Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tiểu luận thị trường tiền tệ Việt Nam_ FTU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.64 KB, 36 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT

NHNN

Ngân hàng nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHTW

Ngân hàng trung ương

TCTD

Tổ chức tín dụng

OMO

Thị trường mở

TPCP

Trái phiếu chính phủ

CSTT

Chính sách tiền tệ



KBNN

Kho bạc nhà nước


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1.Diễn biến giao dịch trên thị trường liên ngân hàng những năm gần đây
Biểu đồ 2.2.Lãi suất liên ngân hàng cuối năm 2015 và đầu 2016
Biểu đồ 2.3 : Lãi suất liên ngân hàng quý I năm 2016
Biểu đồ 2.4. Giá trị gọi thầu và trúng thầu TPCP từng tháng trong năm 2015
Biểu đồ 2.5. Khối lượng giao dịch và kỳ hạn phát hành TPCP
những năm gần đây
Biểu đồ 2.6.Diễn biến giao dịch trên OMO những năm gần đây
Biểu đồ 2.7.Diễn biến tỷ giá và dollar-index từ 1/2012 đến 5/2015..... ...............



LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tiền tệ Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện
gắn liền với tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay,
mặc dù thị trường tiền tệ Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai
trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ
cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong
nền kinh tế. Đặc biệt, thị trường đã thực hiện chức năng cân đối, điều hòa nguồn
vốn giữa các ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho các ngân hàng đảm bảo khả năng
thanh toán, hoạt động an toàn và hiệu quả. Thông qua các hoạt động trên thị
trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện điều tiết tiền
tệ nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Có thể khẳng định rằng, thị trường
tiền tệ Việt Nam đã góp phần nhất định trong quá trình phát triển kinh tế đất

nước, nhất là quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển thị trường tiền tệ các nước trên thế giới,
thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn còn non trẻ và nhiều bất cập, cần đẩy nhanh hoàn
thiện để phát triển. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X
xác định phát triển thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc phát triển
đồng bộ các yếu tố thị trường. Do đó việc đánh giá đúng thực trạng các kết quả
đạt được, các hạn chế của thị trường tiền tệ Việt Nam trong thời gian qua và đề ra
mục tiêu, định hướng, giải pháp phát triển thị trường trong những năm tới có ý
nghĩa rất lớn để tiếp tục hoàn thiện thị trường tiền tệ, đáp ứng yêu cầu của sự

4


nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Xuất phát từ những lý do trên, nhóm em đã lựa chọn đề tài: “Thị trường tiền tệ Việt
Nam – Hiện trạng và giải pháp” làm chủ đề nghiên cứu của nhóm.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
-

Đánh giá thực trạng những kết quả đạt được và những hạn chế trong quá trình hình thành và
phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam trong những năm gần đây;

-

Xác định nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém của thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay;

-


Đưa ra mục tiêu, định hướng và giải pháp thực hiện phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam trong
những năm tới;
Phương pháp nghiên cứu, thu thập dữ liệu:
Nhóm sử dụng phương pháp phân tích định tính dựa trên cơ sở nguồn dữ liệu thứ cấp
thu thập từ tài liệu tạp chí chuyên ngành và báo cáo thống kê chuyên ngành ngân hàng.
Cấu trúc bài viết:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bài viết gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về thị trường tiền tệ.
Phần 2: Thực trạng thị trường tiền tệ Việt Nam.
Phần 3: Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam.

5


PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
1.1.Khái niệm, vai trò và phân loại thị trường tiền tệ:
1.1.1.Khái niệm:
“Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn có kỳ hạn dưới
một năm, là nơi đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho nền kinh tế”
Ở nước ta, thị trường tiền tệ mới hình thành, công cụ giao dịch trên thị trường tiền tệ
còn ít nên luật pháp cho phép các giấy tờ có giá dài hạn được phép giao dịch trên thị trường tiền
tệ. Theo điều 9, luật sửa đổi một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước (2003) định nghĩa: “Thị
trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá, bao gồm tín
phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác”.

1.1.2.Vai trò:
Là nơi cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế thông qua việc mua bán giấy tờ có giá
ngắn hạn.Thị trường này là nơi các NHTM thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình, đáp
ứng nhu cầu đi vay và cho vay của khách hàng. Ngoài ra còn giúp cho các NHTM điều tiết cơ cấu

tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông qua việc mua bán tín phiếu.
Thị trườ ng tiền tệ giúp cho NHTW thực thi các nghiệp vụ thị trường mở . Thông qua việc
mua bán các chứng khoán ngắn hạn, NHTW điều tiết khối lượ ng tiền tệ trong lưu thông nhằm
thực thichính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt để kìm hãm lạmphát hay thúc đẩy nền kinh tế.
Thị trường tiền tệ là kênh huy động vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, thông qua thị trườ ng
nàylượ ng vốn nhàn r ỗi trong ngắn hạn được huy động để đáp ứng cho nhu cầu vốn ngắn hạn
của cácchủ thể khác trong nền kinh tế vớ i các hình thức tín dụng ngắn hạn, chiết khấu, cầm cố,
thế chấp các chứng từ có giá.

1.1.3.Phân loại thị trường tiền tệ :
 Theo cơ cấu tổ chức: Thị trường tiền tệ bao gồm:
- Thị trường tiền tệ cổ điển: là thị trường vay vốn ngắn hạn giữa các tổ chức tín dụng
(TCTD) đặt dưới sự quản lý của ngân hàng trung ương (NHTW). Hàng ngày, tại đây hình thành lãi

6


suất chỉ đạo thị trường tiền tệ, như: lãi suất LIBOR trên thị trường tiền tệ London (London Inter
Banking Offered rate), lãi suất PIBOR trên thị trường tiền tệ Paris (Paris Inter Banking Offered
rate), SIBOR (thị trường tiền tệ Singapore)…
- Thị trường tiền tệ mới: đây là thị trường các trái phiếu ngắn hạn, cơ cấu của nó gồm 2
cấp:
+ Thị trường tiền tệ sơ cấp: là thị trường tiền tệ chuyên phát hành các loại trái phiếu ngắn
hạn lần đầu.
+ Thị trường tiền tệ thứ cấp: là thị trường tiền tệ tổ chức mua bán lại các trái phiếu đã
phát hành ở thị trường sơ cấp.
+ Thị trường mở (Openmarket operation): là thị trường mua bán các loại chứng khoán nhà
nước ngắn hạn như: tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ,... nhằm điều tiết cung cầu tiền tệ
trong nền kinh tế. Tức thông qua thị trường mở, NHTW có thể làm cho “tiền dự trữ” của các
NHTM tăng lên hoặc giảm xuống, từ đó tác động đến khả năng cung cấp tín dụng của NHTM làm

ảnh hưởng đến khối lượng tiền tệ của nền kinh tế.
 Theo đối tượng tham gia: Thị trường tiền tệ bao gồm:
- Thị trường tín dụng ngắn hạn giữa các NHTM (hay thị trường liên ngân hàng –
Interbank): Thị trường này dưới sự điều hành của NHTW nhằm mục đích điều tiết vốn trong hệ
thống NHTM đồng thời tạo điều kiện cho NHTW thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng.
- Thị trường các công nợ ngắn hạn như: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, kỳ phiếu ngân
hàng, chứng chỉ tiền gửi, các khế ước cho vay .... bao gồm cả thị trường phát hành và thị trường
lưu thông, thị trường này biểu hiện cho sự phát triển thị trường tiền tệ.
- Thị trường hối đoái: là thị trường giao dịch các loại ngọai tệ và các phương tiện thanh
tóan có giá trị ngoại tệ, là một bộ phận quan trọng trong kết cấu thị trường tiền tệ. Thị trường
ngọai hối mang đặc trưng là tính quốc tế cao, hoạt động của nó đáp ứng những nhu cầu về
thương mại, đầu tư ngắn hạn trên bình diện quốc tế, đặc biệt là tạo điều kiện can thiệp của
NHTW nhằm đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia.

7


Công cụ hoạt động thị trường hối đoái, gồm: hợp đồng giao ngay (Spot), hợp
đồng hoán đổi (Swap), hợp đồng kỳ hạn (Forward), hợp đồng quyền chọn (Option)
… nhờ đó đáp ứng được phần lớn nhu cầu ngoại tệ cho các đơn vị, tổ chức và làm
cho thị trường ngoại hối trở nên nhộn nhịp hơn.
1.2.Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ
Trong quá trình phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng là hình thức
sơ khai của thị trường tiền tệ hoạt động với mục đích cân đối, điều hòa vốn giữa các NHTM với
các TCTD nhằm khai thông khả năng thanh toán cho các TCTD. Vì vậy, nếu xét theo chiều ngang,
thị trường tiền tệ biểu hiện quan hệ điều tiết vốn giữa các NHTM, các TCTD. Còn nếu xét theo
chiều dọc, thị trường tiền tệ biểu hiện mối quan hệ giữa NHTW và NHTM qua con đường tái
chiết khấu, trong đó lãi suất tái chiết khấu là một công cụ linh hoạt để NHTW điều tiết vĩ mô nền
kinh tế trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ.
Ngày nay, quy mô họat động của thị trường tiền tệ được mở rộng về phạm vi điều tiết

vốn, theo đó các chủ thể tham gia trên thị trường đa dạng hơn.
Các chủ thể tham gia trên thị trường tiền tệ bao gồm:
- Chủ thể cung ứng nguồn vốn như: NHTW, NHTM, các TCTD khác… Việc đầu tư nguồn
vốn ngắn hạn trên thị trường này có độ rủi ro thấp, do trong thời gian ngắn giá cả chứng khoán
biến động không đáng kể.
- Chủ thể có nhu cầu về vốn như: NHTM, các đơn vị kinh tế khác, kho bạc nhà nước...
Thông qua thị trường tiền tệ, các chủ thể này có thể thu hút được nguồn vốn ngắn hạn dễ dàng
và chi phí thấp.
- Chủ thể trung gian môi giới, vừa đi vay và vừa cho vay như: NHTM, Công ty chuyên môi
giới.

8


1.2.1. Chính phủ
Khi có các thiếu hụt trong khối Chính phủ mang tính tạm thờ i hoặc bù đắp
bội chi ngân sáchcũng như trả nợ nước ngoài …NHTW huy động vốn thông qua việc cho phép
Kho bạc phát hành tín phiếu.
Các đợt phát hành tín phiếu thường nhận được sự quan tâm cùa các tổ chức tài chính vì
tín phiếulà công cụ nợ có đảm bảo của Chính Phủ cho nên hầu như không có rủi ro, hơn nữa
tính thanhkhoản của nó cao. Các nhà đầu tư chọn tín phiếu còn nhằm mục đích cân bằng danh
mục đầu tư cũng như một khoản dự trữ khác và giảm thiểu rủi ro. Việc phát hành tín phiếu cũng
được sử dụng như một công cụ tiết chế lạm phát hoặc giảm phát ngắn hạn.

1.2.2. Ngân hàng Trung Ương
NGHTW tham gia với vai trò điều tiết thị trường tiền tệ sao cho thị trường này hoạt
động bình thường và có hiệu quả nhất.

1.2.3. Ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính
Là chủ thể chủ yếu và thườ ng xuyên của thị trườ ng tiền tệ. Các tổ chức này vừa thu

nhận luồng tiền từ dân cư thông qua kênh tiết kiệm và tiền gửi của khách hàng, thông qua kênh
phát hành vàmua bán lại các giấy tờ có giá, hoặc trên kênh thị trường mở. Đồng thời chuyển
hóa nguồn tiền này cho các doanh nghiệ p, tố chức kinh tế, hộ gia đình, các cá nhân có nhu cầu
vốn kinh doanhdướ i hình thức cấp tín dụng. Thị trường tiền tệ diễn biến như thế nào chủ yếu
thông qua hoạt động của hệ thống NHTM vàcác tổ chức tài chính.

1.2.4. Các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế
Phần lớn các chủ thể này đều tham gia thị trườ ng tiền tệ với tư cách là ngườ i có nhu
cầu về vốnkinh doanh. Các nhu cầu này sẽ được đáp ứng thông qua hệ thống NHTM và các
tổ chức tàichính vớ i những điều kiện khá chặt chẽ và khắt khe nhằm ngăn ngừa rủi ro. Ngoài ra,
nhu cầu thanh khoản và các giao dịch khác cũng sẽ được đáp ứng theo những quy định kèm
theo.

9


1.2.5. Cá nhân, tổ chức đoàn thể xã hội
Các chủ thể trên hội đủ điều kiện pháp nhân và có thu nhập cũng tham gia thị trườ ng
tiền tệ nhằm thỏa mãn các nhu cầu về vốn, giao dịch tiền tệ, mua bán giấy tờ có giá với các
NHTMcùng những điều kiện nhất định.

1.3. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ
1.3.1.Nghiệp vụ vay và cho vay vốn ngắn hạn
Nghiệp vụ này diễn ra chủ yếu giữa các NHTM, xuất phát từ họat động kinh doanh tiền tệ,
tại một thời điểm nhất định một số NHTM tạm thời thừa vốn trong khi đó một số NHTM khác
rơi vào tình trạng thiếu vốn tạm thời. Do đó để đảm bảo cho khả năng thanh toán, quan hệ điều
tiết vốn giữa các NHTM diễn ra thông qua các hình thức sau:
- Cho vay bằng tiền mặt: Khi NHTM thiếu hụt vốn tạm thời, có thể đi vay tại một NHTM khác
đang thừa vốn tạm thời tại thời điểm đó để đảm bảo khả năng thanh toán. Giao dịch liên ngân
hàng chủ yếu dưới hình thức tín chấp hoặc đảm bảo bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng

cho vay…; Thời hạn cho vay rất ngắn: hàng ngày (qua đêm), định kỳ 1 tuần, 2 tuần, tháng…
- Cho vay dưới hình thức cầm cố hoặc chiết khấu các chứng từ có giá: Khi có nhu cầu lớn về
vốn, các NHTM đã vay các TCTD khác nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì NHTW có thể hỗ
trợ bằng các nghiệp vụ sau:
+ Tái chiết khấu chứng từ có giá: NHTW sẽ nhận chiết khấu lại những chứng từ có giá mà
trước đây NHTM đã chiết khấu cho khách hàng.
+ Bảo chứng lại: NHTW sẽ cho NHTM vay vốn trên cơ sở cầm cố các chứng từ có giá mà
trước đây NHTM đã nhận cầm cố từ khách hàng.

1.3.2.Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn
Công cụ chủ yếu của nghiệp vụ này là các loại trái phiếu ngắn hạn được phát hành từ thị
trường tiền tệ sơ cấp và bán lại ở thị trường thứ cấp.
Nghiệp vụ này phát sinh trong trường hợp một số chủ thể kinh tế cần bổ sung vốn bằng tiền
của mình nên phát hành một lượng trái phiếu ngắn hạn ra thị trường, trong khi một số chủ thế

10


khác đang muốn sinh lợi cho khoản vốn nhàn rỗi của mình bằng con đường kinh doanh trên thị
trường tiền tệ, họ sẽ mua bán trái phiếu ngắn hạn. Ở nghiệp vụ này, ngoài trái phiếu ngắn hạn
thì còn có kỳ phiếu thương mại, khế ước nợ, kỳ phiếu ngân hàng, các lọai thư tín dụng…. Và đặc
biệt là họat động của thị trường mở - thực hiện việc mua bán ngắn hạn dưới 1 năm các giấy tờ
có giá trị như tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Thông qua nghiệp vụ này, NHTW điều tiết cung cầu
về tiền tệ: tùy theo mục tiêu từng thời kỳ mà NHTW bơm tiền hay rút bớt tiền ra khỏi lưu thông.

PHẦN II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM
2.1 Một số nét khái quát về quá trình hình thành và phát triển của thị trường
tiền tệ Việt Nam.
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, là thị trường vốn
ngắn hạn (có thời hạn dưới 1 năm). Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật

các Tổ chức tín dụng (sửa đổi) cho phép các giấy tờ có giá dài hạn được giao dịch
trên thị trường tiền tệ còn giúp cho thị trường tiền tệ đóng vai trò là thị trường
thứ cấp của các công cụ nợ dài hạn. Với sự tham gia của Chính phủ, Ngân hàng
Trung ương, các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ được đánh giá là thị
trường có độ an toàn cao và là thị trường bán buôn hữu hiệu. Thị trường tiền tệ
được biết đến như là một thị trường phi tập trung, sôi động và mang tính toàn
cầu. Các giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có thời hạn ngắn và rất ngắn, đặc
biệt thị trường cho vay qua đêm rất phát triển và chiếm một tỷ trọng đáng kể
trong doanh số hoạt động của thị trường tiền tệ. Khởi nguồn từ hoạt động cho
vay,đi vay giữa các ngân hàng, thị trường tiền tệ ngày càng phát triển đa dạng và
linh hoạt. Với mục tiêu ban đầu là thị trường để bảo đảm khả năng thanh khoản
của các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ đã phát triển trở thành thị trường
đầu tư vốn ngắn hạn, thị trường kinh doanh chênh lệch giá, thị trường của các
công cụ phòng ngừa rủi ro và các thị trường phái sinh. Thị trường tiền tệ là thị
11


trường hết sức nhạy cảm với những sự kiện biến động về kinh tế, chính trị, xã hội
vì vậy nó được coi như là thước đo của nền kinh tế.
Các bộ phận cấu thành của thị trường tiền tệ ở Việt Nam
Có thể thấy rằng, mặc dù đến nay quy mô của thị trường tiền tệ Việt Nam
còn rất khiêm tốn, nhưng các bộ phận cấu thành của thị trường đã hình thành ở
một mức độ nhất định. Đó chính là thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị
trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc, các hoạt động nghiệp vụ tiền tệ của NHNN
như nghiệp vụ cho vay của NHNN dưới các hình thức cho vay cầm cố, chiết khấu
giấy tờ có giá, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ …
Thành viên tham gia thị trường, hàng hóa giao dịch trên thị trường cũng như
doanh số hoạt động của các nghiệp vụ thị trường tiền tệ đều được từng bước mở
rộng; hoạt động của thị trường đã từng bước được hiện đại hoá, đáp ứng được
yêu cầu hội nhập.

Trước hết, cần phải kể đến thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, nơi
thực hiện việc điều tiết vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ giữa các
ngân hàng.
- Về thị trường nội tệ liên ngân hàng được hình thành từ năm 1993 dưới
hình thức ban đầu là một thị trường tập trung, có tổ chức qua NHNN. Tuy nhiên,
từ năm 1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực
tiếp vay mượn lẫn nhau không thực hiện thông qua NHNN. Nhìn chung, các ngân
hàng thường có quan hệ với nhau đã dựa trên mức độ tín nhiệm để thỏa thuận
phương thức giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như các điều kiện đảm bảo tiền vay.
Đến nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các hình thức
tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay…. Thậm chí
12


một số ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn dưới hình thức gửi tiền lẫn
nhau. Cho đến nay, doanh số hoạt động trên thị trường đã tăng đáng kể, phương
thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hầu hết các giao dịch đều thực
hiện qua mạng.
- Về thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: Từ khi chính thức hình thành năm
1994 đến nay, thị trường đã có những chuyển động đáng kể, đóng vai trò quan
trọng trong việc kết nối cung cầu ngoại tệ cho các ngân hàng. Thông qua thị
trường, NHNN đã theo dõi được các giao dịch về ngoại tệ trong hệ thống ngân
hàng, nắm bắt diễn biến cung cầu và tham gia thị trường với vai trò người mua
bán cuối cùng. NHNN thực hiện can thiệp thị trường khi cần thiết nhằm thực hiện
mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ năm 1999 đến nay, bên cạnh
việc điều hành linh hoạt tỷ giá, việc NHNN thực hiện các biện pháp can thiệp kịp
thời trên thị trường đã hỗ trợ cho các ngân hàng cân đối ngoại tệ và đặc biệt là
góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước.
- Về thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc, có thể khẳng định rằng, từ năm
1995, việc đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN đã mở ra một kênh huy động

vốn với chi phí thấp cho Ngân sách Nhà nước. Doanh số và tỷ trọng tín phiếu Kho
bạc phát hành dưới hình thức đấu thầu qua NHNN trong tổng doanh số huy động
vốn của Kho bạc Nhà nước ngày càng tăng qua các năm. Điều này phù hợp với xu
thế phát triển thị trường và thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, thị trường đấu thầu tín
phiếu Kho bạc đã trở thành nguồn cung cấp hàng hóa chủ yếu cho các giao dịch
nghiệp vụ tiền tệ giữa NHNN với các ngân hàng thương mại (NHTM) nhất là
nghiệp vụ thị trường mở để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Kỳ hạn tín phiếu
Kho bạc đến nay đã đa dạng hơn trước, gồm 364 ngày, 273 ngày và 182 ngày. Bên
13


cạnh các NHTM Nhà nước, các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh
ngân hàng nước ngoài cũng đã từng bước trở thành thành viên tham gia thị
trường.
- Về các hoạt động nghiệp vụ tiền tệ của NHNN: Từ tháng 7/2000, với việc
NHNN chính thức khai trương nghiệp vụ thị trường mở, đã đánh dấu một bước
đổi mới mạnh mẽ trong việc điều tiết tiền tệ gián tiếp theo các nguyên tắc thị
trường. Từ năm 2000 đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã được từng bước hoàn
thiện và chú trọng sử dụng để trở thành công cụ điều tiết tiền tệ chủ yếu của
NHNN. Tổng doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở theo cả 2 chiều mua và
bán tăng mạnh qua các năm; kỳ hạn giao dịch cũng được đa dạng hóa từ 7-182
ngày; khối lượng giao dịch qua từng phiên, định kỳ giao dịch cũng ngày càng tăng
thêm. Việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở ngày càng mang tính thị trường
hơn, qua đó tăng cường khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của
các tổ chức tín dụng và các điều kiện trên thị trường tiền tệ.
Bên cạnh nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn của NHNN cũng
được từng bước đổi mới, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền
tệ gián tiếp của NHNN. Đến nay tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM chủ yếu
được thực hiện dưới các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo
bằng cầm cố giấy tờ có giá. Các hình thức cho vay theo chỉ định của Chính phủ

trước đây (từng chiếm tỷ trọng lớn trong cho vay tái cấp vốn) đã giảm mạnh qua
các năm. Thủ tục, quy trình xử lý đề nghị vay tái cấp vốn từng bước được tinh
giản, tạo thuận lợi cho các ngân hàng. Cơ chế tái cấp vốn được áp dụng bình đẳng
cho tất cả các ngân hàng, không phân biệt loại hình sở hữu. Đặc biệt từ năm 2003,
thực hiện Luật sửa đổi một số Điều Luật Ngân hàng Nhà nước, NHNN đã cho phép
14


cả các giấy tờ có giá dài hạn như các loại trái phiếu Chính phủ được sử dụng trong
các giao dịch giữa NHNN và các ngân hàng. Điều này làm tăng đáng kể khối lượng
giấy tờ có giá được giao dịch với NHNN, mở rộng khả năng tiếp cận của các ngân
hàng đối với các kênh hỗ trợ vốn của NHNN, tạo điều kiện nâng cao khả năng điều
tiết của NHNN đối với thị trường tiền tệ. Đến nay, bên cạnh các NHTM Nhà nước,
khá nhiều NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài đã tiếp cận các kênh hỗ trợ vốn nêu trên của NHNN.
Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu ngày càng được điều hành linh hoạt,
phù hợp với mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ. Từ năm 2003, lãi suất tái cấp vốn và
lãi suất chiết khấu được điều chỉnh dần để hình thành khung lãi suất định hướng
lãi suất thị trường. Cùng với việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu để trở thành lãi
suất sàn, NHNN đã thực hiện phân bổ hạn mức chiết khấu cho các ngân hàng. Qua
đó, nghiệp vụ chiết khấu được điều hành như một kênh hỗ trợ vốn thường xuyên
với giá rẻ từ NHNN. Trong khi đó, nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy
tờ có giá áp dụng lãi suất tái cấp vốn là mức lãi suất trần để NHNN từng bước thực
hiện vai trò là người cho vay cuối cùng trên thị trường.
Ngoài các kênh hỗ trợ vốn ngắn hạn của NHNN thông qua nghiệp vụ thị
trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn, NHNN còn thực hiện cho vay thấu chi và cho
vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. Thêm vào đó, từ 7/2001,
NHNN bắt đầu thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ các tổ chức tín
dụng gặp khó khăn tạm thời về vốn khả dụng VND và nhằm đạt được mục tiêu
chính sách tiền tệ. Thực tế công cụ này đã phát huy tác dụng trong những thời

điểm các NHTM thực sự khan hiếm về vốn khả dụng VND, nhất là đối với các ngân
hàng nước ngoài có ngoại tệ dư thừa nhưng lại khó khăn về vốn VND và không sở
15


hữu giấy tờ có gía ngắn hạn nên không có điều kiện tiếp cận các kênh hỗ trợ vốn
khác của Ngân hàng Nhà nước.
2.2.Thực trạng thị trường tiền tệ ở Việt Nam
2.2.1.Thị trường liên ngân hàng
 Doanh số giao dịch:
Giao dịch trên thị trường liên ngân hàng sôi động cho thấy thanh khoản một số ngân
hàng không còn ở trạng thái dư thừa.

Biểu đồ 2.1. Diễn biến giao dịch trên thị trường liên ngân hàng những năm
gần đây

Nguồn:Website NHNN (Số liệu năm 2015 tính đến ngày 29/12).

Khối lượng giao dịch, doanh số giao dịch bình quân/1 ngày, lãi suất và doanh
số giao dịch bình quân ở các kỳ hạn ngắn đều tăng so với năm 2015 cho thấy
thanh khoản hệ thống ngân hàng không còn ở trạng thái dư thừa như các năm
trước đây. Trong năm 2015, tổng khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân
hàng ước trên 5,2 triệu tỷ đồng, giao dịch bình quân 1 ngày là 21.145 tỷ đồng. Kết
16


quả trên đã chứng minh thị trường nội tệ liên ngân hàng đã thực hiện được vai trò
điều tiết vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam giữa các ngân hàng, làm tăng hiệu quả
sử dụng nguồn vốn của các TCTD an toàn, hiệu quả.
 Lãi suất liên ngân hàng :


Biểu đồ 2.2.Lãi suất liên ngân hàng cuối năm 2015 và đầu 2016

Nguồn: NHNH
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có những thay đổi lớn, do NHNN điều chỉnh.
Lãi suất bình quân trên thị trường liên ngân hàng không thay đổi ở kỳ hạn 01 tuần, tuy
nhiên có sự biến động trái chiều ở các kỳ hạn chủ chốt còn lại từ 01 tháng trở xuống. Cụ thể,
trong năm 2015,khi lãi suất bình quân kỳ hạn qua đêm đổi chiều giảm 0,02%/năm xuống còn
4,67%/năm, lãi suất bình quân kỳ hạn 2 tuần và 1 tháng tiếp tục tăng lần lượt đến mức 4,92%/
năm và 4,98%/năm.

Biểu đồ 2.3 : Lãi suất liên ngân hàng quý I năm 2016

17


Nguồn: NHNN
Từ mốc quanh 5% ở cả ba kỳ hạn hồi đầu năm 2016, đến nay mặt bằng lãi
suất liên ngân hàng liên tục đi theo chiều hướng giảm về mức thấp nhất trong lịch
sử (dưới 0,8% ở cả ba loại kỳ hạn).
Cụ thể, tuần qua lãi suất trung bình kỳ hạn qua đêm và một tuần giảm nhẹ
0,02-0,06% lần lượt xuống mức 0,57% và 0,61%/năm. Lãi suất kỳ hạn hai tuần
giảm mạnh hơn (giảm 0,13%) về mức 0,79%/năm.
Diễn biến lãi suất liên ngân hàng liên tiếp giảm xuống mức thấp nhất trong
lịch sử những tuần vừa qua cho thấy trạng thái dư thừa thanh khoản hệ thống các
tổ chức tín dụng không chỉ tiếp tục được duy trì mà còn đang tăng lên.
Nhiều khả năng, hoạt động mua tăng dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
vẫn đang được thực hiện với liều lượng khá lớn nhằm tranh thủ diễn biến thuận lợi của tỷ giá
cũng như để tạo thêm nguồn ngoại tệ, đủ sức cân đối với các nhu cầu sử dụng khác của quốc
gia. Với trạng thái nguồn tiền trong hệ thống như hiện nay, chúng tôi cho rằng mặt bằng lãi suất

liên ngân hàng sẽ tiếp tục giữ ở mức khá thấp, quanh mức 1% ở cả ba loại kỳ hạn trong vài tuần
tới.

18


2.2.2. Thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc
Việc đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN đã mở ra một kênh huy động
vốn với chi phí thấp cho Ngân sách Nhà nước. Doanh số và tỷ trọng tín phiếu Kho
bạc phát hành dưới hình thức đấu thầu qua NHNN trong tổng doanh số huy động
vốn của Kho bạc Nhà nước tăng qua các năm. Điều này phù hợp với xu thế phát
triển thị trường và thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho
bạc đã trở thành nguồn cung cấp hàng hóa chủ yếu cho các giao dịch nghiệp vụ tiền
tệ giữa NHNN với các NHTM, nhất là nghiệp vụ thị trường mở để thực thi chính
sách tiền tệ quốc gia.
Danh sách thành viên đấu thầu TPCP năm 2016 gồm có 21 thành viên trong
đó có 4 công ty chứng khoán, 15 ngân hàng và 2 thành viên đấu thầu đặc biệt là
Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.
-

Tháng 12/2015, Kho bạc Nhà nước đã tổ chức 6 phiên đấu thầu TPCP với tổng giá
trị gọi thầu là 62,400 tỷ đồng và tổng giá trị trúng thầu là 61,394 tỷ đồng, đạt tỷ lệ
98.4%. Tính chung cả năm 2015, KBNN đã phát hành 197,745 tỷ đồng trái phiếu
và 31,130 tỷ đồng tín phiếu các kỳ hạn qua kênh đấu thầu.

-

Trên thị trường sơ cấp Trái phiếu doanh nghiệp, Công ty Sotrans đã phát hành
thành công 400 tỷ đồng trái phiếu.


-

Tổng giá trị giao dịch trái phiếu trong tháng 12 là 43,836 tỷ đồng, giảm 24.8% so
với tháng trước. Tất cả các giao dịch trong tháng này đều là giao dịch outright.

-

Giá trị lưu hành của Trái phiếu Chính phủ tăng lên mức 78.01% (tương đương
582,832 tỷ đồng) từ mức 75.94% của cuối tháng trước, theo sau đó là Trái phiếu
Chính phủ bảo lãnh với tỷ lệ 18.71% (tương đương 139,781 tỷ đồng) và Trái phiếu
chính quyền địa phương với 3.28% (tương đương 24,510 tỷ đồng).

19


-

Theo số liệu từ phòng chào giá các nhà tạo lập thị trường (Market Makers), lợi suất
giao dịch TPCP tại thời điểm cuối tháng 12 có biến động so với cuối tháng trước
như sau: kỳ hạn 1 năm giảm 8.9 điểm, kỳ hạn 2 năm tăng 5.2 điểm, kỳ hạn 3 tăng
9.9 điểm, kỳ hạn 5 năm giảm 0.6 điểm, kỳ hạn 7 năm tăng 1 điểm và kỳ hạn 10
năm giảm 0.5 điểm.
Trong cả năm 2015, KBNN đã phát hành 197,745 tỷ đồng trái phiếu và 31,130
tỷ đồng tín phiếu các kỳ hạn qua kênh đấu thầu tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà
Nội. Ngoài ra, kể từ cuối tháng 7 KBNN còn phát hành riêng lẻ TPCP kỳ hạn 20
năm cho một số công ty bảo hiểm.
Biểu đồ 2.4. Giá trị gọi thầu và trúng thầu TPCP từng tháng trong năm 2015

Nguồn: HNX, VBMA


20


Trong 10 tháng đầu năm, huy động vốn TPCP chỉ đạt 65% kế hoạch năm 2015, tuy nhiên,
chỉ trong 2 tháng cuối năm, sau khi được phép đa dạng hóa kỳ hạn phát hành TPCP, khối lượng
TPCP phát hành trong cả năm 2015 là 233.825 tỷ đồng, bằng 99% tổng khối lượng phát hành
trong năm 2014.
Bên cạnh đó, lãi suất TPCP tiếp tục được điều chỉnh theo thị trường và tiếp tục xu hướng
giảm so với năm 2014 (lãi suất bình quân là 6,35%/năm, giảm 0,02%/năm so với lãi suất bình
quân năm 2014). Kỳ hạn phát hành bình quân được cải thiện rõ rệt trong năm 2015 (từ mức
4,94 năm trong năm 2014 lên mức 8,68 năm trong năm 2015).

Biểu đồ 2.5. Khối lượng giao dịch và kỳ hạn phát hành TPCP
những năm gần đây

Nguồn: Reuters và tính toán.

2.2.3.Nghiệp vụ thị trường mở:
Năm 2015 là năm thứ tư liên tiếp NHNN hút tiền qua OMO nhằm mục tiêu kiềm chế lạm
phát. Tuy nhiên, so với các năm trước, điểm sáng năm 2015 là khối lượng phát hành tín phiếu
đã giảm một phần do tín dụng tăng trưởng tương đối mạnh, ngoài ra phải kể đến sự phối hợp
giữa NHNN và Bộ Tài chính trong việc cung ứng tiền giữa kênh tín phiếu NHNN và TPCP.

21


Tính đến cuối năm 2015, dư nợ tín phiếu NHNN đã bằng 0 và NHNN đang điều hành bơm
hút tiền qua OMO chỉ thông qua nghiệp vụ Mua kỳ hạn (Reverse Repo). Tính chung trong năm
2015, tổng lượng tiền NHNN hút qua OMO là hơn 78.000 tỷ đồng đối với cả hai nghiệp vụ Mua
kỳ hạn và Bán tín phiếu.


Biểu đồ 2.6.Diễn biến giao dịch trên OMO những năm gần đây

Nguồn: Reuters và tính toán

2.2.4. Thị trường hối đoái
Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các
hoạt động kinh doanh hối đoái, đa dạng hoá các loại hình giao dịch trên thị trường; tạo các công
cụ phòng ngừa rủi ro trước những biến động của tỷ giá và lãi suất trên thị trường trong tương
lại; giúp cho các nhà xuất khẩu, nhập khẩu, các đơn vị kinh tế chủ động trong kinh doanh; thúc
đẩy và phát triển các giao dịch hối đoái để góp phần hoàn thiện thị trường hối đoái ở Việt Nam.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chính thức được hình thành từ năm 1994. Thị trường
này giúp kết nối cung cầu ngoại tệ cho các ngân hàng. Qua thị trường này, NHNN đã theo dõi
được các giao dịch về ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, thấy được diễn biến cung cầu và tham
gia thị trường với vai trò là người mua bán cuối cùng. NHNN tham gia thị trường này nhằm thực
thi chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Kể từ năm 1999, ngoài điều hành linh hoạt tỷ giá,
22


NHNN còn thực hiện các biện pháp can thiệp kịp thời tỷ giá trên thị trường giúp các NHTM cân
đối ngoại tệ đã góp phần làm ổn định tỷ giá.

Biểu đồ 2.7.Diễn biến tỷ giá và dollar-index từ 1/2012 đến 5/2015

Tổng quan, giai đoạn 2012-2014 đánh dấu sự ổn định của thị trường ngoại hối với 3 nền
giá sau 2 lần điều chỉnh tỷ giá. Mỗi nền/chu kỳ được bắt đầu tại mức trần khi tỷ giá có dấu hiệu
gia tăng mạnh và được điều chỉnh trong kỳ trước, sau đó đi vào ổn định và dao động xung
quanh mức giá bình quân liên ngân hàng, sau đó gia tăng và bắt đầu nền/chu kỳ mới. Quãng
thời gian tồn tại của các nền giá trên ổn định trong thời gian dài, và thu hẹp dần ở các nền giá
tiếp theo. Cụ thể, nền giá 20.803+/-1% được duy trì từ cuối năm 2011 đến cuối tháng 6/2013,

kéo dài trong hơn 18 tháng. Nền giá 21.036+/-1% kéo dài 12 tháng từ tháng 7/2013 đến cuối
tháng 6/2014; Nền giá 21.246+/-1% kéo dài 6 tháng từ cuối tháng 6/2014 đến đầu năm 2015.
Sự ổn định kéo dài của các nền giá thời gian đầu được hỗ trợ tích cực không chỉ bởi định hướng
kiểm soát “đôla hóa” và “vàng hóa” của NHNN, mà còn được hỗ trợ tích cực bởi sự ổn định của
giá trị đồng USD trên thế giới. Biểu đồ Dollar-Index cho thấy rõ ảnh hưởng đáng kể của sự
gia tăng về giá trị của đồng USD kể từ nửa cuối năm 2014 khiến NHNN phải hai lần điều chỉnh tỷ

23


giá: 21.458 ngày 7/1/2015 và 21.673 ngày 7/5/2015.
Năm 2015, chủ trương ổn định kinh tế vĩ mô trong đó trọng tâm là kiểm soát lạm phát,
duy trì ổn định tỷ giá tiếp tục là chính sách điều hành tiền tệ định hướng của NHNN. Thị trường
ngoại hối, lạm phát kiểm soát tốt là thành công của hệ thống chính sách tiền tệ đồng bộ trong
suốt thời kì 2011 tới nay. Hiện tại, VND dù ổn định với USD nhưng trên thực tế gia tăng đáng kể
so với các đồng tiền khác. Chênh lệch giá trị USD và VND hiện tại dồn nén dần lại là câu trả lời
cho

sự

gia

tăng

ngày

càng

nhanh, càng gấp của tỷ giá USDVND trong thời gian gần đây. Dư địa điều chỉnh 2% trong 2015
đã dùng hết, khác so với các năm trước. Tình hình ngoại hối căng thẳng kể cả sau khi điều chỉnh

nhiều khả năng sẽ thay đổi mục tiêu của NHNN từ đầu năm. Mức 2% có thể sẽ không là 2%
trong 2015.

2.3.Những tồn tại và hạn chế:
 Thị trường liên ngân hàng

Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng thị trường liên ngân
hàng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần hoàn thiện. Đó là:
- Số lượng các thành viên tham gia và quy mô giao dịch còn hạn chế và phần
lớn là để giải quyết nhu cầu về khả năng thanh toán: Trên thị trường nội tệ liên
ngân hàng đã hình thành nhóm các ngân hàng thường cung ứng nguồn tiền VND
chủ yếu là các NHTM Nhà nước và ngược lại nhóm các NHTM cổ phần, ngân hàng
liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài là các ngân hàng thường có nhu
cầu vay VND. Việc điều chuyển vốn thường chỉ diễn ra một chiều giữa nhóm các
ngân hàng thường cho vay và nhóm ngân hàng thường đi vay.
- Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất tái cấp vốn chưa phản ánh
chính xác quan hệ cung cầu và xu hướng vận động của thị trường tiền tệ.

24


- Vai trò của NHNN trong việc thu thập thông tin diễn biến thị trường liên
ngân hàng và tham gia điều tiết thị trường khá mờ nhạt, đặc biệt là cơ chế xử lý
trong trường hợp cung lớn hơn cầu vốn trên thị trường.
- Hoạt động tái cấp vốn mới chỉ dừng lại ở mục đích bổ sung nguồn vốn ngắn hạn và
phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng, các chức năng nhằm điều chỉnh các điều kiện
tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ, điều chỉnh quá trình phát triển kinh tế về quy mô và cơ
cấu đầu tư dựa trên sự cấp vốn theo thời gian, theo lĩnh vực ngành kinh tế, theo từng vùng lãnh
thổ chưa được phát huy.
- Việc phân bổ hạn mức chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN với các ngân hàng mới chỉ

dựa trên các yếu tố như tổng dư nợ bằng đồng Việt Nam, tổng tài sản Có và vốn tự có của ngân
hàng mà chưa tính tới khối lượng giấy tờ có giá mà các ngân hàng nắm giữ, do đó chưa phù hợp
với nhu cầu và đặc biệt chưa kích thích việc tích cực nắm giữ giấy tờ có giá đủ điều kiện tái cấp
vốn.
 Thị trường tín phiếu kho bạc

- Số lượng thành viên tham gia trên thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc
vẫn còn hạn hẹp, thành viên chủ yếu vẫn là các NHTM.
- Lãi suất trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc vẫn còn nhiều bất cập.
Hiện nay, lãi suất áp dụng lãi suất chỉ đạo trong đấu thầu tín phiếu Kho bạc nên lãi
suất trúng thầu chưa hình thành theo các nguyên tắc thị trường.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn có những hạn chế nhất định.
 Nghiệp vụ thị trường mở

- Các giấy tờ có giá có thể sử dụng trong các giao dịch trên thị trường tiền tệ
vẫn tập trung chủ yếu ở các NHTM Nhà nước. Một số công cụ đã được sử dụng
khá phổ biến trên thị trường tiền tệ các nước như thương phiếu, chứng chỉ tiền
gửi... nhưng hầu như vẫn chưa được hình thành, hoặc còn ít sử dụng ở Việt Nam.
25


×