ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
___________
___________
TIỂU LUẬN KINH TẾ VĨ MÔ
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI
CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
Lớp
: KTQT 22
Giáo viên hướng dẫn
: TS. Nguyễn Thị Thùy Vinh
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
2
MỤC LỤC
1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHNN
: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
OER
: Tỷ giá bình quân liên Ngân hàng
VND
: Việt Nam đồng
USD
: Đô la Mỹ
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ .................................................7
Hình 2.1: Diễn biến thay đổi tỷ giá bình quân liên Ngân hàng và tỷ giá Ngân
hàng thương mại theo quý giai đoạn 2008-2011 .................................................12
Hình 2.2: Cán cân thương mại Việt Nam theo các quý giai đoạn từ 2008 đến
2011......................................................................................................................... 13
.........................................................................................................................................
Hình 2.3: Cán cân thương mại Việt Nam theo các quý giai đoạn từ 2012 đến
2015......................................................................................................................... 15
Hình 2.4: Cơ cấu xuất khẩu theo nhóm hàng của Việt Nam 2012 và 2013........16
LỜI MỞ ĐẦU
Sự thay đổi trong cán cân thương mại do biến động của tỷ giá là một vấn đề
quan trọng và cơ bản trong chính sách kinh tế vĩ mô. Có hai lý do cho vấn đề này đó
là: (i) những nhà hoạch định chính sách thường quan tâm đến việc ở mức độ nào
thì cán cân thương mại là tối ưu cho một nước; (ii) sự biến động của cán cân
thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập quốc dân trong ngắn hạn, vì vậy,
nghiên cứu tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại giúp cho việc
hoạch định mục tiêu của thu nhập quốc dân. Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu và
thảo luận về chính sách tỷ giá hối đoái trong thời gian qua là một vấn đề nhạy cảm,
không những vì chính bản thân tầm quan trọng của nó mà còn vì ảnh hưởng lớn lao
của nó đến nền kinh tế. Trong những năm qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của
Việt Nam tăng trưởng khá ấn tượng, tuy vậy cán cân thương mại của Việt Nam vẫn
còn tình trạng thâm hụt. Với mục đích nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái
và cán cân thương mại Việt Nam trong thời gian qua; từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm khắc phục hạn chế của chính sách tỷ giá, nhóm chúng tôi lựa chọn đề tài “Tác
động của tỷ giá hối đoái tới cán cân thương mại Việt Nam”.
Để hoàn thành tiểu luận này, bên cạnh các kiến thức học được trong chương
trình đào tạo, nhóm chúng tôi đã tham khảo thêm một số giáo trình kinh tế vĩ mô,
thanh toán quốc tế và chính sách thương mại quốc tế hiện đang được sử dụng rộng
rãi tại Việt Nam và trên thế giới; đồng thời kết hợp với phương pháp thống kê, tổng
hợp số liệu từ các nguồn tin cậy và chính thống.
Nội dung của tiểu luận gồm ba phần:
Phần 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
Phần 2: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM
2008 ĐẾN NAY VÀ TÁC ĐỘNG TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
Phần 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TRONG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NHẰM
CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
Kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng là lĩnh vực
khoa học phức tạp và còn nhiều mới mẻ, đặc biệt khi đặt trong bối cảnh nền kinh tế
toàn cầu cởi mở và các ràng buộc chính trị ngặt nghèo. Mặc dù nhóm tác giả đã hết
sức nỗ lực và cẩn trọng trong quá trình hoàn thành tiểu luận, nhưng do thời gian có
giới hạn nên không tránh khỏi sai sót, chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến để tiếp tục hoàn thiện đề tài. Chúng tôi cũng chân thành cảm ơn nhà trường và
Tiến sỹ Nguyễn Thị Thùy Vinh đã hướng dẫn, trang bị cho chúng tôi những kiến
thức cơ bản và tạo điều kiện để nhóm có cơ hội làm việc, nghiên cứu về đề tài này.
Tập thể nhóm tác giả
I. Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại
1.1. Tỷ giá và các công cụ của chính sách tỷ giá
1.1.1. Khái niệm
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tỷ giá hối đoái nhưng có thể khái quát
nhất như sau “Tỷ giá hối đoái là giá của một loại tiền tính theo một loại tiền khác”
(Frederic S.Mishkin 2006). Loại tiền ở đây có thể là đơn vị tiền tệ của một quốc gia
như USD, VND… hay cũng có thể là đơn vị tiền tệ của một khu vực như đồng tiền
chung châu Âu và tỷ giá là giá trị quy đổi giữa hai loại tiền khác nhau.
1.1.2. Phân loại tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, mục
đích tiểu luận là nghiên cứu về tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại
Việt Nam nên dựa theo mức độ ảnh hưởng, tỷ giá hối đoái được chia làm hai loại
chính: tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực tế.
• Tỷ giá hối đoái danh nghĩa: là tỷ lệ mà ở đó một đơn vị tiền tệ này được
thể hiện bằng một đơn vị tiền tệ nước kia. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa được sử dụng
hàng ngày trong giao dịch ngoại hối. (Hoàng Xuân Bình 2015)
Ví dụ: Tỷ giá hối đoái của VND so với USD là 22.260 VND/USD nghĩa là giá
1 USD là 22.260 VND
• Tỷ giá hối đoái thực tế: là tỷ lệ phản ánh khả năng trao đổi hàng hóa và
dịch vụ của nước này lấy hàng hóa, dịch vụ của nước khác. (Hoàng Xuân Bình 2015)
Ví dụ: Giá gạo ở Việt Nam là 20.000 VND/kg, giá gạo ở Mỹ là 1,5 USD/kg.
Vậy tỷ giá hối đoái danh nghĩa là E=20.000 VND/USD. Bằng việc tính toán giá gạo
Mỹ theo giá gạo Việt Nam ta có tỷ giá hối đoái thực tế là 1,5 hay giá một một đơn
vị hàng hóa nước ngoài bằng 1,5 lần giá một đơn vị hàng hóa trong nước.
Như vậy, sự thay đổi của tỷ giá thực tế sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động
xuất nhập khẩu hay cán cân thương mại vì nó biểu thị tương quan sức mua còn tỷ
giá danh nghĩa là cơ sở để xác định tỷ giá thực thông qua một số phương pháp điều
chỉnh. Nói cách khác, tỷ giá hối đoái thực tế phản ánh khả năng cạnh tranh về giá
của hàng hóa, dịch vụ một quốc gia so với hàng hóa ,dịch vụ được sản xuất ở nước
ngoài.
Khi có sự giảm xuống trong tỷ giá thực tế, đồng nội tệ một quốc gia xuống
giá, các mặt hàng quốc gia đó trở nên rẻ hơn tương đối so với hàng hóa được sản
xuất ở nước ngoài. Kết quả là các quốc gia khác có xu hướng nhập khẩu hàng hóa
của quốc gia đó nhiều hơn, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cho quốc gia ấy khiến cán
cân thương mại quốc gia được cải thiện. Ngược lại khi đồng nội tệ lên giá, hàng
hóa, dịch vụ trong nước trở nên đắt hơn tương đối so với hàng hóa, dịch vụ các
nước khác khiến cho người dân có xu hướng nhập khẩu hàng hóa nhiều hơn và làm
cán cân thương mại quốc gia bị giảm sút.
1.1.3. Các chế độ của chính sách tỷ giá
Mỗi quốc gia đều có cách quản lý đồng tiền nội tệ trong mối quan hệ với các
đồng tiền ngoại tệ và quản lý thị trường ngoại hối theo một cơ chế điều hành tỷ giá
khác nhau. Có ba chế độ điều chỉnh chính sách tỷ giá là: cơ chế tỷ giá cố định, cơ
chế tỷ giá thả nổi và cơ thế tỷ giá thả nổi có điều tiết của nhà nước. (Hoàng Xuân
Bình 2015, tr.278)
• Cơ chế tỷ giá hối đoái cố định là chế độ trong đó tỷ giá hối đoái được can
thiệp để duy trì ở một mức ổn định. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố
định gọi là đồng tiền cố định. Để giữ tỷ giá cố định, ngân hàng trung ương cam kết
sẵn sàng mua bán ngoại tệ tại một mức giá ấn định cho trước.
Việc theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái cố định sẽ duy trì tính ổn định cao cho
thị trường. Thế nhưng sự cứng nhắc và chủ quan của cơ chế tỷ giá cố định khiến tỷ
giá không có sự linh hoạt và không phản ánh được những thay đổi thực tế trên thị
trường
• Cơ chế tỷ giá thả nổi là cơ chế tỷ giá hối đoái được tự do biến động theo
quan hệ cung cầu trên thị trường. Dưới cơ chế này, rủi ro về tỷ giá hối đoái có thể
được ngăn chặn bởi thị trường ngoại hối trong tương lai hoặc các công cụ khác, từ
đó nguy cơ khủng hoảng kinh tế có thể được hạn chế. Ngoài ra, nếu thị trường
ngoại hối có tác động tích cực cùng với tỷ giá thả nổi tự do sẽ ngăn ngừa được hoạt
động đầu cơ tích trữ ngoại hối.
Tuy nhiên, nếu áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi quá tự do thì các chính sách tiền
tệ sẽ bị lạm dụng, Chính phủ sẽ gặp khó ngăn trong việc ngăn cản sự mất giá của
nội tệ. Cơ chế tỷ giá thả nổi có tính biến động cao, khó dự đoán gâykhó khăn cho
các doanh nghiệp trong việc hoạch định và định giá; thậm chí điều này còn có ảnh
hưởng xấu đến cán cân thương mại quốc tế và đầu tư.
• Cơ chế tỷ hối đoái giá thả nổi có điều tiết là một cơ chế tỷ giá hối đoái hỗn
hợp giữa thả nổi và cố định. Trong đó, tỷ giá được điều tiết theo quan hệ cung cầu
ngoại tệ. Tuy nhiên, khi nền kinh tế có những biến động bất lợi, ngân hàng trung
ương sẽ có can thiệp và tỷ giá hối đoái thông qua một số công cụ như sau: lãi suất
chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, quỹ dự trữ bình ổn hối đoái và phá giá đồng
nội tệ.
Cơ chế tỷ giá hối đoái này khắc phục được những nhược điểm của tỷ giá cố
định và thả nổi nên được Chính phủ các nước lựa chọn là công cụ điều tiết cho nền
kinh tế. Việt Nam cũng đang áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có sự điều
tiết của Nhà nước.
1.2. Tác động của chính sách tỷ giá tới cán cân thương mại và nền kinh tế
Khi cán cân thương mại có tín hiệu xấu đi, nhập khẩu tăng lên còn xuất khẩu
giảm, Chính phủ cần có những biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái để cải thiện cán
cân thương mại. Một công cụ hay được sử dụng là phá giá tiền tệ. Việc phá giá tiền
tệ trong công cụ chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết của nhà nước có tác
động đến cán cân thương mại thông qua hiệu ứng đường cong J. Phá giá tiền tệ
được hiểu là việc gia tăng mạnh của tỷ giá ngoại tệ hay sự giảm xuống của tỷ giá
nội tệ. Chính sách này Chính phủ áp dụng với mong muốn cải thiện cán cân thương
mại. Sự biến động của tỷ giá ảnh hưởng đến cán cân thương mại thông qua hiệu ứng
giá cả và hiệu ứng khối lượng. (Hoàng Xuân Bình 2015, tr. 278)
- Hiệu ứng giá cả cho thấy khi đồng nội tệ rẻ hơn, nếu cán cân thương mại
tính theo đồng nội tệ thì hiệu ứng giá cả sẽ làm kim ngạch nhập khẩu tăng. Ngược
lại khi cán cân thương mại tính theo đồng ngoại tệ thì hiệu ứng giá cả làm kim
ngạch xuất khẩu giảm. Như vậy có thể thấy trong cả hai trường hợp thì cán cân
thương mại đều có ảnh hưởng xấu đi.
- Hiệu ứng khối lượng xuất hiện sau hiệu ứng giá cả một thời gian. Điều này
được lý giải do sau một khoảng thời gian đồng nội tệ giảm giá, người tiêu dùng
trong nước sẽ điều chỉnh hành vi mua bán của mình khi họ cho rằng giá cả hàng hóa
nhập khẩu trở nên đắt hơn. Trong khi đó, người tiêu dùng quốc tế nhận thấy giá cả
của hàng hóa sản xuất tại quốc gia có đồng nội tệ phá giá trở nên rẻ hơn so với thị
trường. Do vậy, hiệu ứng khối lượng xuất hiện phản ánh sản lượng xuất khẩu quốc
gia tăng lên trong khi sản lượng nhập khẩu lại giảm đi, kết quả là cán cân thương
mại được cải thiện dần dần.
Như vậy có thể thấy rằng trong ngắn hạn, hiệu ứng giá cả có tính trội hơn so với
hiệu ứng khối lượng, khiến cho cán cân thương mại trở nên xấu đi. Tuy nhiên, trong
dài hạn, hiệu ứng khối lượng lại có tính trội hơn hiệu ứng giá cả, giúp cải thiện cán
cân thương mại. Điều này được phản ánh rất rõ ở mô hình hiệu ứng đường cong J
trong phá giá tiền tệ:
Nguồn: Hoàng Xuân Bình, 2015
Hình 1.1. Hiệu ứng tuyến J trong phá giá tiền tệ
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới mức độ và thời gian kéo dài thâm hụt cán cân
thương mại khi phá giá tiền tệ. Đối với những nước phát triển, những hàng hoá quốc
gia đó sản xuất thường đủ tiêu chuẩn tham gia thương mại quốc tế (international
tradeable goods - ITG), nên việc phá giá tiền tệ sẽ làm cho khối lượng hàng xuất khẩu
tăng nhanh và khối lượng hàng nhập khẩu giảm nhanh trong ngắn hạn. Vì vậy, hiệu
ứng khối lượng có tác dụng tích cực ngay trong ngắn hạn, kết quả là cán cân thương
mại tạm thời xấu đi trong ngắn hạn, và nhanh chóng được cải thiện rõ rệt trong dài
hạn. Ngược lại, những nước đang phát tiển thường chỉ sản xuất được những hàng hoá
không đủ tiêu chuẩn tham gia thương mại quốc tế (international non-tradeable
goods), nên khi tiền tệ bị phá giá thì khối lượng hàng xuất khẩu tăng chậm và khối
lượng hàng nhập khẩu giảm chậm. Do đó, hiệu ứng khối lượng có tác dụng mờ nhạt,
kéo theo cán cân thương mại bị xấu đi rõ rệt trong ngắn hạn và chỉ được dần cải thiện
trong dài hạn. Như vậy, phá giá tiền tệ thực sự có hiệu quả hơn ở những quốc gia phát
triển so với những quốc gia đang phát triển. (Nguyễn Văn Tiến 2010, tr.254-267)
Tuy nhiên, việc phá giá tiền tệ có thể đi cùng một số hậu quả không mong
muốn. Trước tiên, phá giá tiền tệ thường đi kèm lạm phát. Mức giá chung tăng lên
không chỉ làm cầu tăng mà còn làm nguyên liệu đầu vào nhập khẩu cũng tăng làm
tăng chi phí sản xuất và tạo ra lạm phát theo chi phí đầy. Ngoài ra, việc phá giá tiền tệ
chưa chắc mang lại hiệu quả khả quan khi mà người tiêu dùng trong nước vẫn
chuộng hàng ngoại do danh tiếng và thói quen hay người tiêu dùng nước ngoài chưa
chắc mua thêm hàng nhập khẩu để thay đổi thị hiếu hiện có của mình. Bên cạnh đó,
khi một quốc gia thực hiện phá giá tiền tệ sẽ vấp phải phản ứng từ các quốc gia khác
nhằm hạn chế tác dụng của việc phá giá đó.
Tóm lại, nội dung lý thuyết về Hiệu ứng tuyến J giải thích khi phá giá tiền tệ sẽ
làm cho khối lượng hàng xuất khẩu tăng và khối lượng hàng nhập khẩu giảm, nhưng
không vì thế mà cán cân thương mại chắc chắn được cải thiện. Chính vì vậy, đối với
một nước đang phát triển như Việt Nam, trước khi chọn giải pháp phá giá cần thiết
phải tạo ra được các điều kiện tiền đề để có thể phản ứng tích cực với những lợi thế
mà phá giá đem lại. Chỉ có như thế, cán cân thương mại mới có thể thực sự được cải
thiện một cách chắc chắn trong dài hạn.
II. Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam từ năm 2008 đến nay và tác động
tới cán cân thương mại
2.1. Cơ chế tỷ giá của Việt Nam từ 2008 đến nay
Ở Việt Nam, tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do và tại các Ngân hàng thương
mại (NHTM) được quy định dựa trên tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường
ngoại tệ Liên Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố. Thông qua
việc điều chỉnh tỷ giá bình quân liên Ngân hàng (Offical Exchange Rate – OER),
NHNN sẽ tác động tới cán cân thanh toán nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường
ngoại hối và thúc đẩy cán cân thương mại.
Chính sách tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam có thể chia làm 3 giai đoạn
chính: từ năm 2008 đến 2011, từ 2012 đến 2015 và từ đầu năm 2016 đến nay.
2.1.1. Từ năm 2008 - 2011: Cơ chế neo tỷ giá với biên độ được điều chỉnh
(crawling bands)
- OER được điều chỉnh dần từ mức khoảng 16.100VND/USD vào đầu năm
2008 lên 16.500 VND/USD (06/08 đến 12/08), lên 17.000 VND/ USD (01/09 đến
11/09), lên 17.940 VND/USD (12/09 đến 01/10), lên 18.544 VND/USD (từ 02/10
đến 08/2010), lên 18.932 VND/USD (từ 08/10 đến 02/11), và sau đó lên 20.693 (từ
02/2011) và điều chỉnh tăng dần đến 20.828 vào cuối năm 2012.
- Biên độ tỷ giá tại các NHTM được điều chỉnh nhiều lần lên mức +/-0,75%
(từ 23/12/07 đến 09/03/08), +/-1% (10/03/08 đến 25/06/08), +/-2% (26/05/08 đến
05/11/08), +/-3% (06/11/08 đến 23/03/09), +/-5% (24/03/09 đến 25/11/09), và +/3% (26/11/09 đến 11/02/2011), và sau đó được thu hẹp xuống +/-1% (từ
11/02/2011).
Trong bối cảnh năm 2008, nền kinh tế thế giới xảy ra nhiều diễn biến phức
tạp. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã sụt giảm nghiêm trọng do ảnh hưởng lan
truyền của cuộc khủng hoảng cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ. Các nền kinh
tế phát triển đều rơi vào trạng thái suy thoái. Những diễn biến phức tạp này của nền
kinh tế thế giới khiến cho kinh tế Việt Nam gặp nhiều bị ảnh hưởng không nhỏ. Lần
đầu tiên, tình hình tỷ giá Việt Nam lại biến động với cường độ mạnh mẽ như trong
năm 2008. Để đối phó với những diễn biến khó lường đó, NHNN đã điều hành tỷ
giá theo cơ chế linh hoạt.
Cụ thể, từ nửa cuối năm 2008 với sức ép từ lạm phát, nhập siêu gia tăng,
chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế, yếu tố tâm lý lo ngại về khả
năng phá giá đã khiến VND mất giá danh nghĩa, chênh lệch tỷ giá chính thức và tự
do tăng vọt, tỷ giá NHTM luôn cận trần biên độ cho phép trong năm 2009. NHNN
đã buộc phải mở rộng biên độ dao động của tỉ giá chính thức trong tháng 3 từ +/-3%
lên +/-5% – biên độ lớn nhất trong vòng 10 năm qua.
Diễn biến tỷ giá tiếp tục phức tạp trong năm 2010 bất chấp những lần tăng tỷ
giá chính thức ở mức độ cao vào đầu năm và tháng 8, hàng loạt các biện pháp hành
chính như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, mở rộng đối tượng
cho vay ngoại tệ, chấm dứt việc giao dịch vàng trên các tài khoản ở nước ngoài của
các NHTM và các tổ chức tín dụng, đóng cửa các sàn vàng và tăng lãi suất.
Trước những bất ổn kinh tế vĩ mô, tháng 2 năm 2011, Chính phủ ra Nghị
quyết 11/NQ-CP với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, theo đó,
NHNN đã điều chỉnh tiền VND ở mức cao nhất trong lịch sự (9,3%), đồng thời
giảm biên độ xuống còn 1%. Tỷ giá đã ổn định trở lại, trong khi chênh lệch tỷ giá
trên thị trường tự do và thị trường chính thức đã giảm mạnh từ cuối tháng 4/2011,
NHNN đã mua lại được lượng ngoại tệ lớn và gia tăng dự trữ ngoại hối (từ tháng 4
đến tháng 7/2011 đã mua vào được gần 7 tỷ USD).
2.1.2. Từ năm 2012 - 2015: Cơ chế tỷ giá neo cố định (conventional fixed peg
arrangement)
Thứ nhất, trong hai năm 2012 và 2013 là NHNN đã chủ động hơn trong việc
thông tin về định hướng điều hành tỷ giá, việc điều hành thanh khoản ngoại tệ cũng
được lưu tâm hơn, thông qua các hoạt động của NHNN với vai trò là người
mua/người bán cuối cùng trên thị trường và hạn chế trạng thái ngoại tệ của các tổ
chức tín dụng (theo Thông tư 07/2012/TT-NHNN ngày 20/3/2012). Cụ thể, OER
giữ ở 20.828 VND/USD từ tháng 1/2012 đến 28/6/2013, tăng lên 21.036
VND/USD. Biên độ giao dịch được giữ cố định +/-1%. Tiếp nối diễn biến từ nửa
cuối năm 2011, giai đoạn 2012-2013 chứng kiến sự ổn định của tỷ giá, cả trên thị
trường chính thức và thị trường tự do. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng được giữ cố
định ở mức 20.828 VND/USD trong suốt một thời gian dài (từ đầu năm 2012) trước
khi được điều chỉnh nhẹ lên 21.036 VND/USD từ cuối tháng 6/2013, trong khi đó,
biên độ giao dịch giữ nguyên ở mức 1% từ đầu tháng 2/2011.
Thứ 2, từ đầu năm 2014, NHNN đã đặt định hướng năm 2014 sẽ điều hành tỷ
giá linh hoạt nhưng vẫn phải ổn định, mức điều chỉnh không quá 2%. Vì vậy, trong
6 tháng đầu năm 2014, tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND với USD được
giữ ổn định ở mức 20.036 VND/USD cho đến ngày 19/6/2014 được NHNN điều
chỉnh tăng 1% lên 21.246 VND/USD, theo đó trần tỷ giá mới là 21.458 VND/USD
và sàn tỷ giá mới là 21.034 VND/USD. Sự điều chỉnh này thể hiện áp lực tăng tỷ
giá VND/USD, nhu cầu ngoại tệ tăng nhưng vẫn nằm trong khả năng đáp ứng của
thị trường cũng như khả năng điều tiết của NHNN.
Thứ 3, năm 2015 là một năm đầy biến động và nhiều thách thức trong công
tác điều hành chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tỷ giá nói riêng, trong bối
cảnh đồng đô la Mỹ liên tục lên giá do kỳ vọng Fed điều chỉnh tăng lãi suất và
Trung Quốc bất ngờ điều chỉnh mạnh tỷ giá đồng Nhân dân tệ kéo theo làn sóng
giảm giá mạnh của các đồng tiền của các đối tác thương mại chính của Việt Nam. Ở
trong nước, việc huy động trái phiếu Chính phủ với lượng lớn để bù đắp thâm hụt
ngân sách không thành công đã đẩy lãi suất trái phiếu Chính phủ tăng cao, tạo áp
lực kép lên thị trường tiền tệ: Dư thừa thanh khoản trong ngắn hạn trong khi lãi suất
tăng cao trong dài hạn, qua đó gián tiếp cản trở mục tiêu tiếp tục giảm lãi suất cho
vay và ổn định tỷ giá.
Trước tình hình đó, NHNN đã chủ động trong điều hành để đưa ra những giải
pháp phù hợp với tình hình mới. Ngay sau khi Ngân hàng Trung ương Trung Quốc
bất ngờ phá giá đồng Nhân dân tệ vào ngày 11/8/2015, ngày 12/8/2015, NHNN đã
linh hoạt, kịp thời điều chỉnh biên độ tỷ giá giữa VND và USD tăng từ +/-1% lên
+/-2%. Tiếp đó, để tiếp tục chủ động dẫn dắt thị trường, xóa bỏ tâm lý kỳ vọng, đón
đầu các tác động bất lợi của khả năng Fed tăng lãi suất và biến động của thị trường
tài chính thế giới, ngày 19/8/2015, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân
hàng giữa VND và USD thêm 1% lên 21.890, đồng thời mở rộng biên độ tỷ giá từ
+/-2% lên +/-3%. Tính chung trong năm 2015, NHNN thực hiện điều chỉnh tăng tỷ
giá 3% và nới biên độ thêm 2% từ mức +/-1% lên +/-3%.
2.1.3. Từ 1/1/2016 - nay
Ngày 31/12/2015, NHNN đã ban hành Quyết định số 2730/QĐ-NHNN về việc
công bố tỷ giá trung tâm của VND với USD, tỷ giá tính chéo của VND với một số
ngoại tệ khác. Theo cơ chế này, tỷ giá trung tâm của VND với USD do NHNN công
bố hàng ngày là cơ sở để các NHTM xác định tỷ giá mua, tỷ giá bán của VND với
Đô la Mỹ. Tỷ giá trung tâm được xác định trên cơ sở tham chiếu diễn biến tỷ giá
bình quân gia quyền trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, diễn biến tỷ giá trên thị
trường quốc tế của một số đồng tiền của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả
nợ, đầu tư lớn với Việt Nam, các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và phù hợp với mục
tiêu chính sách tiền tệ. Cũng theo đó tỷ giá trung tâm của Đồng Việt Nam (VND)
với USD được điều chỉnh hàng ngày, có lên và có xuống, còn tỷ giá thị trường sẽ
dao động trong biên độ +/- 3%.
2.2. Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại từ 2008 đến 2015
Tỷ giá, lạm phát, chính sách thương mại là những nhân tố tác động đến xuất
nhập khẩu của một quốc gia, trong đó có thể coi tỷ giá là nhân tố chính. Như đã
phân tích ở trên, khi các yếu tố khác không đổi, đồng nội tệ tăng giá làm cho hàng
hóa trong nước trở nên đắt tương đối so với hàng hóa nước ngoài, điều này sẽ
khuyến khích nhập khẩu hàng hóa nước ngoài và hạn chế xuất khẩu hàng hóa trong
nước. Ngược lại, đồng nội tệ giảm giá sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu. Tuy nhiên, tác động của nó lên cán cân thương mại còn phụ thuộc vào
hiệu ứng giá cả và hiệu ứng số lượng.
Có thể nói đồng đô la Mỹ (USD) là ngoại tệ có vai trò và ảnh hưởng lớn nhất
trong lĩnh vực tiền tệ ở Việt Nam. Hiện trên 80% các giao dịch trong thanh toán
thương mại và đầu tư của Việt Nam vẫn được tính bằng USD. Do đó bài viết sẽ tập
trung phân tích biến động tỷ giá USD/ VND và tác động tới cán cân thương mại
Việt Nam qua 2 giai đoạn: Từ năm 2008 đến 2011 và từ 2012 đến hết 2015.
2.2.1. Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại từ 2008 đến 2011
Trong giai đoạn 2008-2011, tỷ giá USD/ VND liên tục tăng. Điều này được
minh chứng thông qua hình dưới đây.
Nguồn: NHNN Việt Nam, Vietcombank
Hình 2.1: Diễn biến thay đổi tỷ giá bình quân liên Ngân hàng và tỷ giá Ngân
hàng thương mại theo quý giai đoạn 2008-2011
Nguồn: Tổng cục hải quan
Hình 2.2: Cán cân thương mại Việt Nam theo các quý giai đoạn 2008-2011
(đơn vị: tỷ USD)
Năm 2008 được coi là năm bất ổn của tỷ giá với những biến động tỷ giá rất
phức tạp do ảnh hưởng từ các yếu tổ vĩ mô, cung cầu ngoại tệ và thậm chí cả tin
đồn. Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được NHNN điều chỉnh 3 lần, một mật
độ chưa từng có trong lịch sử. Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có
nhiều biến động lớn khi giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hoá khác
trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá
ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước, từ đó đã ảnh hưởng đến kim ngạch
xuất nhập khẩu. Cán cân thương mại Việt Nam trong năm 2008 nằm trong tình
trạng thâm hụt cao.
Năm 2009, những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp
tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Thêm vào đó, đồng tiền
mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh.
Trong 3 tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 14,14 triệu USD, tăng
5,5% và nhập khẩu là 12,6 triệu USD, giảm 42,1% so với cùng kỳ năm 2008. Cán
cân thương mại quý I/2009 thặng dư là 1,5 tỷ USD, chứng kiến mức xuất siêu đầu
tiên sau 16 năm từ năm 1992. Nguyên nhân khiến kim ngạch xuất nhập khẩu đang
từ nhập siêu đảo chiều là do từ tháng 2/2009 NHNN đã cấp phép xuất khẩu vàng
khiến kim ngạch xuất khẩu của nhóm này tăng lên đột biến. Nhưng các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực khác như dầu thô, điện tử máy tính và linh kiện vẫn giảm so với
cùng kỳ. Tính trong cả năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 57,1 tỷ
USD, giảm 8,9% so với năm 2008. Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2009
khoảng 69,9 tỷ USD, giảm 13,3% so với năm 2008.
Đến năm 2010, NHNN đã có quyết định nâng tỷ giá giữa USD/ VND thêm
2.1%, từ 19.100 lên 19.500, với biên độ được giữ nguyên ở mức +/- 3%, áp dụng từ
ngày 18/08/2010. Mặc dù tỷ giá USD/ VND tăng cao nhưng Việt Nam vẫn trong
tình trạng nhập siêu còn khá lớn. Mặc dù theo lý thuyết, tỷ giá USD/ VND tăng làm
VND mất giá sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Nhưng trên
thực tế, khi tỷ giá USD/ VND tăng, không những xuất khẩu tăng mà nhập khẩu
cũng tăng, đáng chú ý mức tăng của nhập khẩu mạnh hơn mức tăng của xuất khẩu,
nghĩa là cán cân thương mại vẫn thâm hụt. Đó là do ở Việt Nam có sự phụ thuộc
quá cao giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Chính vì có sự phụ thuộc quá nhiều của xuất
khẩu vào nhập khẩu nên khi tỷ giá tăng xuất khẩu tăng thì nhập khẩu cũng tăng theo
và tăng nhiều hơn mức tăng của xuất khẩu, điều này lý giải tại sao cán cân thương
mại vẫn thâm hụt mặc dù xuất khẩu có gia tăng khi VND giảm giá.
Bước sang năm 2011, NHNN tương đối thành công của chính sách quản lý
ngoại hối với tỷ giá diễn biến tương đối ổn định, giá vàng trong nước tuy vẫn tiếp
tục tăng nóng nhưng đã bám sát hơn với giá vàng thế giới. Ngay từ đầu năm 2011,
NHNN đã điều chỉnh mạnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng với quyết định số
230/2011/QĐ-NHNN ngày 11/2/2011: tỷ giá USD/ VND tăng (giảm giá VND)
9,3% từ 18.932 lên 20.693 VND/USD; biên độ giao dịch giảm từ +/-3% xuống +/1%. Mức tỷ giá mới phản ánh sát hơn cung – cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Do vậy mà cán cân thương mại năm 2011 được cải thiện hơn đáng kể so với năm
2010, cán cân thương mại từ mức thâm hụt 12.602 triệu USD giảm xuống còn 9.844
triệu USD.
2.2.2. Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại từ 2012 đến 2015
Nguồn: Tổng cục hải quan
Hình 2.3: Cán cân thương mại Việt Nam theo các quý giai đoạn 2012-2015
(đơn vị: tỷ USD)
Mặc dù kinh tế thế giới năm 2012 vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, thị trường
tài chính toàn cầu vẫn tiềm ẩn rủi ro do khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền
chung Châu Âu chưa được giải quyết; kinh tế Việt Nam phải đối mặt với rủi ro tăng
trưởng kinh tế chậm lại, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp gặp
nhiều khó khăn... nhưng về cơ bản, diễn biến thị trường ngoại hối trong và ngoài
nước không có nhiều biến động. Tỷ giá hối đoái đã giữ được ổn định, sau thời kỳ
điều chỉnh mạnh mấy năm trước đó, thậm chí điều chỉnh quá mạnh đầu năm 2011.
Xuất khẩu trong thời gian này cũng tăng trưởng mạnh. Trong những tháng đầu năm
2012, nhập siêu của cả nước ở mức thấp, có một vài tháng Việt Nam đã cân bằng
được cán cân thương mại. Điển hình là trong 2 tháng liên tiếp 6 và 7, Việt Nam đã
xuất siêu (tháng 6 xuất siêu 360 triệu USD, tháng 7 là 579 triệu USD). Tính đến
cuối năm 2012, Việt Nam đạt mức thặng dư thương mại 749 triệu USD.
Bước sang năm 2013, trên cơ sở bám sát biến động của nền kinh tế, NHNN
tiếp tục cam kết giữ biến động tỷ giá khoảng 2-3% trong cả năm. Để thực hiện cam
kết này, công tác điều hành tỷ giá tiếp tục được thực hiện linh hoạt kết hợp với hoạt
động mua bán của NHNN. Để phù hợp với tình hình lãi suất, duy trì ổn định thị
trường ngoại hối, ngày 28/6/2013, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân
hàng từ mức 20.828 VND/USD tăng 1% lên mức 21.036 VND/USD; đồng thời thực
hiện một loạt các giải pháp hỗ trợ khác nhằm đảm bảo tỷ giá không gây biến động
trên thị trường. Nhờ vậy, cán cân thương mại Việt Nam năm 2013 tiếp tục duy trì
thặng dư dù không lớn (khoảng 0,3 triệu USD, tương đương 0,0002% kim ngạch
xuất khẩu).
Tuy nhiên, khi phân tích nguyên nhân sâu sa, nhiều doanh nghiệp nội địa trong
giai đoạn khó khăn phải thu hẹp quy mô sản xuất dẫn đến nhu cầu nhập khẩu thấp.
Một đóng góp đáng kể nữa vào thặng dư thương mại là các tập đoàn đa quốc gia
dẫn dắt các chuỗi giá trị toàn cầu thời gian này đã rút khỏi Trung Quốc và Thái Lan
để chuyển hướng đầu tư sang Việt Nam, có thể kể đến các tập đoàn Công nghệ
thông tin, điện tử viễn thông lớn như Canon, Sony, Nokia và Samsung. Nhờ đó, giá
trị xuất khẩu hàng điện tử của Việt Nam đã tăng vọt gần 68% trong năm 2012,
chiếm 11.1% kim ngạch xuất khẩu và tăng tiếp 35% trong năm 2013. Xuất khẩu
điện thoại cũng tăng 85% và 67% trong 2 năm này. Điều này thể hiện thông qua
bảng dưới đây:
Nguồn: Tổng cục hải quan
Hình 2.4: Cơ cấu xuất khẩu theo nhóm hàng của Việt Nam 2012 và 2013
Sang quý I/2014, cán cân thương mại thặng dư khoảng 1 tỷ USD, trong đó
tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 33,4 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ 2013. Đến
cuối năm 2014, cán cân thương mại hàng hóa đạt thặng dư tới 2,4 tỷ USD đánh dấu
3 năm liên tiếp xuất siêu sau hơn một thập kỷ thâm hụt cán cân thương mại triền
miên và mức kỷ lục xuất khẩu 150 tỷ USD. Về biến động tỷ giá, năm 2014 được
đánh giá là năm thành công trong vấn đề ổn định tỷ giá của NHNN, khi biến động
tỷ giá chỉ ở mức 1% và chỉ số lạm phát khoảng 3,95% là mức thấp nhất trong 15
năm trở lại đây.
Năm 2015 như đã phân tích ở trên được coi là một năm nhiều thách thức trong
chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá trong bối cảnh đồng đô la Mỹ liên tục lên giá
do kỳ vọng Fed điều chỉnh tăng lãi suất và Trung Quốc bất ngờ điều chỉnh mạnh tỷ
giá đồng Nhân dân tệ. Tính chung trong năm 2015, NHNN thực hiện điều chỉnh
tăng tỷ giá 3% và nới biên độ thêm 2% từ mức +/-1% lên +/-3%. Cùng với biến
động trên thị trường tỉ giá, cán cân thương mại năm 2015 ghi nhận mức thâm hụt
lên 3,6 tỷ USD, tương đương 2,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong
đó, xuất khẩu dầu thô giảm mạnh trong cả sản lượng và trị giá do giá dầu giảm
mạnh trên thị trường thế giới. Tổng lượng xuất khẩu dầu thô năm 2015 khoảng 9,3
triệu tấn, giảm 0,6%; trị giá khoảng 3,6 tỷ USD, giảm 47,3% so với năm 2014.
Nhập khẩu tăng chủ yếu từ nhập máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác với tổng
trị giá nhập khẩu năm 2015 khoảng 27,6 tỷ USD, tăng 23,1% so với năm 2014.
Như vậy, có thể nhận xét chính sách tỷ giá của NHNN trong giai đoạn
2008-2015 chưa thực sự có nhiều ảnh hưởng tới cán cân thương mại Việt Nam mà
chỉ có tác dụng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam. Dù tỷ
giá USD/VND liên tục tăng nhưng cán cân thương mại không có nhiều cải thiện,
thậm chí có những thời kì nhập siêu lớn.
Nguyên nhân đầu tiên là do kinh tế Việt Nam vẫn đang trong quá trình phục
hồi từ khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu. Thứ 2, là do ở Việt Nam có sự phụ
thuộc quá cao giữa xuất khẩu và nhập khẩu nên khi tỷ giá tăng xuất khẩu tăng thì
nhập khẩu cũng tăng theo và tăng nhiều hơn mức tăng của xuất khẩu. Thêm vào đó,
thặng dư cán cân thương mại chưa thật sự bền vững, còn không ít hạn chế, nổi bật
là khu vực kinh tế trong nước vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nhập siêu triền miên
với quy mô lên tới hàng chục tỷ USD. Giá trị gia tăng từ hàng xuất khẩu không cao
do chủ yếu vẫn dừng lại ở trình độ gia công lắp ráp. Kim ngạch xuất khẩu tăng ở
một số nhóm hàng còn mang tính bị động, phụ thuộc vào chiến lược và kế hoạch
của các tập đoàn xuyên quốc gia lớn. Không chỉ vậy, chiến lược xuất nhập khẩu
chưa linh hoạt khi đối phó với những biến động của thị trường thế giới, nhất là
trước việc giá dầu thô sụt giảm mạnh trong năm 2015 hay lộ trình mở cửa thị
trường trong nước và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp quốc tế theo các
cam kết hội nhập song phương và đa phương. Phần tiếp theo, bài viết sẽ đưa ra
những đề xuất trong chính sách tỷ giá nhằm cải thiện hơn nữa cán cân thương mại
của Việt Nam.
III. Đề xuất giải pháp trong chính sách tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương
mại của Việt Nam
3.1. Điều hành tỷ giá nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa đồng
thời tạo ra một môi trường tài chính ổn định
3.1.1. Neo đồng tiền vào một rổ tiền tệ
Việt Nam có quan hệ ngoại thương với rất nhiều đối tác trên thế giới nên việc
neo tiền đồng vào một rổ tiền tệ của các nước là những đối tác thương mại truyền
thống, những đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại quốc tế của Việt Nam là
cần thiết. Từ đó Việt Nam có thể có được rất nhiều lợi ích như:
- Đánh giá chính xác hơn sức mua của tiền đồng và tác động của nó đối với
sức cạnh tranh xuất nhập khẩu với các đối tác thương mại chủ yếu.
- Giảm bớt sự lệ thuộc vào ngoại tệ mạnh như USD, khi neo vào một rổ tiền
có thể hạn chế những rủi ro về tỷ giá tốt hơn là neo vào một ngoại tệ duy nhất.
- Khuyến khích các nhà xuất nhập khẩu lựa chọn các loại tiền thanh toán khác
trong rổ tiền (như Euro, Yên Nhật, Bảng Anh…) nhằm tránh những khan hiếm quá
mức khi lựa chọn một loại ngoại tệ duy nhất là USD như hiện nay, từ đó giúp các
doanh nghiệp chủ động hơn trong thanh toán quốc tế.
3.1.2. Thận trong khi phá giá đồng nội tệ
Phá giá đồng nội tệ với mức độ vừa phải giúp hàng xuất khẩu tăng sức cạnh
tranh về giá. Về lý thuyết, chính sách đồng nội tệ yếu có thể tác động nâng cao năng
lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu. Tuy nhiên, đối với một nền kinh tế đang
phát triển như Việt Nam, nhập khẩu các mặt hàng máy móc, nguyên liệu, công nghệ
và thiết bị cũng như vay mượn các nguồn đầu tư từ nước ngoài là vô cùng quan
trọng thì phá giá tiền tệ sẽ gây nên một gánh nặng nợ nần lớn. Hơn nữa, hàng hóa
xuất khẩu từ Việt Nam chủ yếu là hàng thô chưa qua chế biến, hàng gia công … các
hàng hóa này có hàm lượng nguyên vật liệu đầu vào nhập từ nước ngoài rất lớn, chi
phí lao động trong nước thấp. Nếu tiền đồng bị làm cho mất giá, giá hàng xuất khẩu
có thể rẻ hơn tạo lợi thế cho hàng xuất khẩu, nhưng đồng thời chi phí cho nguyên
vật liệu nhập khẩu cũng tăng theo. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu có nguyên vật
liệu đầu vào nhập khẩu, việc giá nguyên vật liệu tăng lên làm tăng giá thành sản
phẩm và rất có thể họ phải tăng giá bán ra. Điều này cho thấy hiệu quả ròng của
việc phá giá đối với xuất khẩu là không rõ ràng. Đồng thời, việc tăng giá hàng nhập
khẩu có thể thúc đẩy lạm phát trong nước tăng lên.
Chính vì vậy, cần hết sức thận trọng khi phá giá mạnh, phá giá cần phải kết
hợp mở rộng quy mô xuất khẩu kết hợp với việc nâng cao khả năng tự cung tự cấp
nguyên liệu đầu vào, phát triển các loại hàng hóa thay thế để giảm chi phí nhập
khẩu. Ngoài ra, cần phải hạn chế những tác động tiêu cực khác của phá giá tiền tệ
bằng các biện pháp hỗ trợ như tăng cường hoạt động kiểm soát của NHNN đối với
giao dịch ngoại hối ở ngân hàng thương mại, cải tiến cơ chế hình thành tỷ giá …
3.1.3. Đẩy lùi tình trạng đô la hóa nền kinh tế
Như chúng ta đã thấy, việc sử dụng đồng USD trong niêm yết giá trong giao
dịch ngoại thương là rất phổ biến. Nếu nói đến giao dịch mua bán, thanh toán
thương mại có liên quan đến ngoại tệ thì USD chiếm một tỷ lệ lớn, NHNN khi
thông báo tỷ giá liên ngân hàng cũng sử dụng đồng USD để niêm yết. Rõ ràng đồng
USD là một đồng tiền mạnh và phổ biến, được hầu hết các nước trên thế giới sử
dụng trong thanh toán. Tuy nhiên, sự lệ thuộc quá nhiều vào một loại ngoại tệ trong
thanh toán không phải là một giải pháp tối ưu. Việc khan hiếm USD trên thị trường
ngoại hối đã làm méo mó thị trường và gây khó khăn cho các doanh nghiệp ở nước
ta trong thời gian qua là rất lớn, làm tăng áp lực giảm giá lên tiền đồng, làm tăng chi
phí cho các mặt hàng nhập khẩu, ảnh hưởng đến giá cả và gây áp lực lên lạm phát.
Việc khuyến khích các doanh nghiệp đưa các ngoại tệ khác, tham gia mạnh
hơn vào thị trường ngoại hối của Việt Nam là cần thiết để giảm những áp lực, rủi ro
tiềm ẩn từ tình trạng đô la hóa quá lớn ở nước ta hiện nay.
3.1.4. Xây dựng một hệ thống giám sát tài chính hiệu quả
Thường xuyên giám sát các hoạt động trên thị trường tiền tệ để kịp thời ngăn
chặn các hành vi lung loạn thị trường, đầu cơ … và cảnh báo nguy cơ xảy ra khủng
hoảng tiền tệ để kịp thời ứng phó. Phải xây dựng một cơ chế quản lý tỷ giá để hoạt
động trong điều kiện bình thường và một cơ chế được sử dụng khi có các cú sốc từ
bên ngoài hay khi khủng hoảng tiền tệ xảy ra.
3.2. Xây dựng cơ chế quản lý tỷ giá phù hợp với giai đoạn hội nhập
3.2.1. Lựa chọn cơ chế quản lý tỷ giá và thúc đẩy thị trường ngoại hối
Việc chỉ sử dụng đơn nhất một trong 3 công cụ tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi
hoàn toàn sẽ khiến các chính sách cứng nhắc và thiếu linh hoạt. Thực tế cho thấy,
NHNN đã đúng đắn khi lựa chọn cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết ở mức độ đơn
giản là dựa vào tỷ giá bình quân liên ngân hàng, neo tỷ giá vào một đồng tiền cố
định là USD, neo được điều chỉnh bằng biên độ giao động trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, cơ chế thả nổi có điều tiết cũng sử dụng theo hai chiều hướng là xu
hướng thả nổi nhiều hơn hoặc xu hướng điều tiết nhiều hơn. Đối với điều kiện cụ
thể ở Việt Nam, ngoài việc phải linh hoạt trong việc điều chỉnh cơ chế nghiêng về
thả nổi hay cố định, thời biến động thực tế, thời điểm hiện tại rất thích hợp để
NHNN tăng mức độ thả nổi hơn nữa nhằm giúp cho tỷ giá vận hành ngày càng sát
theo thị trường. Hơn nữa, tăng mức độ thả nổi còn vì một số lý do sau:
•
•
•
Cố định tỷ giá cứng nhắc sẽ tăng nguy cơ khủng hoảng tiền tệ.
Thả nổi giúp tỷ giá không bóp méo những tín hiệu từ thị trường.
Tăng khả năng tự phòng ngừa rủi ro cho doanh nghiệp.
3.2.2. Xây dựng kênh thông tin minh bạch về tỷ giá
Trong nền kinh tế thị trường, thông tin nhanh và tốt được xem là một lợi thế
không nhỏ trong quy luật cạnh tranh. Nhưng riêng đối với thông tin tỷ giá thì mức
độ ảnh hưởng sâu hơn cả về vi mô lẫn vĩ mô.
Khi người dân và doanh nghiệp không nắm rõ được tình hình tỷ giá như thế
nào thì họ thường rất dễ bị lung lay trước những quan điểm phiến diện vì họ thiếu
cơ sở để kiếm chứng và đặt lòng tin, đó là yếu tố không chắc chắn về niềm tin dẫn
đến tâm lý bầy đàn, ứng xử của những người này sẽ hành xử theo tâm lý số đông.
Điều này đã làm méo mó thị trường và phải nhờ đến sự can thiệp của nhà nước.
Vì vậy, việc xây dựng một kênh thông tin chính thức về tỷ giá để tạo lòng tin
là rất cần thiết, một mặt phản ảnh được mức độ thông tin rõ ràng, minh bạch trong
dân chúng, tránh những nguy cơ đầu cơ làm lũng đoạn thị trường, một mặt thể hiện
được lòng tin vào chính sách điều hành tỷ giá của Chính phủ, cũng là nơi cung cấp
thông tin chính xác để các cá nhân, tổ chức căn cứ vào đó lập kế hoạch, định hướng
chính sách phát triển kinh doanh phù hợp với thực tế, ổn định và chắc chắn hơn.
3.2.3. Không lạm dụng vai trò tỷ giá để tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa
Chính sách tỷ giá phải được đặt trong một bức tranh tổng thể của nền kinh tế
Việt Nam. Tỷ giá ảnh hưởng đến nợ quốc gia, lạm phát, cán cân thương mại, cán
cân thanh toán, tổng thu nhập quốc dân… Vì vậy tỷ giá không chỉ sử dụng cho việc
làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước mà phải gắn với sự ổn định
và phát triển chung của nền kinh tế. Chính phủ cần phối hợp đồng bồ các chính sách
giá cả, tiền tệ và tài khóa, tập trung cho dự báo kinh tế, phản ứng kịp thời trước
những biến động của nền kinh tế. Thay vì sử dụng công cụ tỷ giá để hỗ trợ cho hàng
hóa xuất khẩu, Chính phủ cần có các biện pháp nhằm tăng năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế, cải cách cơ cấu mạnh mẽ hơn nữa, tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước, cải thiện chỉ số hiệu quả sử dụng vốn…
Tuy nhiên, không thể phủ nhận hoàn toàn vai trò của tỷ giá trong việc hỗ trợ
cho hàng hóa xuất khẩu. Việc định giá đồng tiền quá cao sẽ làm giảm đi khả năng
cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, cho nên cần phải xây dựng một mức tỷ giá mục
tiêu mà ở đó có thể hỗ trợ được cho hàng hóa xuất khẩu, một mặt nó vẫn có thể đảm
bảo được các mục tiêu vĩ mô khác.
3.3. Phối hợp đồng bộ chính sách tỷ giá với các chính sách kinh tế vĩ mô khác
Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách tỷ giá hối đoái đối với việc
cải thiện cán cân thương mại, cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ
mô khác như chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ và các chính sách xuất nhập
khẩu. Tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn đến cán cân thương mại, tuy nhiên nếu
việc thực hiện các chính sách tỷ giá một cách đơn lẻ và thiếu đồng bộ sẽ không
mang lại hiệu quả cao bởi hoạt động xuất nhập khẩu còn chịu tác động của rất nhiều
các yếu tố. Trong khuôn khổ thể chế và bối cảnh nền kinh tế hiện nay, NHNN
không thể tự mình giải quyết bài toán tỷ giá do giới hạn về thẩm quyền của NHNN
và hiệu lực của chính sách tiền tệ, cũng như cơ cấu của nền kinh tế. Vì vậy, rất cần
phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách tỷ giá và các chính sách ngoại
thương, sự thống nhất và kết hợp chặt chẽ giữa chính phủ và NHNN trong đó vai
trò của NHNN là hết sức quan trọng.
KẾT LUẬN
Đề cập đến chính sách tỷ giá ở Việt Nam là một vấn đề hết sức nhạy cảm, liên
quan đến hàng loạt các yếu tố cấu trúc kinh tế và cả các vấn đề chính trị, xã hội.
Qua việc nghiên cứu đề tài: “Tác động của tỷ giá hối đoái tới cán cân thương mại
Việt Nam”, nhóm tác giả đã đạt được những kết quả sau:
i)
Khái quát, tổng hợp lại các định nghĩa về tỷ giá hối đoái, chính sách tỷ
giá hối đoái và ảnh hưởng của các chính sách này tới nền kinh tế quốc dân.
ii) Dựa trên những dữ liệu thông kế được, bài viết đã phân tích chính sách tỷ
giá hối đoái của Việt Nam từ năm 2008 đến nay và tác động của nó tới các cân
thương mại Việt Nam
iii) Dựa trên những phân tích đó, bài viết đã đưa ra những đánh giá về chính
sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian qua và đề xuất những giải pháp
nhằm khắc phục những hạn chế của chính sách.
Tuy nhiên do hạn chế về mặt thời gian và nguồn lực, một số vấn đề vẫn chưa
được nghiên cứu toàn diện, cũng như bài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Nhóm tác giả rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo để bài viết được
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Anh:
1. Frederic S.Mishkin, 2006, The economics of money banking and financial
market 7th edition, tr.436, Prentice Hall;
Tài liệu tiếng Việt:
1. Hoàng Xuân Bình, 2015, Giáo trình “Kinh tế vĩ mô cơ bản”, tr.274-278,
trường đại học Ngoại Thương;
2. Nguyễn Văn Tiến, 2010, Giáo trình “Tài chính quốc tế”, tr.254-267, NXB
thống kê;
3. Nguyễn Trần Phúc, 2009, Từ các quyết định về tỉ giá của Ngân hàng Nhà
nước;
4. Nguyễn Văn Tiến, 2003, Tỷ giá thực và tác động của nó đến cán cân
thương mại, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 12 năm 2003;
5. Trường đại học Fulbright, 2014, Giáo trình “Kinh tế học vĩ mô”, tr.71-81;
6. Hạ Thị Thiều Dao và Phạm Thị Tuyết Trinh, 2013, Mối quan hệ giữa tỉ giá
hối đoái và cán cân thanh toán, tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng;
Website tiếng Việt:
1. Tổng
cục
hải
quan,
truy
cập
lần
cuối
ngày
15/05/2016,
/>2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, truy cập lần cuối ngày 15/05/2016,
/>3. Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Vietcombank,
truy
cập
lần
cuối
ngày
15/05/2016,
/>4. Nguyễn Minh, 2015, Nhìn lại chặng đường tỷ giá VND/USD từ năm 2008
đến nay, An ninh tiền tệ và truyền thông, truy cập lần cuối ngày 15/05/2016,
/>