Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

DẤU ẤN TRIỀU LÝ TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.34 KB, 35 trang )

DẤU ẤN TRIỀU LÝ TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC

Lời mở đầu
“Thăng Long phi chiến địa
Bao đời qua thấm thía
Chỉ đúng nghĩa ở Lý triều
Mãi vọng về triều Lý”.
Dân tộc ta, đất nước ta trải qua mấy nghìn năm lịch sử, tổ tiên ta đã đổ
biết bao mồ hôi, nước mắt và xương máu để dựng nước và giữ. Từ các vương
triều Ngô, Đinh, Tiền Lê đã giành lại nền độc lập và bước đầu xây dựng một
đất nước tự chủ, song chưa duy trì và phát triển nền tự chủ được bền lâu.
Cho đến khi nhà Lý được lập nên (1009-1225), đất nước bước sang một thời
kì mới - Thời kì tự chủ và phát triển cực thịnh với biết bao trang sử chói lọi
làm vẻ vang dân tộc ta. Để có được một đất nước như vậy, nhà Lý đã có
những đường lối đúng đắn phát triển đất nước, chúng ta không thể phủ nhận
những công lao to lớn ấy.
Chính vì vậy, là con dân của một dân tộc anh hùng, ai ai cũng cần phải
hiểu lịch sử và những công lao của nhà Lý đối với dân tộc ta. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Góp phần vào việc nghiên cứu về triều Lý, bài viết này sẽ giúp mọi
người khái quát về lịch sử hình thành và công lao của nhà Lý đối với dân
tộc, qua đó phần nào giáo dục lòng tự hào và hun đút truyền thông lịch sử
hàng nghìn năm của cha ông cho mỗi con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ
trẻ.

1


2




BỐ CỤC
1. Khái quát về sự thành lập của vương triều Lý.
2. Một số công lao của nhà Lý đối với quốc gia và dân tộc.
3. Lý Thái Tổ và Chiếu dời đô.
4. Tổng kết
5. Một số hình ảnh minh họa.

3


NỘI DUNG
1. Khái quát về sự thành lập vương triều Lý:
Sau khi vua Lê Đại Hành (tức Lê Hoàn) mất đi, trong nội bộ nhà Tiền
Lê xảy ra nhiều biến loạn. Các hoàng tử tranh giành ngôi vị, không ai chịu
nhường ai đánh nhau 7 tháng liền, đến khi con trai thứ ba của vua Lê Đại
Hành là Thái tử Lê Long Việt lên ngôi (tức vua Lê Trung Tông) được 3 ngày
thì bị em trai là Lê Long Đĩnh giết chết lúc 23 tuổi (983-1005).
Lê long Đĩnh cướp ngôi của anh trai và lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là
Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng Đế vẫn đóng đô ở Hoa Lư.
Lê Long Đĩnh làm những điều càn rỡ giết vua cướp ngôi, lại ăn chơi xa
đọa và hoan dâm vô độ làm cho trăm họ căm phẫn. Chính vì vậy mà Ông
mắc phải căn bệnh trĩ, lúc thiết triều phải nằm (tục gọi là Lê Ngọa Triều).
Lê Ngọa Triều làm vua được 4 năm (1005-1009) thì mất, con trai tên là
Sạ còn bé. Bấy giờ trong triều đều nhất mực suy tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý
Công Uẩn lên ngôi Hoàng Đế vào đầu năm Canh Tuất (1010), đặt niên hiệu
Thuận Thiên, vẫn lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư( sau này
kinh đô của nhà Lý là Thăng Long và quốc hiệu là Đại Việt). Nhà Lý được
thành lập.

Nhà Lý tồn tại 216 năm (1009-1225) trải qua 9 đời vua: Lý Thái Tổ, Lý
Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, Lý
Huệ Tông và vị vua Lý Chiêu Hoàng. Các ông vua nhà Lý, đặc biệt là 4 vị
vua đầu tiên của triều Lý đã góp phần to lớn vào việc đưa đất nước phát triển
hưng thịnh và yên bình.
Nhà Lý ra đời đã đặt nền móng quan trọng cho dân tộc Đại Việt suốt
hàng nghìn năm lịch sử.
Một số sự kiện tiêu biểu:

4


- Mùa thu tháng 7/1010, Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại
La và sau đó đổi thành Thăng Long.
- Năm 1054, Vua Lý Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt.
- Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu tại kinh đô Thăng Long
- Năm 1076, nhà Lý cho mở trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng
Long, là trường học cao cấp đầu tiên ở nước ta.
- Năm 1075-1077, nhà Lý tổ chức kháng chiến chống quân xâm lược
nhà Tống và đã giành thắng lợi vang dội trên sông Như Nguyệt.
2. Một số công lao của nhà Lý đối với quốc gia và dân tộc.
Mỗi vương triều trong lịch sử dân tộc đều có những công lao to lớn đối
với quốc gia. Nếu như các vương triều từ Ngô, Đinh, Tiền Lê đã có công
giành lại được nền độc lập cho dân tộc và ban đầu đặt nền móng xây dựng
nền tự chủ dân tộc, thì nhà Lý với sự ra đời trong thời kì đất nước rơi vào
khủng hoảng và suy thoái trầm trọng, đã có những đóng góp to lớn cho việc
khôi phục và đưa đất nước phát triển bền vững, hưng thịnh trong suốt giai
đoạn tồn tại của mình. Trên đây có thể kể ra một số công lao tiêu biểu của
triều Lý đối với dân tộc ta.
* Đổi mới đế đô:

Từ thời Tiền Lý ( tức thời vua Lý Nam Đế) đã chọn vùng đất Hoa Lư
(Ninh Bình) làm kinh đô của nước Vạn Xuân, sau này nhà Đinh và nhà Tiền
Lê cũng chọn Hoa Lư làm kinh đô của mình. Tuy vậy, sự tồn tại của các
vương triều trên rất ngắn ngủi, phải chăng Hoa Lư không phải là nơi thích
hợp để làm kinh đô cho muôn đời ?
Đến thời Lý, khi mới lên ngôi vua Lý Thái Tổ đã nhận thấy được việc
chọn nơi làm kinh đô là rất quan trọng vì nó liên quan đến vận mệnh của đất

5


nước. Trong khi đó, Hoa Lư đã là kinh đô của các triều đại trước, có địa hình
hiểm trở và mang tính phòng thủ cao đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình
trong buổi đầu dựng nước. Tuy nhiên, trong thời kì đất nước còn đang suy
thoái và khủng hoàng, nhà Lý mới được thành lập chưa vững, thì yêu cầu cần
thiết lúc bây giờ là cần có một chỗ rộng lớn hơn để có điều kiện thuận lợi
phát triển đất nước và định cư muôn đời.
Mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ đã quyết định chọn thành Đại La là
kinh đô cũ do Cao Biền xây dựng nằm ven sông Tô Lịch, làm kinh đô mới
cho vương triều Lý: "…Thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương ở vào nơi
trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, đúng vị trí các hướng nam
bắc đông tây, rất tiện cho sự nhìn sông dựa núi; địa thế vừa rộng vừa bằng
phẳng, đất đai lại cao và thoáng; dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt,
muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Ngắm khắp nước Việt ta, chỉ có
nơi đây là "thắng địa". Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất
nước, xứng đáng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời" (Trích
"Chiếu dời đô" của vua Lý Công Uẩn).
Đây là một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước chuyển mình của vận
mệnh dân tộc. Sự phát triển không ngừng của Đại La - Thăng Long - Hà Nội
hơn 1000 năm lịch sử đã minh chứng sự đúng đắn và sáng suốt cho quyết

định dời đô của vua Lý Công Uẩn.
* Đưa phật giáo phát triển cực thịnh.
Phật giáo tồn tại ở Việt Nam ngay những năm đầu công nguyên, tuy
nhiên sự phát triển của phật giáo chủ yếu là trong bộ phận tầng lớp nhân dân
và đôi lúc vị trí của nó trong xã hội bị giảm đi đáng kể trong thời gian 1000
năm đô hộ của phong kiến phương Bắc.
Trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, phật giáo đã phần nào khôi
phục lại vị trí của nó trong xã hội phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, vào thời

6


gian này phật giáo chưa thực sự phát triển mạnh mẽ vì còn xảy nhiều biến
loạn làm cho đất nước rơi vào khủng hoảng. Mãi cho đến khi nhà Lý được
thành lập, vai trò và vị trí của phật giáo mới được khẳng định.
Dưới thời Lý, phật giáo giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, nó
được giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng vào việc ổn định trật tự xã hội,
phát triển chế độ phong kiến, dựng nước và giữ nước. Các ông vua Nhà Lý
đều rất tôn sùng phật giáo, bằng chứng là thời kì này hệ thống chùa chiềng,
tháp của phật giáo được xây dựng nhiều như chùa Diên Hựu (chùa Một Cột),
chùa Phật Tích...ngày nay, chúng trở thành những di sản văn hóa mang giá trị
của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng và học thuyết của nhà Phật được các vua, quan nhà Lý sử
dụng trong việc trị nước: đại xá thuế khóa cho nhân dân, ân xá cho kẻ tù tội,
gần gũi với nhân dân... Đặc biệt là 4 đời vua đầu tiên từ Lý Thái Tổ đến đời
vua Lý Nhân Tông đã có những chính sách khoan dung, độ lượng với nhân
dân: Sách “Việt sử lược” ghi lại lời nói nhân đức của vua Lý Thánh Tông.
Gặp tiết đại hàn nhà vua bảo các quan tả hữu rằng: “Trẫm ở trong thâm
cung sửi lò than quế, mặc áo hổ cừu, thế mà khí lạnh còn ghê gớm đến thế.
Huống chi những người bị giam cầm trong ngục, khổ sở vì gông cùm, ngay

gian chưa định rõ, bụng không đủ cơm no, áo không kín thân thể, mỗi khi
gặp cơn gió bấc thổi, há chẳng là vô tội mà chết oan ư ? Trẫm rất lấy làm
thương xót. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai bữa
cơm cho họ”...
Thời kì này, đội ngũ nhà sư được các vua nhà Lý trọng dụng như sư Vạn
Hạnh, Khuông Pháp Thuận... Dần dần hình thành thành đội ngũ Tăng quan
(nhà sư làm quan). Họ đã có những đóng góp quan trọng trong các công việc
triều chính cũng như trong phong trào đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc
lập dân tộc. Không những thế, những vị thiền sư này còn am hiểu về thơ văn,

7


nghệ thuật, họ đã để lại cho kho tàng văn học dân tộc nhiều tác phẩm bất hủ,
có giá trị. Chính vì vậy mà chùa chiềng còn là nơi đào tạo tri thức của đất
nước.
Văn bia chùa Phật Thời Lý:
- Một số văn bia thời Lý:
+ Bia tháp Hội Khánh núi Lăng Già do pháp sư Lê Kim soạn năm Hội
Phong thứ nhất (1092).
+ Bia chùa Sùng Nghiêm Diên Khánh, Ái Châu do Pháp Bảo soạn (Hội
trường Đại Khánh thứ 9 năm 1118).
+ Bia tháp Sùng Thiện diên Linh núi Long Đọi do Mai Công Đọi (viên
ngoại Lang bộ Binh) soạn năm Duệ Vũ thứ 2 (1121)...
Những văn bia được đặt trong các chùa, tháp thời lý mang giá trị rất to
lớn:
- Góp phần nghiên cứu phật giáo ở Việt Nam:
+ Việc kiến thiết chùa tháp ở thời Lý phần lớn được văn bia ghi lại. Các
văn bia thời Lý hiện còn phần nhiều gắn với những ngôi chừa quan trọng,
liên quan tới giớ quý tộc, quan chức hoặc các thiền sư có uy tín.

VD: Đoạn văn khắc trên bệ tượng “A Di Đà tụng” chùa Hoàng Kim
( Quốc Oai, Hà Nội) năm 1099 cho biết niên đại chính xác của pho tượng
phật quý giá thời Lý này.
Văn bia chùa Báo Ân núi An Hoạch (Thanh Hóa) khắc năm 1100 cho
biết Lý Thường Kiệt khi cai quản trấn Thanh Hóa đã sai lấy đá núi An
Họach xây chùa Báo Ân...
+ Cũng nhờ thông tin văn bia ta có thể nhận thấy rằng ngôi chùa thời Lý
- Trần mà phần lớn thuộc sở hữu tư nhân của tầng lớp quý tộc đã hoàn toàn
chuyển sang sở hữu công cộng của cộng đồng làng xã từ thời Mạc ( thế kỉ

8


XVI), khi hàng loạt ngôi chùa Lý - Trần bị lãng quên trong thời Lê Sơ ( thế
kỉ XV) thì nhất nhất được tái tạo bởi cộng đồng làng xã dưới thời Mạc.
+ Trong khi các tài liệu, thư tịch và di tích chùa thời Lý hiện biết khá
hạn chế, thì trái lại tư liệu văn bia lại khá phong phú, góp phần nhận diện mặt
bằng kiến trúc, đến hệ thống tượng thờ của mỗi phật điện cụ thể, cũng như
của chung các ngôi chùa thời Lý.
Chẳng hạn, văn bia chùa Cổ Việt cho biết chi tiết kết cấu kiến trúc và
cách bài trí tượng thờ trong phật điện của chùa này.
- Văn bia thời Lý thường chỉ gắn với một vài nhân vật nhất định, hơn
nữa đều là các nhân vật quan trọng có vị trí cao, thậm chí cao nhất trong hệ
thống chính trị đương thời chính vì thế thông tin từ văn bia khá phong phú về
tiểu sử nhân vật được đề cập đến. Điều này góp phần cho việc nghiên cứu sử
học sau này.
VD: Văn bia chùa Ngưỡng Sơn Linh Ứng viết về Lý Thường Kiệt như
sau: “Thái úy tuy thân vướng việc đời, mà lòng vẫn hướng về đạo phật. có lẽ
vì nhà vua và mẫu hậu tôn sùng giáo lý nhà phật đó chăng ? Cho nên Thái
úy vâng theo ý chỉ của đức vua và mẫu hậu mà nâng đỡ phật pháp vậy!...”

- Văn bia thời Lý, về cơ bản đều là các tác phẩm được dụng công sâu
sắc, ngôn ngữ điển nhã, lúc tả thực, lúc khoa trương, hình tượng nhân vật
được mô tả sinh động...làm hưng thịnh một thể loại văn học thời Trung đại
giàu giá trị văn học nghệ thuật.
- Trên văn bia ngoài chữ Hán là chủ đạo thì đã xuất hiện mầm mống chữ
Nôm (không nhiều). Điều này góp phần cho việc nghiên cứu về chữ Nôm
của các nhà khoa học sau này.
=> Văn bia thời Lý có giá trị nhiều mặt trong việc nghiên cứu lịch sử,
văn hóa và xã hội đương thời. Trong khi phần lớn di tích kiến trúc phật giáo
thời Lý - Trần hiện nay đều bị hư hỏng, biến đổi nhiều, thì tư liệu văn bia,

9


từng được xem là trang sử “đá” có giá trị đáng kể trong việc khôi phục “bản
lai diện mục” của các di tích đó.
Có thể nói Nhà Lý đã có công phát triển phật giáo và đưa phật giáo
trở thành quốc giáo của Đại Việt. Phật giáo thời Lý đã có nhiều ảnh
hưởng lớn đến mọi mặt trong đời sống xã hội Đại Việt. Nhờ những tư
tưởng của nhà phật, mà các vua quan thời Lý đã có những chính sách
thân dân và chăm lo cho cuộc sống của nhân dân, làm cho đất nước
hưng thịnh và nhân dân được thái bình, ấm no.
* Đoàn kết giữa triều đình và các dân tộc miền núi:
Nhà Lý thực hiện chính sách lấy nhân dân làm gốc, các vua quan triều
Lý luôn quan tâm và chăm sóc cho dân ( đặc biệt là 4 vị vua đầu tiên của nhà
Lý). Đồng thời, nhà Lý còn thực hiện chính sách kết giao với với các dân tộc
miền núi gần với biên giới của Đại Việt như gả con gái cho các tộc trưởng,
ban phát bổng lộc và chức tước cho họ. Việc làm của nhà Lý đã thực hiện
đoàn kết trong toàn dân, tạo nên sức mạnh to lớn để đưa đất nước phát triển
và chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước:

VD: Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược, các bộ tộc
đều tham gia chiến đấu cùng với triều đình. Tiêu biểu trong số đó là tù
trưởng Tông Đản. Ông đã cùng với Lý Thường Kiệt tham gia trận chiến trên
đất Tống và được giao nhiệm vụ là hạ thành Ung Châu. Tông Đản đã lãnh
đạo quân bộ vây đánh thành Ung Châu và đã giành thắng lợi to lớn. Về sau,
ông được phong chức Lang Trung tướng quân.
Điều này còn cho thấy cái nhìn đúng đắn của nhà Lý trong việc trị nước
vì bộ phận dân tộc miền núi, đặc biệt là ở những vùng biên giới rất dễ bị thế
lực bên ngoài dụ dỗ mà kích động làm loạn, làm ảnh hưởng đến sự tồn vong
của đất nước chính vì thế, nhà Lý đã thực hiện chính sách quan trọng nhằm
bình ổn các bộ tộc người dân sinh sống ở miền núi.

10


Đến sau này, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
cứu nước, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống của cha
ông và nhận thấy tầm quan trọng của đồng bào các dân tộc miền núi trong
công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất
nước hiện nay.
* Chống giặc phương Bắc, bình ổn phía Nam:
Kháng chiến chống quân Tống (1075-1077)
Ngay sau khi mới lên ngôi, Lý Thái Tổ đã có chủ trương giao hảo với
nhà Tống. Năm 1010, viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Tài Nguyên
được cử đi sứ Tống, do đó quan hệ giữa hai nước tương đối hòa hảo.
Năm 1075, dưới thời vua Tống Thần Tông, vương An Thạch làm tể
tướng đã mâm mưu xâm lược nước ta. Quan quân nhà Lý phối hợp với nhân
dân và tù trưởng các bộ tộc đã kháng chiến thành công, đánh bại quân Tống
bảo vệ được lãnh thổ và độc lập dân tộc. Thông qua đó đã thể hiện rõ tinh
thần đoàn kết trên dưới một lòng giữa triều đình và nhân dân. Thắng lợi này

góp phần quan trọng vào công cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước của lịch sử
dân tộc ta.
Bình ổn phía Nam:
Ở phía nam, nước Đại Việt giáp với Chiêm Thành, một tiểu vương quốc
vốn có tiếng hung bạo, thường hay xua quân sang đánh phá miền duyên hải
nước ta. Buổi đầu thời nhà Lý, khi Lý Thái Tổ lên ngôi, Chiêm Thành vẫn
cho sứ thần sang cống. Kể từ năm 1028, thái tử Phật Mã, tức lý Thái Tông
lên làm vua, đã mười lăm năm Chiêm Thành không chịu thông sứ. Do đó
năm 1044, vua Thái Tông đích thân ngự giá đi đánh Chiêm Thành. Quân ta
kéo vào kinh đô Vijaya, bắt sống vua nước ấy là Rudravarman III (vua Chế
Củ). Từ đấy phía nam được tạm yên. Vua nước Chiêm Thành hằng năm lại
vẫn phải triều cống như cũ.
* Vua anh minh, tướng tài giỏi:

11


Đất nước phát triển hưng thịnh, nhân dân được ấm no, hạnh phúc đều do
đường lối trị nước đúng đắn của vua và quan nhà Lý. Trong lịch sử tồn tại
của nhà Lý, một số vị vua anh minh và một số vị tướng tài giỏi đã có công rất
lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nền độc lập, chủ quyền của dân tộc
ta.
Tiêu biểu nhất có thể nói đến 4 vị vua anh minh đầu tiên của nhà Lý:
Vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) nhìn xa trông rộng, các bậc cao minh
phò tá, tiến hành một đại sự để lại vinh quang chói lọi bất hủ trong lịch sử
dân tộc ta: Chọn được đế đô vĩnh cửu Đại La thành, đổi là thành Thăng Long
(Hà Nội bây giờ).
Vua Lý Thái Tông (Phật Mã) giỏi đánh dẹp bắc, diệt giặc Nùng Chí
Cao, phạt Chiêm Thành.
Vua Lý Thánh Tông (Nhật tôn) nhân từ, yêu dân như con, miễn thuế,

thương tù, lập Văn Miếu, thờ Khổng Tử, khai hóa cho dân.
Vua Lý Nhân Tông (Càn Đức) mở khoa thi đầu tiên, lập Quốc Tử Giám,
định quan chế, châu quận. Nước Đại Việt thắng Tống với hào quang quanh
vương miện, bước vào cường thịnh, văn hiến.
Những công việc ấy từ xưa chưa triều đại nào làm được. Tuy vậy cuộc
đời 4 vị vua sáng đó cũng không khỏi có những tỳ vết.
Trong Đại Việt sử ký, sử gia Lê Văn Hưu phê phán việc lập chùa chiền
của Lý Thái Tổ: “Nhà vua lên ngôi vừa được 2 năm, tông miếu chưa xây, xã
tắc chưa lập, đã xây 8 ngôi chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa chiềng ở
các Lộ, độ hơn 1000 sư tăng, ắt là hao phí thổ mộc, tài lực không kể xiết,
nguồn gốc suy vong của triều Lý do bách tính quá nửa làm tăng. Trong nước
khắp nơi đều là chùa”.
Danh sĩ trương Hán Siêu đời sau cũng viết trên bia đá chùa Khai
Nguyên: “phàm tất cả danh thổ thì một nửa đã là chùa chiềng, người người
lũ lượt đi ở chùa, không cày mà có ăn, không dệt mà có mặc....Thiên hạ chia
là 5 phần thì sư tăng chiếm 1 phần”.

12


Về việc truyền ngôi cho con, vua Thái Tổ cũng chưa rút được kinh
nghiệm từ các triều đại Đinh, Tiền Lê. Ngài vừa mất, chưa làm lễ tế táng,
các hoàng tử đã tranh nhau ngôi vua, gây ra cái nạn Tam vương. May có
tương Lê Phụng Hiếu dẹp yên, tôn Hoàng tử Phật Mã lên ngôi Là Lý Thái
Tông.
Về việc vua lấy cung phi vào cung, có một chuyện người xem sử không
khỏi bùi ngùi tiếc cho một bà nguyên phi tài giỏi đã 2 lần nhiếp chính, mà
phạm phải một tội ác tày trời. Đó là chuyện của nàng Ỷ Lan.
Tuy nhiên công lao của các bậc tiên đế anh minh không thể chối bỏ
được, những công lao ấy được ghi vào những trang vàng lịch sử chói lọi của

dân tộc Viêt Nam. Cho đến ngày nay, tên tuổi của 4 vị vua này vẫn được
nhân dân thờ phụng và lưu truyền cho thế hệ trẻ sau này.
Ngoài 4 vị vua anh minh đó, thời Lý còn phải nhắc đến vị tướng tài giỏi
đó là Lý Thường Kiệt (1019-1105). Ông đã có công đánh tan quân Champa
và quân Tống, góp phần lớn vào sự nghiệp bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh
thổ Đại Việt. Hiện nay Lý Thường Kiệt có đền thờ ở Thanh Hóa và Hà Nam.
Đặc biệt ở Hà Nam, vùng Thi Sơn, Kim Bảng, nhân dân còn lưu hành điệu
hát dậm và múa dậm Quyển Sơn, là những điệu dân ca, dân vũ nổi tiếng được
biểu diễn hàng năm tại hội đền Quyển Sơn để vinh danh ông.
Ngoài những công lao to lớn ấy, Nhà Lý còn có một số công lao khác
trong việc phát triển kinh tế ( tổ chức cày tịch điền, bãi miễn thuế khóa, thực
hiện chính sách “ngụ binh ư nông”...), phát triển giáo dục (mở trường Quốc
Tử giám, mở khoa thi đầu tiên...), phát triển văn hóa - nghệ thuật (nhiều loại
hình nghệ thuật xuất hiện: múa rối nước, ca hát cung đình..., nhiều tác phẩm
nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc, văn học đã trở thành di sản văn hóa của dân
tộc Việt Nam)...

13


Nhận xét:
Vương Triều Lý là triều đại mở ra nền độc lập dân tộc lâu dài của
Đại Việt thời phong kiến, nhà Lý đã có những đóng góp to lớn cho sự phát
triển của quốc gia và dân tộc. Dấu ấn của nhà Lý vẫn vang vọng mãi sau
này trong mỗi thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là những thế hệ trẻ.

3. Lý Thái Tổ và Chiếu dời đô:

14



a. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn): (1010-1028)
Lý Công Uẩn người hương Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh) mẹ họ Phạm
(nhiều tài liệu cho rằng tên của bà là Phạm Thị Nga), sinh ngày 12 tháng 2
năm Giáp Tuất (974). Thời thơ ấu, ông được mẹ đặt cho cái tên là cu Uẩn
( lấy tên của làng).
Mẹ mất khi ông còn nhỏ tuổi, ông được thiền sư Lý Khánh Văn nhận
làm con nuôi và đặt tên cho là Lý Công Uẩn. Ngay từ nhỏ, ông đã có tố chất
thông minh và có chí khí hơn người.
Nhờ sự nuôi dạy của Lý Khánh Văn và nhà sư Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn
đã trở thành người xuất chúng, văn võ song toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ
huy sứ. Khi vua Lê Ngọa Triều mất, triều thần suy tôn Lý Công Uẩn lên ngôi
Hoàng đế vào đầu năm Canh Tuất (1010), đặt niên hiệu Thuân Thiên, vẫn lấy
quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư (Ninh Bình).
Tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một
buổi sáng đẹp trời thuyền vừa cập bến. Nhà vua thấy rồng vàng bay lên, do
đó đặt tên là kinh đô Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay).
Vua Lý Thái Tổ chỉnh đốn lại việc cai trị trong nước, làm cho đất nước
được hưng thịnh. Ngày Mậu Tuất, tháng 3 năm Mậu Thìn (1028) Lý Thái Tổ
mất, trị vì 18 năm hưởng thọ 55 tuổi.
Có thể nói đây là một vị vua sáng đầu tiên của nhà Lý, đã có những
đóng góp quan trọng cho quốc gia và dân tộc Đại Việt.
b. Chiếu dời đô ( Thiên đô chiếu):

15


Muốn xây dựng một quốc gia Đại Việt đàng hoàng cần phải có một kinh
đô quy mô lớn làm trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và theo quan niệm cổ
xưa phải hợp với phong thủy để dân tộc được phát triển. Nhận thấy“thành

Hoa Lư ẩm thấp, chật hẹp”, Lý Thái Tổ đã ban bố chiếu dời đô (tức “Thiên
đô chiếu”).
Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ đã cho thấy cái nhìn mới của một bậc đế
vương về vận mệnh của dân tộc. Điều này khác hẳn với các bậc tiền nhân đi
trước của hai triều đại Đinh, Tiền Lê: “ Cứ đóng yên đô thành ở nơi đây,
khiến cho triều đại không được lâu bền, số phận ngắn ngủi, trăm họ phải hao
tổn, muôn vật không được thích nghi". Hoa Lư là vùng có địa thế hiểm trở,
khi tiềm lực phát triển chưa đủ mạnh thì nó hợp với chiến lược phòng thủ.
Nhưng đến đời Lý thì đất nước đặt ra nhu cầu phát triển, cho nên đô thành
phải dời chuyển ra nơi có địa thế khác và ông đã chọn thành Đại La là nơi
đóng đô lâu dài.
Trong Chiếu dời đô lại có đoạn “...phải đâu các vua Tam đại theo ý kiến
kiến riêng mình mà tự tiện chuyển dời” mà đó là vì “...muốn đóng đô ở nơi
trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế thừa muôn đời cho con cháu, trên
vâng mệnh trời, dưới theo ý dân...”. Hay đoạn vua nhìn ra được thế đất kinh
kì “...ở vào trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi
giữa Nam Bắc Đông Tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà
bằng, đất đai cao mà thoáng... Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa.
Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô
bậc nhất của đế vương muôn đời”. Cách nhìn nhận của Lý Thái Tổ đã cho
thấy sự đúng đắn của ông trong việc phát triển đất nước và duy trì vận mệnh
của quốc gia, dân tộc: “Bệ hạ vì thiên hạ, lập kế lâu dài, trên cho nghiệp đế
vương thịnh vương, lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có,
điều lợi hại như thế, ai mà không theo”.

16


Thời ấy, nhìn bất cứ góc độ nào thì Thăng Long cũng là trung tâm của
đất nước. Vả chăng, trước thời Lý nhiều thế kỉ, Thăng Long cũng đã từng là

trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của đất nước. Sớm muộn tuy có khác
nhau, nhưng định đô ở Thăng long, Lý Thái Tổ đã nối được chí lớn của các
bậc anh hùng thuở trước và ông đã góp phần làm tôn lên vẻ đẹp có thật của
Thăng Long để ngàn năm sau, đất ấy là niềm tự hào của dân tộc.
Để ca ngợi sự sáng suốt và anh minh của Lý Thái Tổ trong việc dời đô,
nhà thơ Huy Cận đã viết:
“Mắt chứa thời gian, chứa không gian
Nhìn trước nghìn năm mắt địa bàn
Vạn dặm phù sa bồi lịch sử
Dời đô đất nước đã sang trang”.

4. Tổng kết:
- Nhà Lý ra đời và tồn tại trong suốt 216 năm (1009-1225), trải qua 9
đời vua , là triều đại mở đầu cho việc xây dựng đất nước hưng thịnh và nền tự
chủ của dân tộc.
- Trong quá trình tồn tại, nhà Lý đã có những đóng góp cho quốc gia
dân tộc như việc đổi mới đế đô, phát triển phật giáo, chống giặc ngoại xâm và
bình ổn phía Nam, đưa văn hóa vươn tới sự khẳng định rõ nét văn hóa dân
tộc...
- Các ông vua thời Lý, đặc biệt là 4 vị vua đầu tiên của nhà Lý cùng các
vị tướng tài giỏi đã có rất nhiều công lao đối với quốc gia và dân tộc. Họ là
những vị anh hùng của dân tộc Việt Nam, mãi mãi luôn là ánh sáng soi
đường cho sự phát triển của đất nước ngàn đời.

17


- Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ đã cho thấy tầm nhìn xa của vị vua đầu
tiên nhà Lý. Chính sự kiện, Lý Thái Tổ dời kinh đô về thành Đại La đã mở ra
một bước ngoặc quan trọng trong lịch sử dân tộc ta.

* Tài Liệu tham khảo:
- Việt sử giai thoại ( tập 2)- (Nguyễn Khắc Thuần).
- Vương Triều Lý - Trần với kinh đô Thăng Long - (Trần Đức Hồng
).
- Văn bia chùa phật thời Lý (phân viện nghiên cứu phật học Việt
Nam tại Hà Nội).
- Lý triều vọng mãi ngàn sau - (Kim Cổ).
- Việt Sử những dấu ấn đầu tiên - ( Lê Thái Dũng).
- Lý Thái Tổ và Vương triều Lý - (Lê Năng Hiển).

PHAN BỘI CHÂU - MUÔN THUỞ GỌI TÊN NGƯỜI

18




Lời mở đầu
Nửa cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX là một giai đoạn đặc biệt của lịch
sử dân tộc Việt Nam. Trước đó, trong quá trình chống giặc ngoại xâm, lực
lượng đại diện cho quốc gia dân tộc thường tổ chức cuộc kháng chiến đến
cùng, không chịu khuất phục. Song ở giai đoạn này, thế lực cầm quyền lại
không chỉ làm cho đất nước suy yếu mà còn đối lập với ý nguyện của dân
tộc, không kiên quyết chiến đấu đến cùng chỉ vì lợi ích hẹp hòi của vương
triều. Trong điều kiện khủng hoảng về lãnh đạo như vậy, với truyền thống
yêu nước nồng nàn, các tầng lớp nhân dân cùng các sĩ phu yêu nước đã
đứng lên chống thực dân Pháp, thể hiện rõ ý chí kiên cường, lòng quả cảm
và tính sáng tạo, không chịu khuất phục của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên tất
cả phong trào dưới ngọn cờ phong kiến ấy đều bị thất bại, điều này đặt ra
cho lịch sử Việt Nam cần tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc.

Trong cảnh đất nước rơi vào khốn khó, đã sinh ra một nhà chí sĩ yêu
nước mang tên Phan Bội Châu với tư tưởng giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng dân chủ tư sản tiến bộ. Ông được xem là nhân vật trung tâm của
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỉ XX, từng được
chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá là “Bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân
vì độc lập, được 20 triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng”. trong quá
trình hoạt động yêu nước và cách mạng của mình, từ khi bôn ba ngược xuôi
khắp trong và ngoài nước cho đến lúc bị giam lỏng ở bến ngự - Huế, cụ
Phan chưa bao giờ quên nghĩa vụ phấn đấu vì dân vì nước, nêu cáo tấm

19


gương kiên cường bất khuất, nhân cách cao thượng... đáng được toàn thể
nhân dân ta tôn kính.
BỐ CỤC:

1. Thân thế và sự nghiệp giải phóng dân tộc của Phan Bội Châu.
2. Nhận thức về tư tưởng mới của Phan Bội Châu.
3.Phan Bội Châu và Phong trào Đông Du.
4. Phan bội Châu và Việt Nam Quang Phục hội.
5. So sánh quan điểm của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
6. Phan Bội Châu - dưới con mắt của khoa học.
7. Tổng kết.

20


NỘI DUNG
1. Thân thế và sự nghiệp giải phóng dân tộc của Phan Bội Châu:

Phan Bội Châu, không chỉ là một nhân
vật lịch sử, mà còn là nhân vật lịch sử đặc
biệt. Dấu ấn gia đình, quê hương đã hằn sâu
lên cốt cách của con người này mang tính chất
khác thường. Hay nói một cách khác, yếu tố
gia đình, quê hương, đất nước đã tác động sâu
sắc để hình thành cốt cách của ông. Trong
cuốn niên biểu, Phan Bội Châu có nhắc đến
thân thế của mình, ông viết “Phan Văn Phổ
tiên sinh là cha tôi, và Nguyễn Thị Nhàn nữ sĩ
là mẹ tôi. Hai Người sinh tôi vào năm Đinh
Mão 1867, tháng Chạp tại làng Sa Nam, xã
Đông Liệt (nay là xã Nam Diên, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An). Làng đó ở dưới chân núi Hùng trên sông Lam nguyên
mẫu quán tôi. Nhà tôi đời đời theo nghiệp đọc sách, cho nên chỉ là một nhà
thanh hàn. Từ ngày ông tôi mất đi, nhà càng suy lạc. May cha tôi là một
người thông Nho, ruộng nghiên cày bút sinh nhai cũng vừa đủ xong. Lúc cha
tôi 30 tuổi, mới cưới mẹ tôi về, đến năm 36 tuổi mới sinh ra tôi. Chính giữa
năm sinh ra tôi là nước ta bị mất Nam Kỳ đã 5 năm rồi (1862-1867). Một
tiếng khóc oe oe như hình đã cảnh báo cho rằng: Mầy đã sắp làm người
vong quốc rồi đó. Đến năm tôi lên 3, cha tôi đem về làng tổ, làm nhà bên núi
Mồ, tức thuộc Tổng Xuân Liễu, làng Đan Nhiệm, nay nhà tôi ở đấy”.

21


* Một số sự kiện tiêu biểu về cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội
Châu:
- Từ nhỏ, Phan Bội Châu là một cậu bé thông minh, học đâu nhớ đó và
sớm đã có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Khi trưởng thành, ông đã đi thi

nhiều lần nhưng không đậu lại mắc phải án “hoài hiệp văn tự”. Khi được xóa
án, ông dự khoa thi hương năm Canh Tí (1900) ở trường Nghệ và đậu Giải
nguyên.
- Trong 5 năm sau khi đỗ Giải nguyên, ông bôn ba khắp nước Việt Nam
liên kết với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Đặng Thái Thân... để cùng chống Pháp.
Ông chọn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để - một người thuộc dòng dõi nhà Nguyễn
-

làm

lãnh

tụ

phong

trào

Cần

Vương.

- Năm 1904, ông cùng 20 người họp mặt tại Quảng Nam để thành lập
Hội Duy Tân.
- Năm 1905, ông đã phát động phong trào Đông Du, đưa những thanh
niên Việt Nam yêu nước sang Nhật để học tập văn minh, về sau sẽ về giúp
nước.
- Năm 1907, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Cống Hiến Hội, một
phong trào gồm có 100 học sinh du học ở Nhật. Tuy nhiên, dưới áp lực của

Pháp, Nhật Bản đã trục xuất họ trong năm sau.
- Năm 1912, nức lòng vì thành quả của cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) ở

22


Trung Quốc của Tôn Dật Tiên, Phan Bội Châu cùng một số nhà cách mạng
quốc gia Việt Nam lưu vong tại Quảng Châu thành lập một tổ chức cách
mạng thay thế cho Hội Duy Tân. Tôn chỉ của tổ chức mới với tên Việt Nam
Quang Phục Hội là đánh đuổi người Pháp ra khỏi đất nước, khôi phục chủ
quyền của Việt Nam, và thành lập "Việt Nam Cộng hòa Dân quốc".
- Nhằm gây tiếng vang, tạo ủng hộ trong quần chúng , năm 1913 ông
cho tổ chức ám sát và đặt chất nổ phá hoại nhiều nơi trong nước. Chính
quyền Pháp đã nhờ chính quyền Trung Quốc bắt giam Phan Bội Châu cùng
các

đồng

chí.

- Năm 1917, Phan Bội Châu được phóng thích. Ông lưu lạc tại Trung
Quốc suốt tám năm sau đó, ông học tập và viết báo sinh nhai ở Hàng Châu,
làm biên tập viên của tờ Bình sự tạp chí, nhưng không còn trực tiếp ảnh
hưởng đến các cao trào cách mạng tại Việt Nam.
- Ngày 30 tháng 6 năm 1925, ông lại bị Pháp bắt tại Hàng Châu, ông bị
dẫn giải về Hà Nội và xử án chung thân khổ sai. Về sau, bản án được đổi lại
thành án quản thúc tại gia do phản ứng mạnh mẽ của toàn dân đối với nhà
cầm

quyền


Pháp.

- Từ năm 1926, ông bị đưa về sống ở Bến Ngự - Huế, cho đến khi mất
vào năm 1940. Lúc đó ông được gọi là Ông già Bến Ngự. Trong thời gian
này, tư tưởng chống Pháp của Phan Bội Châu đã ôn hòa hơn.
- Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm 1940 tại Huế.
2. Nhận thức về tư tưởng mới của Phan Bội Châu:

23


Những năm đầu thế kỉ XX, trào lưu tư tưởng tiến bộ đã được đưa vào
Việt Nam thông qua hai tác phẩm là Tân Văn và Tân thư. Trào lưu này đã
mang lại cho lớp sĩ phu Việt Nam đầu thế kỉ XX, đặc biệt là nhà chí sĩ yêu
nước Phan Bội Châu biết rằng: “Trên thế giới này có một giống người không
có vua mà họ vẫn sống, vẫn phát triển được. Lớp người này mang quân đi
khắp thế giới tìm những vùng đất hứa. Họ chấp nhận dân chủ, từ đó xuất hiện
ý niệm dân chủ là đất nước. Từ đó đi đến sự phê phán chế độ vua quan, và
đưa ra những khẩu hiệu hấp dẫn lòng người như tự lập, tự cường, tự do - bình
đẳng - bác ái. Tư tưởng dân chủ gắn liền với một nhận thức, một vấn đề: xưa
kia trách nhiệm đối với nước là vua quan, là anh hùng hào kiệt, quan niệm đó
giờ đã thay đổi”. Các sĩ phu đầu thế kỉ XX nhận thức rằng, việc khôi phục
giang sơn là trách nhiệm của mọi người. Vì vậy, Phan Bội Châu đã đưa ra
một danh sách 10 hạng người trong xã hội là lực lượng cách mạng được nêu
ra ở tác phẩm “Hải ngoại huyết thư”. Quan niệm của Phan Bội Châu là 10
hạng người ấy phải đoàn kết, nhất trí trên dưới một lòng có thể đuổi được
giặc Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc, sau này trong tác phẩm Việt nam
quốc sử khảo (1908) còn thêm một đối tượng đoàn kết nữa đó là các dân tộc
thiểu số.

Nhận thức này của Phan Bội Châu đã đặt cơ sở vững chắc, từ đó làm
biến đổi tư tưởng của sĩ phu và quần chúng cách mạng vào đầu thế kỉ XX.
3. Phan Bội Châu và phong trào Đông Du:
Ngay từ những năm đầu thế kỉ XX, trào lưu tư tưởng tiến bộ đã đi vào
Việt Nam và ảnh hưởng đến các sĩ phu yêu nước, trong đó có Phan Bội Châu.
Ông đã có nhận thức mới về con đường giải phóng dân tộc Việt Nam.

24


Trong cuốn Tân Thư có nhắc đến rất nhiều về đất nước Nhật Bản, về ý
chí tự lập, tự cường qua Minh Trị Duy Tân. Chính bởi điều này đã làm Phan
Bội Châu bật ra suy nghĩ: “ Dựa vào Nhật để đánh Pháp”. Ông tin tưởng
nước Nhật sẽ giúp nước ta chống lại Pháp bởi vì chúng ta và họ cùng nằm
trong khu vực châu Á, cùng màu da, có nét tương đồng về văn hóa.
Phan Bội Châu cùng với các đồng chí của mình thành lập Hội Duy Tân
(1904) tại Quảng Nam nhằm mục đích chủ yếu là tổ chức phong trào Đông
Du để đưa những thanh niên Việt Nam yêu nước sang Nhật học tập, sau sẽ
về giúp nước đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập cho dân tộc. Đồng thời
trong khoảng thời gian này, ông còn tổ chức lập các hội nông, hội buôn, hội
học để tập hợp quần chúng và để có tài chính cho hội.
Tuy nhiên, thật như lời cảnh báo của Lương Khải Siêu là không nên cầu
viện Nhật để giành độc lập vì theo Lương Khải Siêu “Mưu ấy sợ không tốt.
Quân Nhật một lần vào nước quyết không lý gì đuổi nó ra được”. Bản chất
của Nhật hay Pháp đều giống nhau, đều là chủ nghĩa đế quốc cùng chung một
mục đích là xâm lược thuộc địa và chúng đã liên kết với nhau. Chính vì vậy
mà phong trào Đông Du của Phan Bội Châu nhanh chóng thất bại, tất cả sinh
viên Việt Nam cùng với cả Phan Bội Châu cũng bị trục xuất khỏi Nhật Bản.
Từ đây, Duy Tân Hội tan rã.
Phong trào Đông Du tuy thất bại nhưng đã có nhiều tác động to lớn đến

bước phát triển mới của phong trào yêu nước cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ
XX. Cuộc vận động cứu nước của phong trào Duy Tân hội đã tạo nên một
không khí cách mạng sôi nổi trên phạm vi cả nước. Phong trào xuất dương
cầu học không chỉ tác động về mặt văn hóa mà cả về mặt kinh tế.

25


×