Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận nghiên cứu nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giam, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.64 KB, 18 trang )

1
MỤC LỤC
Tài liệu tham khảo : .................................................................................2
Một số định nghĩa : ..................................................................................3
Lời mở đầu :.............................................................................................4
Nội dung :..................................................................................................
CHƯƠNG I: Lý luận chung về vấn đề .
I.1: Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo......................................................5
I.2: Phân tích nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.....................................................6
I.3: Ý nghĩa của nguyên tắc quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.....................................................8
CHƯƠNG II : Thực trạng vấn đề.
II.1: Thuận lợi ...............................................................................10
II.2: Khó khăn................................................................................11
CHƯƠNG III : Giải pháp vấn đề .
III.1 : Giải pháp khắc phục............................................................13
III.2 : Đề xuất phát triển................................................................14
KẾT LUẬN .............................................................................................17


2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. (Nxb Lao
động)
Hiến Pháp năm 2013 (Nxb Lao động).
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Nxb Lao động).
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Trường Đại học luật Hà Nội (Nxb Công
an nhân dân ).
Giáo trình Luật tố tụng Việt Nam -Trường Đại học luật Hà Nội (Nxb Công


an nhân dân ).
Bản tổng kết ý kiến tại hội thảo “Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, Liên đồn Luật sư Việt Nam và UNDP phối hợp tổ chức, Tp. Hồ Chí
Minh, 02- 03/12/2010.
Bản cáo trạng vụ án giết 6 người ở Bình Dương


3
MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA
Bị can có nghĩa là người đã bị khởi tố về hình sự
Bị cáo có nghĩa là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Người bị tạm giữ có nghĩa là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và
đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
Cán bộ tư pháp là những cán bộ của cơ quan tư pháp hoặc cán bộ của cơ quan tiến
hành tố tụng.
Cơ quan tiến hành tố tụng là những cơ quan được pháp luật xác định là chủ thể của
các quan hệ tố tụng và được giao những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định, bao
gồm cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án trong vụ án hình sự, hoặc bao gồm
tịa án, viện kiểm sát trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính.
Cơ quan tư pháp là cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp, một trong 3 quyền
của quyền lực nhà nước. Xét theo sự phân công, các cơ quan tư pháp có chức năng
bảo vệ luật pháp hoặc giải quyết các tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao động, hành
chính giữa các thể nhân hoặc giữa các thể nhân và pháp nhân, nhân danh nhà nước
đưa ra các phán xét, phán quyết đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của thể nhân,
pháp nhân5. Trong Nghiên cứu này đề cập đến Cơ quan tư pháp là nhằm đề cập
đến bản chất “quyền tư pháp” của tòa án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra.
Luật sư chỉ định có nghĩa là luật sư được Đoàn luật sư cử tham gia tố tụng trong
các Vụ án chỉ định.
Luật sư mời có nghĩa là luật sư được các đương sự mời để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của họ trong các vụ án hình sự, vụ việc dân sự, vụ án hành chính hoặc
được bị can, bị cáo, người bị tạm giữ hoặc người đại diện hợp pháp của họ mời để
bào chữa cho họ trong vụ án hình sự.
Người bào chữa có nghĩa là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo


4

LỜI MỞ ĐẦU
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một quyền quan trọng của
công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và đã
được quy định rõ ở khoản 4 điều 31 Hiến pháp 2013. Đồng thời đây cũng là một
nguyên tắc đặc thù của luật Tố tụng hình sự (TTHS). Việc thực hiện ngun tắc
này trên thực tế đã góp phần khơng nhỏ vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; giúp cơ quan điều tra (CQĐT), Viện
kiểm sát (VKS) và Toà án giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy
đủ, nhanh chống tìm ra sự thật.
Tuy nhiên, thực tiễn TTHS cho thấy, việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được thực hiện một cách đầy đủ, nhiều cơ quan tiến
hành tố tụng (THTT), người THTT và những người tham gia tố tụng vẫn còn xem
nhẹ nguyên tắc này. Vai trò của người bào chữa cũng chưa được mọi người xem
trọng. Tình trạng bắt, giam giữ, án oan sai vẫn còn tồn tại. Mặt khác, vấn đề lý luận
của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo... vẫn
cần được nghiên cứu và làm tăng tính năng của nguyên tắc trong đời sống thực
tiễn, cụ thể là trong quá trình tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay.
Nắm bắt được vấn đề đó nhóm em đã đào sâu nghiên cứu với đề tài : Bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một trong những nguyên tắc
quan trọng của Luật tố tụng Việt Nam. Bằng những hiểu biết đã có, phân tích, đánh
giá thực tiễn việc áp dụng quy định này ở Việt Nam.



5
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG.

I.1: Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (
Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003).

Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy định nhằm đảm bảo
cho những người này trình bày quan điểm cuả mình đối với việc buộc tội, đưa ra
các chứng cứ cần thiết, đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét tình tiết
minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình theo quy định của pháp
luật. Nói cách khác, quyền bào chữa là tất cả các quyền mà pháp luật quy định để
chống lại sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thực hiện quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là điều kiện cần thiết giúp các cơ quan
tiến hành tố tụng xử lí vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trên cơ sở quy
định tại Khoản 4, Điều 31 Hiến pháp năm 2013, Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự đã
ghi nhận nguyên tắc này với nội dung sau:
“Điều 11. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật
này.”


6
I.2: Phân tích nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo( điều 11 BLTTHS năm 2003).


Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa.

- Khác với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định chủ thể của
quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can, bị cáo, thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
đã mở rộng phạm vi chủ thể của quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo,
mà còn thuộc về người bị tạm giữ. Khi tự bào chữa cho mình, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để chứng minh mình vơ tội,
sự thật không đúng như hồ sơ vụ án hay chứng minh giảm nhẹ tội mình,..
- Nếu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khơng tự mình bào chữa thì họ có thể nhờ
người khác bào chữa. Người bào chữa (người khác) có thể là luật sư, bào chữa viên
nhân dân hoặc người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo.
+ Luật sư là người bào chữa chuyên nghiệp, hoạt động trong đoàn luật sư. Luật sư
và người bào chữa khơng hồn tồn đồng nhất với nhau. Luật sư chỉ tham gia tố
tụng với tư cách là người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
+ Bào chữa viên nhân dân là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ
chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình
trong những trường hợp theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo quyền và lợi ích
chính đáng của bị can, bị cáo, trong những trường hợp do pháp luật quy định, nếu
bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ khơng mời người bào chữa thì
cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án phải yêu cầu đồn luật sư phân cơng văn
phịng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc để nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ
chức mình trong những trường hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố
tụng hình sự.


7
+ Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng có thể tham

gia tố tụng với tư cách là người bào chữa trong trường hợp người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể là
cha, mẹ, người giám hộ,... của họ.
- Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bao gồm “quyền tự bào
chữa” và “quyền nhờ người khác bào chữa”. Hai quyền này có thể “song song tồn
tại” mà khơng loại trừ lẫn nhau. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào
chữa đồng thời cũng có cả quyền nhờ người khác bào chữa và ngược lại khi đã nhờ
người khác bào chữa thì họ vẫn có quyền trình bày lời bào chữa.

Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tịa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ.

- Luật tố tụng hình sự khơng chỉ quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền
bào chữa mà cịn có những đảm bảo cần thiết để quyền bào chữa của họ được thực
hiện. Cụ thể là họ phải được giao nhận quyết định khởi tố, bản kết luận điều tra sau
khi kết thúc điều tra, bản cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử để chuẩn bị bào
chữa. Trong quá trình bào chữa họ có thể trình bày rất cả những gì trên cơ sở của
pháp luật để làm rõ là mình khơng có tội hoặc giảm nhẹ tội.


8
I.3 : Ý nghĩa của nguyên tắc quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một
trong những nguyên tắc quan trọng của tố tụng hình sự Việt Nam. Việc thực hiện
nguyên tắc đem lại một số ý nghĩa to lớn nhất định, đó là :
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là sự thể hiện cụ thể của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong
TTHS.

Vấn đề nhân quyền ln là điểm nóng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đặc
biệt, các thế lực phản động và hiếu chiến ln lấy vấn đề nhân quyền để kích động
nhân dân, chống phá cách mạng. Hiện nay, đất nước ta đang trên đà phát triển
mạnh mẽ về kinh tế - xã hội nhưng song song với đó, Nhà nước ln chú ý tới việc
phát huy tồn diện quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo đảm các quyền con
người. Việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan ghi nhận quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước các cơ quan THTT và cơ chế bảo
đảm việc thực hiện là nhiệm vụ của cơ quan đó đã chứng tỏ bản chất ưu việt của
Nhà nước ta.
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thể hiện tính nhân đạo XHCN.
Tính nhân đạo được thể hiện, trong những trường hợp theo quy định của pháp luật,
nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ khơng mời người bào chữa
thì CQĐT, VKS hoặc Toà án yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ. Các
trường hợp đó là: bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử
hình theo quy định tại Bộ luật hình sự; bị can, bị cáo là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Thứ ba, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
biểu hiện của tính dân chủ XHCN trong hoạt động TTHS.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã tạo
điều kiện thuận lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có cơ hội đưa ra những
chứng cứ minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội cho mình, cơ hội được tranh tụng bình
đẳng trước Toà án.


9
Thứ tư, thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo góp phần tích cực vào việc bảo vệ pháp chế XHCN, củng cố lòng tin
của quần chúng nhân dân vào hoạt động của hệ thống Tư pháp hình sự.
Thứ năm, thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm
trong q trình tố tụng khơng để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo
đảm điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.


10
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
II.1: Những thuận lợi của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo đem lại trong quá trình tố tụng hình sự.
Thứ nhất: thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã giúp
các cơ quan tiến hành tố tụng xử lí vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
VD: Ta có thể thấy rõ qua một số vụ án oan sai được phát hiện ra gần đây. Cụ thể
là vụ án “tử tù “ Hàn Đức Long. Nhờ có luật sưn bào chữa luôn tin ông vô tội, suốt
10 năm nghiên cứu vụ án, một lịng tìm ra sự thật. Và cuối cùng ông Hàn Đức
Long thực hiện quyền bào chữa của mình thơng qua luật sư Ngơ Ngọc Trai – luật
sư bào chữa để minh oan cho những cáo buộc trước đó.
Thứ hai: việc thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo đã tạo điều kiện để người phạm tội được giảm nhẹ mức án có thể.
VD: Vụ án giết 6 mạng người ở Bình Phước năm 2015. Nhờ có quyền bào chữa,
người bào chữa cho bị cáo đã đưa ra những lập luận giúp bị cáo Trần Đình Thoại
giảm nhẹ mức hình phạt xuống 18 năm tù giam.
Thứ ba: Việc thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo đã góp phần vừa thể hiện tính nhân đạo của nhà nước vừa củng cố
lòng tin của quần chúng nhân dân vào pháp luật. Cụ thể qua việc cơ quan điều tra,
viện kiểm sát, tòa án được giao quyền khởi tố, điều tra, xét xử phải chỉ định người
bào chữa ( luật sư chỉ định,..).
Tóm lại nhờ có nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giam, bị can,
bị cáo mà quá trình tố tụng đạt kết quả tốt nhất, tìm ra được sự thật, khơng oan sai,
khơng trái pháp luật.



11
II.2 Khó khăn.
Sau khi BLTTHS có hiệu lực pháp luật, việc tham gia tố tụng của người bào chữa
đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, giúp cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án giải quyết vụ án một cách khách quan, tồn diện, đầy đủ.
Mặc dù bước đầu cịn những khó khăn nhất định nhưng việc tham gia tố tụng của
họ nói chung đã đáp ứng được yêu cầu bào chữa và đạt kết quả đáng kể. Tuy nhiên
bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động bào chữa cịn có những hạn chế
nhất định:.
Thứ nhất : Người dân ít hiểu biết về pháp luật, chưa thấy rõ được vai trị của
quyền bào chữa trong các vụ án hình sự.
VD: Vụ án Tăng Muộn phạm tội bức tử ở Quảng Ngãi. Tăng Muội là người
đàn ông yêu thương vợ, con. Chỉ vì lỡ tay tát vợ một lần khi cãi nhau, người vợ
giận chồng uống thuốc tự tử. Bị cáo Tăng Muội bị tòa án nhân dân huyện Mộ Đức,
Quảng Ngãi tuyên án phạt tù về tội bức tử. Vụ án được đưa ra xem xét theo thủ tục
giám đốc thẩm vì có sai lầm trong việc áp dụng BLHS. Ủy ban thẩm phán tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã mở phiên tòa giám đốc thẩm và tuyên bố Tăng Muộn
vô tội. Được hỏi sao không kháng cáo ngay khi xét xử sơ thẩm, Tăng Muội đã trả
lời:” Sau khi vợ chết em thấy mình có lỗi vì quá nóng giận, lại suốt ngày đi đốn củi
đong gạo ni con, có biết gì về pháp luật đâu”.
Thứ hai: Trong hoạt động bào chữa của mình, nhiều luật sư còn thiếu tinh
thần trách nhiệm với thân chủ, mặt bằng về trình độ chun mơn của người bào
chữa cịn yếu.
Thứ ba : Vai trò của người bào chữa trong thực tế còn hạn chế và trong thực
tế nhiều khi chưa được một số cơ quan có thẩm quyền thực sự tôn trọng, chưa tạo
điều kiện cho người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình như việc tham gia tố
tụng của người bào chữa sau khi có quyết định khởi tố bị can cịn gặp nhiều khó
khăn; nhiều trường hợp sau khi ra quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra đã
không giao quyết định này và cũng khơng giải thích cho bị can biết rõ quyền và

nghĩa vụ của mình. Do vậy, bị can khơng biết là mình có quyền nhờ người bào
chữa ngay từ khi bị khởi tố mà họ cứ tưởng khi ra toà mới được mời luật sư.


12
Thứ tư : Đối với những trường hợp bào chữa chỉ định vì nhiều lí do khác
nhau mà việc bào chữa thường chỉ mang tính hình thức, qua loa, đại khái.
Thứ năm : Do khoản 2 Điều 36 BLTTHS quy định: “Người bào chữa có
quyền có mặt khi hỏi cung bị can, nếu được điều tra viên đồng ý thì được hỏi
bị can”. Theo quy định này thì việc có cho phép được hỏi bị can hay khơng là
hồn tồn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của điều tra viên, cho nên có trường hợp
điều tra viên khơng cho người bào chữa hỏi mà chỉ cho “ngồi nghe” hỏi cung. Điều
tra viên dường như không để ý đến sự có mặt của người bào chữa và ý kiến đề xuất
của họ.
Đối với các hoạt động điều tra khác thì hầu như người bào chữa cũng không được
tham gia mặc dù có trường hợp họ rất muốn tham gia nhưng đều bị điều tra viên từ
chối. Sau khi kết thúc điều tra, hầu hết cơ quan điều tra không thông báo cho người
bào chữa biết về việc kết thúc điều tra. Việc này đã làm cho người bào chữa gặp
khó khăn trong việc đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc
điều tra. Thực tế có nơi cán bộ điều tra khuyên bị can thuê luật sư là vơ ích vì tội
trạng đã rành rành và vụ án đã được quyết định.
Thứ sáu: Vai trò của người bào chữa tại phiên toà xét xử cũng cịn nhiều hạn
chế nhất định vì nhiều lí do khác nhau. Hội đồng xét xử tin vào các chứng cứ do
viện kiểm sát điều tra ra hơn chứng cứ của người bào chữa. Tồ án cịn coi nhẹ vai
trị của người bào chữa như “sự trang trí tại phiên tồ”, sự tham gia của họ “chỉ để
cho đủ lệ bộ, thủ tục”.


13
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP VẤN ĐỀ

III.1 : Giải pháp khắc phục:
-Nâng cao kiến thức pháp luật cho người dân, nâng cao chuyên môn cho
người thi hành pháp luật cũng như luật sư.
-Tẩy chay, phịng chống triệt để tình trạng quan liêu, ép cung, tham ô, tham
nhũng kết án oan sai người vô tội.
-Các trại tạm giam, trại tạm giữ cần được nâng cấp về phương tiện để bảo
đảm cho luật sư có thể giao tiếp một cách riêng tư với khách hàng nhưng vẫn bảo
đảm được sự an toàn của luật sư, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
-Thù lao và cơ chế trả thù lao mà cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan TGPL
trả cho các luật sư để làm công tác bào chữa trong các vụ án chỉ định hay các vụ án
TGPL cần phải được cải tiến. Thù lao thấp và cơ chế chi trả thù lao phức tạp cũng
làm ảnh hưởng đến chất lượng và tính “độc lập” của cơng tác bào chữa.
-Pháp luật Việt Nam cần bổ sung các quy định về quyền được hoãn thủ tục
tố tụng để tham vấn người bào chữa. Nếu được như vậy, vai trò của luật sư trong
hoạt động tố tụng hình sự được nâng cao. Tuy nhiên, cơ chế này cần phải được
nghiên cứu thấu đáo để bảo đảm được cơng tác điều tra, phịng và chống tội phạm
được liên tục, khách quan và công bằng
-Các cơ quan nhà nước cần phải hỗ trợ và bảo đảm quyền tự bào chữa cho bị
can, bị cáo, như hướng dẫn cụ thể các quy định pháp luật liên quan đến quyền tự
bào chữa, cung cấp BLTTHS, Bộ luật Hình sự để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
tự nghiên cứu và bào chữa, quyền được đề nghị chấm dứt với người bào chữa do
cơ quan tố tụng chỉ định.
-Các cơ quan nhà nước có liên quan, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các
ĐLS địa phương cần phải có những hoạt động giám sát về đạo đức, tính chuyên
nghiệp của luật sư nhằm hạn chế những luật sư thiếu năng lực, hay hành nghề thiếu
tính chuyên nghiệp, thiếu cẩn thận… Đồng thời Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần
nghiên cứu ban hành những bộ quy tắc về đạo đức, chuyên môn nghề nghiệp của
luật sư và các biện pháp chế tài đối với các luật sư không thực hiện nghiêm chỉnh
các quy định pháp luật, quy tắc đạo đức để bảo đảm quyền bào chữa của nhân dân.



14
III.2 : Đề xuất phát triển:
– Thứ nhất: Khoản 1 Điều 36 BLTTHS quy định: “Người bào chữa tham gia tố
tụng từ khi khởi tố bị can“. Quy định này có thể hiểu theo 2 hướng khác nhau là
người bào chữa phải tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can hoặc người bào chữa
không bắt buộc phải tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Thực tế thì chúng ta
đều thấy rằng người bào chữa khơng bắt buộc phải tham gia tố tụng từ khi khởi tố
bị can. Do vậy, chúng tôi đề nghị sửa quy định trên là: “Người bào chữa được tham
gia tố tụng từ khi khởi tố bị can“.
– Thứ hai: Điểm a khoản 2 Điều 36 BLTTHS quy định: “Người bào chữa có
quyền có mặt khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị
can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác“. Có thể nói đây là một quy
định “tùy nghi“, do vậy, khi áp dụng không thể tránh khỏi những trường hợp điều
tra viên lạm dụng quy định này mà không tạo điều kiện cho người bào chữa tham
dự việc hỏi cung bị can và các hoạt động điều tra khác. Quy định “… nếu được
điều tra viên đồng ý…” e rằng khơng phù hợp. Bởi lẽ, vấn đề này hồn tồn phụ
thuộc vào ý chí cá nhân của điều tra viên, tức là nó phụ thuộc vào trình độ nhận
thức của mỗi điều tra viên. Do vậy, rất có thể cùng một sự việc nhưng điều tra viên
này thì đồng ý cho người bào chữa hỏi bị can còn điều tra viên khác thì khơng
đồng ý. Vấn đề này chúng tơi đề nghị cần sửa đổi theo hướng: “Người bào chữa có
quyền có mặt khi hỏi cung bị can; được hỏi bị can và tham gia các hoạt động điều
tra khác, nếu điều tra viên khơng đồng ý thì phải ghi rõ lí do vào biên bản“.
– Thứ ba: Khoản 2 Điều 36 BLTTHS cũng quy định: “… người bào chữa được
đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra“.
Theo chúng tôi, quy định này chưa phù hợp và có phần nào mâu thuẫn với khoản 1
Điều 36 BLTTHS. Theo khoản 1 Điều 36 thì người bào chữa được tham gia tố tụng
từ khi khởi tố bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác. Do vậy, có thể
cho họ đọc hồ sơ từng phần hoặc toàn bộ để họ có thể đưa ra ý kiến bổ sung hồ sơ,
giúp điều tra viên làm sáng tỏ các tình tiết của đối tượng chứng minh trong vụ án

được nhanh chóng và khách quan. Nếu trong quá trình tham gia các hoạt động điều
tra hoặc đọc hồ sơ mà họ làm lộ bí mật điều tra thì phải chịu trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật.


15
– Thứ tư: Khoản 2 Điều 37 BLTTHS qui định: “Trong những trường hợp sau
đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người
bào chữa thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc toà án phải yêu cầu đoàn
luật sư cử người bào chữa cho họ: a. Bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định
tại BLHS; b. Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
thể chất hoặc tâm thần“.
Đây là trường hợp bào chữa “bắt buộc” nhưng chỉ “bắt buộc” đối với cơ quan điều
tra, viện kiểm sát và tồ án. Do đó, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của
họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Nếu bị can, bị cáo hoặc
người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố
tụng phải lập biên bản ghi rõ ý kiến này và tiến hành tố tụng khơng cần có sự tham
gia của người bào chữa.
Để bảo đảm cho việc quyết định đối với bị can, bị cáo được khách quan và chính
xác đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ trong trường hợp bị hạn
chế năng lực hành vi, theo chúng tôi không nên đồng nhất trường hợp bị can, bị
cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là
tử hình được quy định tại BLHS (bị can, bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi) với
trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể
chất hay tâm thần (bị can, bị cáo bị hạn chế năng lực hành vi). Hai trường hợp này
cần được quy định phân biệt với nhau chứ không nên qui định như nhau. Cụ thể là
nếu bị can, bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi như trường hợp thứ nhất tại khoản 2
Điều 37 BLTTHS thì họ có quyền từ chối người bào chữa nhưng nếu bị can, bị cáo
bị hạn chế năng lực hành vi như trường hợp thứ hai tại khoản 2 Điều 37 BLTTHS

thì họ lại khơng có quyền từ chối người bào chữa trong bất kì trường hợp nào.
– Thứ năm: Đoạn 1 Điều 12 BLTTHS quy định: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa“. Quy định trên theo chúng tôi chưa thể
hiện đầy đủ nội dung quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Quyền bào chữa của bị
can, bị cáo gồm có hai bộ phận khơng thể tách rời nhau, đó là “tự bào chữa” và
“nhờ người khác bào chữa”. Hai bộ phận này không thể loại trừ lẫn nhau. Bị can,
bị cáo có quyền tự bào chữa đồng thời cũng có cả quyền nhờ người khác bào chữa
và ngược lại, bị can, bị cáo đã nhờ người khác bào chữa thì họ vẫn có thể tự bào
chữa để bổ sung ý kiến của người bào chữa.


16
Do vậy, chúng tôi đề nghị thay từ “hoặc” bằng từ “và“. Như vậy, nội dung của quy
định trên sẽ là: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa“.
– Thứ sáu: Đoạn 1 Điều 165 BLTTHS quy định: “Người bào chữa có nghĩa vụ
tham gia phiên tòa. Nếu người bào chữa vắng mặt nhưng có gửi trước bản bào
chữa thì tịa án vẫn mở phiên tịa xét xử“.
Theo chúng tơi, quy định này trong thực tế đã bộc lộ nhiều điểm bất hợp lí như đã
phân tích ở phần thực trạng về việc thực hiện nguyên tắc này. Do vậy, chúng tôi đề
nghị sửa đổi Điều 165 BLTTHS theo hướng: “Người bào chữa có nghĩa vụ tham
gia phiên tồ, nếu người bào chữa vắng mặt thì hội đồng xét xử phải hỗn phiên
tồ“.
– Thứ bảy: BLTTHS mới chỉ quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa khi
bào chữa cho bị can, bị cáo chứ chưa quy định cơ chế để họ thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình. Do vậy, chúng tôi đề nghị bổ sung thêm một khoản trong Điều
36 của BLTTHS như sau: “Trường hợp quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
không được thực hiện theo quy định của pháp luật mà họ cho là khơng đúng thì
người bào chữa có quyền kiến nghị với thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng cùng
cấp hoặc thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng cấp trên trực tiếp. Cơ quan tiến hành
tố tụng có trách nhiệm trả lời cho người bào chữa“.



17
KẾT LUẬN
Quyền bào chữa phát sinh trên cơ sở sự buộc tội của các cơ quan THTT đối với
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và là quyền năng cơ bản, đặc thù chỉ thuộc về
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sử dụng
mọi biện pháp pháp luật quy định nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc
tội của các cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hay loại trừ trách nhiệm hình sự của mình
trong vụ án hình sự. Các cơ quan THTT có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy
định trên cơ sở quyền con người và thực tiễn THTT. Nguyên tắc này được ghi nhận
trong tất cả các bản Hiến pháp đã ban hành đồng thời nó cũng là một nguyên tắc
đặc thù của luật TTHS Việt Nam. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và
sự mở rộng dân chủ ở nước ta, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Đặc biệt, Bộ luật
TTHS 2003 cùng những văn bản có liên quan đó cú những quy định rất đáng ghi
nhận về mở rộng quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can bị cáo.
Tuy nhiên, thực tiễn TTHS cho thấy, việc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn còn những hạn chế, vướng mắc do thiếu sót của pháp
luật; do nhận thức chưa đầy đủ của những người THTT, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo; do tổ chức hệ thống các cơ quan THTT còn nhiều bất cập... Vì vậy, việc
nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân nói chung và những người THTT, tham
gia tố tụng nói riêng; việc sửa đổi bổ sung, hoàn thiện pháp luật đồng thời kiện
toàn tổ chức của những cơ quan THTT là hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả
của việc thực hiện nguyên tắc này.
Đất nước ta đang trên đà phát triển về mọi mặt, hy vọng rằng trong lĩnh vực pháp
lý nói chung và trong lĩnh vực TTHS nói riêng sẽ có những bước phát triển tạo cơ



18
sở pháp lý vững chắc cho quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
được thực hiện có hiệu quả hơn nữa trên thực tế.



×