, người Brâu dù có họ
trong 3 đời, nhưng khi ưng nhau thì có thể làm lễ cưới. Họ lí giải “nếu lấy người
khác thì của cải bị chia sẻ…
* Hậu quả:
- Hôn nhân cận huyết: Thực tế y học đã chứng minh hôn nhân cận huyết
thống là cơ sở cho những gen lặn bệnh lý tương đồng ở những ông bố, bà mẹ kết
hợp với nhau và kết quả là dù khoẻ mạnh, họ vẫn có thể sinh ra con dị dạng hoặc
bệnh di truyền như mù màu (không phân biệt được màu đỏ và màu xanh), bạch
7
tạng, da vảy cá, đặc biệt là bệnh tan máu bẩm sinh (Thalassemia) mở đầu cho cuộc
sống tàn phế suốt đời… Rất dễ mắc phải những bệnh về tim mạch. Đặc biệt là bệnh
tim bẩm sinh. Con bị dị tật như: câm, điếc, vẹo đầu, mù…Bệnh Down, bạch tạng
hoặc da bị vảy cá…Sức đề kháng kém và sinh lực yếu. Kém phát triển về chiều cao
và cận năng. Nhiều trường hợp bị thiểu năng, trí tuệ không phát triển.
- Tảo hôn: Người tảo hôn: Lấy nhau nhưng không có hạnh phúc, do sự ép
buộc của gia đình, lại còn nhỏ không hiểu hết những trách nhiệm và bổn phận của
mình trong hôn nhân... Gia đình: Sẽ phải nuôi gia đình trẻ vì chưa đi làm kiếm tiền
được, có kiếm được thì không đủ để trang trải cho gia đình... Cộng đồng: những
đưa con sinh ra sẽ ảnh hưởng bởi lối sống và suy nghĩ của cha mẹ, sẽ dẫn tới những
vụ tảo hôn tiếp theo, chưa kể không hợp nhau sẽ bỏ nhau, coi thường tình yêu và
hôn nhân...
3.2. Các bài tập bổ trợ giúp học sinh khắc sâu bài học:
3.2.1: Bài tập:
Bài tập 1:
Học xong cao đẳng, trong thời gian chờ việc làm chị H bị bố mẹ ép lấy anh T
con một gia đình khá giả làng bên. Sau 5 năm chung sống chị sinh được hai con
gái, từ đó anh T thường tụ tập rượu chè, về nhà anh lấy cớ vợ sinh toàn
con gái để chửi bới, đánh đập vợ, con.
Nhận xét của em về việc làm của bố mẹ chị H và anh T chồng chị?
Bài tập 2:
Sau khi sinh đứa con đầu và thứ hai đều là gái, vợ chồng anh Bình đã đẻ
thêm đứa con thứ ba là trai. Kể từ khi có con trai anh chị đã dành hết tình yêu
thương, chăm sóc cho câu con trai, ít quan tâm đến hai cô con gái.
Nhận xét của em về việc làm của vợ chồng anh Bình?
Bài tập 3:
Anh Hải còn 2 tháng nữa tròn 20 tuổi, chị Hoa 19 tuổi. hai người yêu nhau
sâu sắc. Được sự nhất trí của hai bên gia đình họ quyết định tổ chức đám cưới.
Hôn nhân của họ có được Pháp luật thừa nhận không? Vì sao?
Bài tập 4:
Chị Lan (20 tuổi) là con nuôi gia đình bác Ba. Chị và anh Đức (24 tuổi) con
trai bác Ba yêu nhau sâu sắc, hai người đã quyết định đi tới đăng ký kết hôn.
Cuộc hôn nhân của họ có được pháp luật thừa nhận không vì sao?
3.2.2. Hướng dẫn giải bài tập:
Bài tập 1: Trong bài tập này ta cần chú ý đến cơ sở của hôn nhân, quyền và
nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình và những quy định của pháp luật nước ta
để phân tích lý giải. Dưới đây là nội dung cụ thể:
* Việc làm của bố mẹ chị H và anh T chồng chị là trái quy định của pháp
luật: bố mẹ chị H ép gả con là không tuân thủ theo nguyên tắc của chế độ hôn
8
nhân, đây là cuộc hôn nhân không tự nguyện, không được xây dựng trên cơ sở tình
yêu chân chính.
* Việc làm của anh T chồng chị H trái quy định của pháp luật:
- Vợ chồng không bình đẳng, không tôn trọng danh dự và nhân phẩm của vợ.
- Phân biệt đối xử giữa con trai và con gái.
- Bạo hành gia đình.
Bài tập 2: Ở bài tập giáo viên cần hướng dẫn học sinh vận dụng quyền và
nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình và những nguyên tắc cơ bản của chế độ
hôn nhân ở Việt Nam để lí giải:
* Việc làm của vợ chồng anh Bình là trái quy định của pháp luật:
- Phân biệt đối xử giữa các con (Khoản 5 điều 2 Hiến pháp 1992: Nhà nước
và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con
gái…)
- Vợ chồng anh Bình vi phạm (không thực hiện) chính sách dân số và kế
hoạch hóa gia đình: mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con (gia đình anh sinh con thứ 3)
Bài tập 3: Yêu cầu vận dụng Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn
nhân để giải quyết bài tập:
* Hiện tại hôn nhân của hai người chưa được pháp luật thừa nhận vì anh Hải
chưa đủ tuổi kết hôn theo luật định: nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới
dược đăng ký kết hôn. Hiện tại Anh Hải chưa đủ 20 tuổi.
* Hai người yêu nhau sâu sắc và được sự đồng ý của hai bên gia đình nên
phải đợi 2 tháng nữa anh Hải mới đủ tuổi kết hôn theo luật định (đủ 20 tuổi) và
được cơ quan có thẩm quyền cấp đăng ký kết hôn.
Bài tập 4: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức Điều 4,
Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (phần tư liệu tham khảo trong SGK)
và qyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân để giải quyết bài tập:
* Cuộc hôn nhân của hai người được pháp luật thừa nhận vì không vi phạm
vào các trường hợp cấm kết hôn:
- Hôn nhân của họ được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính, tự nguyện,
bình đẳng
- Anh Đức và chị Lan đã đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật (anh
Tuấn đã 24 tuổi, chị Lan 20 tuổi)
- Tuy là anh em nhưng hai người không có quan hệ dòng máu, trực hệ;
không có họ hàng trong phạm vi 3 đời (chị Lan là con nuôi của gia đình bác Ba)
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau hai năm nghiên cứu, triển khai và thực hiện đối với giáo viên dạy GDCD
trên địa bàn huyện Nga Sơn thông qua công tác công tác thanh tra, dự giờ, lấy ý
kiến phản hồi và học sinh qua hai năm thi học sinh giỏi huyện, thi khảo sát chất
lượng học kỳ II khi gặp những đơn vị kiến thức về “quyền và nghĩa vụ của công
dân trong hôn nhân” học sinh lớp 9 trong cụm thi đua tôi thấy kết quả thật là khả
quan. Tỷ lệ giáo viên gặp khó khăn trong việc triển khai bài dạy giảm hẳn xuống, tỷ
9
lệ học sinh hiểu bài và giải quyết tốt các bài tập của chuẩn mực pháp luật “quyền
và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân” tăng lên rõ rệt. Bản thân người dạy và
người học hiểu rõ được cơ sở, nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ của công dân trong
hôn nhân. Các em đã hiểu rõ được tác hại của hôn nhân cận huyết và tảo hôn, có kỹ
năng giải quyết tốt các tình huống pháp luật về Quyền và nghĩa vụ của công dân
trong hôn nhân,
Số liệu khảo sát thực tế vào tháng 4 năm 2016 như sau:
4.1. Về phía giáo viên: (Số liệu khảo sát tháng 4 năm 2016 qua thanh tra, dự
giờ và ý kiến phản hồi của giáo viên dạy GDCD ở huyện Nga Sơn)
Tổng số GV tham
Dạy khá, tốt
Dạy đạt yêu cầu
Gặp khó khăn
gia khảo sát
SL
%
SL
%
SL
%
32
17
53,2
15
46,8
0
0,0
4.2. Về phía học sinh: (số liệu khảo sát qua kết quả học tập của học sinh lớp
9 trường THCS Nga Thái năm học 2015 – 2016, sau khi thực hiện đề tài )
Tổng số HS lớp 9 Hiểu bài khá, tốt
Hiểu bài
Chưa hiểu bài
tham gia khảo sát
SL
%
SL
%
SL
%
129
70
54,3
51
39,5
8
6,2
10
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:
Trên cơ sở những kiến thức cơ bản về Quyền và nghĩa vụ của công dân trong
hôn nhân, trong đề tài đã mở rộng, phân tích nhằm giúp người dạy và người học
hiểu rõ hơn những quy định của pháp luật nước ta về hôn nhân. Mặt khác trong đề
tài đã cung cấp thêm hệ thống bài tập bổ trợ nhằm tăng khả năng vận dụng kiến
thức bài học để nhận xét, đánh giá các tình huống thực tế liên quan đến Luật Hôn
nhân và gia đình. Với kết quả kiểm nghiệm trong thực tế, mong muốn của bản thân
tôi sáng kiến có thể được áp dụng rộng rãi trong thực tế giảng dạy bài 12 môn giáo
dục công dân lớp 9, góp thêm một đơn vị kiến thức để tháo gỡ những khó khăn đối
với giáo viên dạy GDCD nói chung và giáo viên dạy GDCD lớp 9 nói riêng trong
công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay.
2. Đề xuất:
Để chất lượng giảng dạy phần pháp luật trong bộ môn GDCD ngày được
nâng lên bản thân tôi mong muốn Phòng giáo dục cần phát huy tốt vai trò của cụm
chuyên môn để nâng cao chất lượng giảng dạy phần pháp luật.
PGD&ĐT và SGD&ĐT cần có kế hoạch giới thiệu và cung ứng những tài
liệu quan trọng như các văn bản luật, dưới luật để giúp giáo viên dạy GDCD cập
nhật kịp thời những kiến thức mới về pháp luật để môn GDCD luôn gắn liền với
thực tế cuộc sống xã hội hiện tại.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Nga Sơn, ngày 14 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Nghiêm Đức Hữu
11