Tải bản đầy đủ (.doc) (196 trang)

Nghiệp vu hướng dẫn du lịch: TÌM HIỂU CÁC TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 196 trang )

TÌM HIỂU CÁC TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

MỤC LỤC
Trang
1- Đạo Cao Đài……………………………………………………………….….…2
2 - Đạo Hòa Hảo………………………………………………………………......11
.
3 -Đạo Giáo…………………………………………………………………….…33
4 -Hồi Giáo……………………………………………………………….……….42
5 -Phật Giáo……………………………………………………………….…...….56
6 -Thiên Chúa Giáo…………………………………………………………..….116

___________Oooo000oooO___________


ĐẠO CAO ĐÀI
I. Sự ra đời của đạo Cao đài
1. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội, tự nhiên ,văn hóa.
Điều kiện kinh tế, chính trị xã hội: Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của
thực dân Pháp làm cho đòi sống nhân dân Nam Bộ ngày càng khó khăn, khổ cực.
Họ đấu tranh nhưng đều thất bại cho nên họ mong muốn tìm được sự giải thoát
trong tôn giáo.
Điều kiện tự nhiên: Đây là vùng đất mới khai phá nên điều kiện cư dân
phức tạp, có nhiều nguồn gốc khác nhau do vậy họ có truyền thống tư tưởng, văn
hóa khác nhau. Do vậy để doàn kết họ cần phải tìm ra sự thống nhất trong đa dạng,
cần có sự lựa chọn cái quyết định cho sự thống nhất đó. Chính nhu cầu đó góp
phần làm nảy sinh tư tưởng, tôn giáo chung cho toàn thể cộng đồng.
Điều kiện văn hóa tư tưởng:
- Tư tưởng chính trị cứu nước bị thực dân Pháp ngăn cản, đàn áp nên nó
không đi sâu vào quần chúng được.
- Các tôn giáo khác đã mất vị thế, niềm tin của nhân dân không xác định


cho nên nó nảy sinh khát vọng tìm đến một sụ an ủi trong tôn giáo mới.
- Tôn giáo tín ngưỡng đang thịnh hành là Minh giáo và thông linh học với
các hình thức “cơ cầu”, “ xây đàn”. Minh giáo là một hình thức của Đạo giáo
Trung Quốc theo chân Hoa kiều vào việt nam trước thế kỷ XX.sau khi vào Việt
nam nó chia ra nhiều chi phái như: Minh Đường, Minh thiện, Minh lý…song nó có
chung tính chất đó là sự hỗn dung tư tưởng tren cơ sở đạo giáo dung hình thức
“cầu cơ”(là hình thức người ngồi đồng bong, dùng cơ bút viết chữ lên trên bàn cát
để thể hiện ý của thần linh, của người chết) để đoán số xem mệnh. Thông linh học
là thuyết của Phương tây, cho răng con người chết đi chỉ là sự mất di của thể xác,


còn linh hồn còn sống mãi, chỉ cần có long thành và thong qua hình thức “xây bàn”
(là hình thức dùng tiếng gõ của chiếc bàn 3 chân do 2 người điều khiển, có quy ước
để chuyển dịch ra các ký tự, ghép lại với nhau tành chữ để biết được ý của thần
linh) là có thể biết được ý chí của thần, của người đã chết.
- Nguyên nhân là do minh giáo là tín ngưỡng phổ biến của người Hoa ở
đây, tuy số lượng người Hoa đông nhưng do họ có nền văn hóa bản địa Trung Hoa
đồ sộ nên sức truyền cảm lớn. Còn thông linh học lại có vẻ như một khoa học nên
nhiều người theo.
2. Quá trình hình thành Đạo Cao Đài và những người sáng lập
Ở Nam bộ có những người làm việc cho pháp, Quyền lợi của họ gắn liền với
quyền lợi của thực dân pháp nhưng họ cũng luôn bị thực dân pháp chèn ép, bên
cạnh đó họ cũng không thể hòa nhập được với nền văn hóa pháp . Họ đi tìm một
tôn giáo mới cho riêng mình để thỏa mãn nhu cầu vè tinh thần và trên hết là tìm
được một lực lượng có cùng tín ngưỡng làm chỗ dựa để không bị Pháp chèn ép
nữa. Do vậy họ đã nhào nặn Minh giáo và Thông linh học kết hợp cả tín ngưỡng
cầu hồn, cầu tiên, đồng cốt vốn có trong dân gian để tạo nên một tôn giáo mới với
hình thức sinh hoạt là dựng đàn” cầu cơ”.
Ngô Văn Chiêu(1878-1934) tại Bình tây chợ lớn. Ông đã làm việc cho pháp
ở sở nhập cư Sài Gòn, tri phủ Phú Quốc, phòng thương mại sài gòn… Ông ngồi

cầu cơ từ năm 24 tuổi, sung tín các vị thần của đạo giáo như: Quan âm quan
thánh…Sau này ông tiếp thu thêm thong linh học, đưa ra biểu tượng “thiên
nhãn”.Đặt tên cho đấng tối cao của đạo là “ Cao Đài tiên ông đại bồ tát
mahatat” .Ông đã thờ cao đài từ khi chưa có đạo. Gười đặt cơ sở cho sự ra đời của
đạo sau này.
Lê Văn Trung (1876-1934) làm thư ký cho Dinh thống đốc Nam kỳ, ủy viên
hội đồng quản hạt Nam kỳ, nghị sĩ thượng viện Đông Dương, có cửa hàng kinh


doanh thương nghiệp nhưng do làm ăn thua lỗ nên đi vào hoạt động tôn giáo. Sau
này là người đứng đầu “cửu trùng đài” .
Phạm Công Tắc (1899-1959) , vốn theo đạo Thiên Chúa, làm ở sở thương
chính Sài Gòn, bị chuyển sang Cămpuchia làm việc, sau đó ông chuyển sang hoạt
động đạo Cao Đài, là người đứng đầu “hiệp thiên đài”.
Ngoài ra còn có Cao Quỳnh cư, Cao Hoài Sanh cũng là những người đặt cơ sở
cho việc xuất hiện đạo Cao Đài,
Theo sử ký Cao Đài, đạo ra đời chính thức vào đêm Noel năm 1925. Trong
buổi cầu cơ bình thường như những buổi khác có Cao Đài tiên ông xuất hiện nói rõ
danh tính của mình là “ Cao đài tiên ông đại bồ tát mahatat” và chọn mười hai
người đứng ra sang lập đạo tên là “ Cao đài đại đạo tam kỳ phổ độ” gọi tắt là Cao
Đài.
Đạo được chính thức công nhận vào tháng 11 năm 1926 nó đã có buổi ra mắt
tại Gò Kén – Tây Ninh.

II. Nội dung tư tưởng.
1. Giáo lý.
a. Tên gọi
Những người sang lập đạo Cao Đài muốn đạo của mình cao hơn các đạo có
khác cả về ngôi thứ và tính chất. Chính vì vậy, họ có rất nhiều cách lý giải khác
nhau cả về tên gọi của đạo.

Theo giáo lý Cao Đài, tên gọi của đạo xuất phát bằng những đoạn thơ cổ có
chữ Cao Đài và xem đó là những tiên tri về sự xuất hiện của đạo này.Ngoài ra còn
có cách lý giải khác cho răng tên đạo xuất phát từ hai câu thơ của đạo Minh sư
người Trung Quốc:
“ Cao như Bắc thuyết nhân chiêm ngưỡng
Đài tại Nam Phương đạo thống truyền”


Về tính chất, đạo phải bao quát được mọi đạo khác cho nên gọi là đại đạo
tức là đạo bao quát được 5 ngành đạo: nhân đạo, thần đạo, thánh đạo, tiên đạo, phật
đạo. Vì vậy, nó gọi là “quy nguyên tam giáo”, “hiệp nhất ngũ chi”.
Giải thích về “tam kỳ phổ độ”, giáo lý đạo Cao Đài cho rằng đạo này xuất
hiện là sự cứu rỗi loài người lần thứ 3. Lần cứu rỗi thứ nhất gắn liền với sự xuất
hiện của thái thượng đạo tổ tiền than của đạo lão, Phục Hy tiền than của đạo nho,
Nhiên đăng phật tổ tiền than của đạo phật.Lần cứu rỗi thứ hai gắn liền với sự xuất
hiện của thích ca, khổng tử, thái thượng lão quân, Jesu với các đạo : phật, nho, đạo
tiên, thiên chúa.
Đạo cao đài còn giải thích them rằng: nguyên nhân của hai lần cứu rỗi trước
là do Thượng đế thấy trần gian loạn lạc còn hiện nay điều kiện ở trần gian đã thuạn
lợi hơn nhưng do có nhiều tôn giáo khác nhau chon nên chúng mâu thuẫn với nhau.
Đo vậy, phải thống nhất các tôn giáo lạ. Đây chính là lần cứu rỗi thứ 3 mà nó được
đánh dấu bằng sự xuất hiện đạo Cao đài.
Các lần cứu rỗi trước đây thượng đế thường giao trách nhiệm cho những người
phàm trần thực hiện còn lần này là lần cuối cùng cho nên thượng đế đích than làm
giáo chủ.
“ Phật trời, trời phật cũng là ta
Nhành nhóc chia ba cũng một già
Thích, Đạo,Gia tô…tay chưởng quản
Thương dân xuống thế độ lần ba”.
Chính vì vậy giáo chủ của đạo cao đài xưng danh là “ cao đài tiên ông đại bồ

tát mahatat”, bên cạnh đó còn có các xưng danh khác như: “Ngọc hoàng thượng đế
giáo đạo nam phương”, “ ngọc hoàng đại thiên tôn”…khi xuất hiện trước tín đồ thì
xưng là thầy.
Vì không có giáo chủ nên mọi lý thuyết,giáo lý của đạo đều được đưa ra thong
qua việc cầu cơ, chấp bút. Mỗi lần lập đàn”cầu cơ” thì ngài về cho biết những việc
tín đồ phải làm. Tuy nhiên không phải lần cầu cơ nào cũng mời được thầy về. Thời


kỳ đầu thầy còn hay về giáng cơ nhưng càng về sau thầy càng ít giáng cơ mà các
tín đồ thường được tiếp xúc với các nhân vật lịch sử văn học việt nam và thế giới
như : Đoàn thị Điểm, Phan thanh Giản, Khương Thá Công, Lý Bạch, Vich to
huygo thậm chí cả những nhân vật chỉ có trong tưởng tượng như tề thiên đại thánh.
b. Về tư tưởng.
Đạo cao đài không nêu lên được luận điểm mới nào mà nó chỉ là sự dung
hợp các giáo lý của các tôn giáp khác mà cụ thể: dung hợp đạo giáo và phật giáo về
mặt tư tưởng, lấy đạo đức của nho giáo, lấy tổ chức của đạo thien chúa giáo. Sự
dung hợp này về thực chất là đề cao đạo gáo, lấy đạo giáo làm yếu tố bao trùm.
Hiện tượng này là sự dung hợp các tôn giáo đã từng xảy ra trong lịch sử khi thì nhi,
khi thì phật được đề cac.
c. Quan niệm về con người.
Con người gồm có thể xác và tâm hồn,thể xác sẽ mất đi, còn linh hồn thì tồn
tại mãi. Từ đó họ cho rằng, hãy vứt bỏ than xác tập trung tu tỉnh phần hồn vì theo
họ ở đó mới sinh hoa kết trái mới thiêng liêng.
Con người sống qua hai thế giớ: thế giới hiện tại và thế giới mai sau, thế giới
mai sau được miêu tả khác với thế giới trần tục. Ở đó không có khổ đau, chỉ có
sung sướng, không những thế còn là cực lạc. Xét ra thì tôn giáo nào cũng đưa ra
một hình ảnh về thế giới mai sau, thế giới ở bờ bên kia. Nhưng với mỗi một tôn
giáo , thế giới ấy mang một tên riêng và có một nội dung không hoàn toàn giống
với một tôn giaó khác. Ở Phật giáo đó là cõi niét bàn, ở thiên chúa giáo là thiên
đường, ở đạo giáo truyền thống là cõi bồng lai tiên cảnh. Đạo cao đài đồng nhất

các khái niệm ấy và thay thế bằng một tên gọi khác, đó là Bạch ngọc kinh. Trong
tư liẹu của đạo cao đài có nhiều chỗ nói về tên này. “Bạch ngọc kinh” vốn là một
cuốn kinh của đạo giáo miêu tả cảnh sống thảnh thơi, hạnh phúc của thần tiên, ở
đây đã biến thành một thế giới lý tưởng. Điều trên cho thấy thế giớ mai sau của
Đạo cao đài là thế giới lý tưởng của đạo giáo.


Con người cần tu dưỡng đạo đức, trước hết là những điều rất gần gũi trong
đời sống, cụ thể :
-Phải nhường nhịn nhau.
-phải cần kiệm.
-Phải tương than, tương ái.
Bên cạnh đó là các chuẩn mực đạo đức của phật giáo, nho giáo, thiên chúa
giáo được cao đài tiếp thu thể hiện trong tác phẩm” tân luật” gồm: ngũ giới (cấm
sát sinh, trộm cắp, tửu nhục,tà dâm, vọng ngữ); “tam cương ngũ thường”; “tứ đại
điều quy”( ôn hoà, cung kính, khiêm tốn, nhường nhịn).
2. Đối tượng thờ cúng và lễ nghi
“Thiên nhãn” hay còn gọi là “mắt trời”: với quan niệm trời soi xét tất cả,
không có gì dưới phàm trần có thể dấu được ngài. Do đó, kẻ tín đồ hang ngày ra
vào nơi thánh thất nhìn thấy thiên nhãn thì như thấy ngài nên không dám làm điều
sai trái.
Trên bàn thờ còn có ngọn đèn đang cháy gọi là “ Thái cực đăng”lấy theo nghĩa
của kinh dịch tượng trưng cho đấng tạo hoá. Hai bên có hai chiếc đèn khác gọi là
“lưỡng nghi quang”
Cúng 3 món : hoa,rượu, trà tượng trưng cho tinh khí thần( tam bảo 3 yếu tố
tạo nên con người theo qniệm của đạo giáo)
Hương đốt 5 cây một lần với ý nghĩa tượng trưng cho ngũ hành.
Thánh thất thờ : Lão Tử, Phật thích ca, khổng tử
Thái bạch, Quan âm, Quan thánh.
Jêsu

Khương thái công
Lễ nghi của đạo cao đài rườm rà:
Tín đồ của đạo phải từ 18 tuổi trở lên. Ăn chay từ 6 ngày, 10 ngày, hoặc
trường trai. Từ đó họ chia tín đồ ra làm 2 loại:


-

Hạ thừa: tín đồ bình thường, tuỳ theo khả năng, điều kiện mà thực hiệncác

quy định của đạo.
-

Thượng thừa: tín đồ chức sắc, thực hiện triệt để quy định trên.
Tín đồ khi dâng lễ chân phải đi chữ “tâm” theo đạo nho,lấy dấu theo đạo thiên

chúa tượng trưng cho tam bảo của phật . Nhạc lễ gồm chiêng, trống và các nhạc cụ
dân tộc.
Lễ phục chia làm hai loại:
-

Tín đồ dung màu trắng

-

Chức sắc theo từng phái: thái màu vàng của đạo phật tượng trưng cho đức

hạnh, thượng với màu xanh của lão tượng trưng cho sự khoan dung, ngoc với màu
đỏ tượng trưng cho quyền uy.
Kinh gồm: kinh cúng tứ trời,kinh quan hôn, tắn tế…được biên soạn theo kiểu

văn vần.
Biểu tượng gồm: bình bát vu của phật, cây phất chủ của lão, kinh xuân thu của
nho
Ngày lễ:
-

Hàng ngày có lần theo giờ: mão, ngọ, dần, tý

-

Hàng tháng có hai ngày lễ tính theo lịch âm: ngày sóc(rằm), Vọng (mồng

một).
-

Hàng năm: lễ vía đức chí tôn(9/1); lễ thượng nguyên (15/1); lễ vía thái

thượng lão quân(15/2); lễ vía thích ca mâu ni (8/4);lễ trung nguyên (15/7);lễ hội
yến dieu tỳ kim mẫu- phật bà quan âm(15/8); lễ hạ nguyên và khai đạo(15/10); lễ
đưa các vị thánh thiên triều (15/12).
Nhìn vào lễ nghi của đạo cao đài ta có thể thấy đây là một đạo hỗn dung, lắp ghép
các yếu tố khác nhau của các tôn giáo khác. Nó phù hợp với đông bào Nam Bộ vì:
-

Phù hợp với nhận thức của số đông nhân dân

-

Luật lệ lễ nghi đã ăn sâu vào cuộc sống trở thành phong tục, tập quán của


quần chúng.


3. Tổ chức giáo hội
Những người sang lập đạo chủ yéu là tư sản, tiểu tư sản, địa chủ, công chức
làm việc cho pháp nên họ am hiểu thể chế chính trị trên thế giới, Họ cho chế độ
quân chủ lập hiến (kiểu Nhật) là hình thức phù hợp nhất nên họ tổ chức giáo hội
theo khuôn mẫu của bộ máy nhà nước quân chủ lập hiến Nhật bản.
Chức sắc đông với nhiều cấp bậc khác nhau phỏng theo hang giáo phẩm của
công giáo.
Hệ thống trung ương của đạo gômf 3 đài:
-

Bát quái đài: là nơi thờ phụng của đạo gồm các vị thánh, thần,tiên phật do lý

thái bạch thay mặt thượng đế làm chưởng quản.
-

Hiệp thiên đài: là do cơ quan lập pháp, tư pháp. Khi ban hành điều luật Hiệp

thiên đài tổ chức cầu cơ để nhận thánh chỉ. Thực hiện theo chế đọ “tam viện” gồm:
hội nhân sanh, hội thánh, thượng hội gọi chung là “ quyển vạn linh”
Đứng đầu cơ quan này là hộ pháp, dưới thượng phẩm, thượng sanh. Tiếp theo là “
thập nhị thời quân” thuộc ba chi: pháp, đạo, thế. Về mạt tư pháp thì pháp là nơi
định án, đạo cãi án, thế luận tội.
Dưới ba chi là các cơ quan giúp việc gồm bộ chính pháp với các chức danh luật
sư, sỹ tài, giám đạo… và hàn lâm viện với “thập nhị lão quan”.
-

Cửu trùng đài: là cơ quan hành pháp với 9 viện: hộ , lương, công, y, nông,


hoà,lễ, lại tương đương với 9 bộ của chính phủ.
Chức sắc chia 3 ngành: thái, thượng, ngọc mỗi ngành nắm 3 viện.
Đứng đầu cửu trùng đài là giáo tong . Chức sắc chia làm 9 bậc xếp từ cao
xuống thấp: giáo tong, chưởng pháp, đầu sư, phối sư, giáo hữu, lễ sanh.
Dưới cấp trung ương có các cấp hành chính đạo gồm : khâm trấn(miền đạo)
do giáo sư đứng đầu, khâm châu( tỉnh đạo) giáo hữu đứng đầu, tộc( huyện đạo) do
lễ sanh đứng đầu, hương (xã đạo) do chánh phó trị sự đứng đầu, đạo cơ sơ do
thông sự điều hành.


III. Quá trình phát triển
.

Khi mới ra đời đạo cao đài bị phê phán từ nhiều phía ( từ nhà hoạt động tôn

giáo cho đến những nhà hoạt động chính trị xã hội )
Đạo bị chia rẽ ngay tùe khi mới ra đời, sau này chia thành 12 phái khác nhau:
chiếu minh, tây ninh, minh hải, tiên thiên…ở thời kù chống pháp, mỹđạo cao đài
tiếp tục bị chia rẽ thành nhiều phái khác nhau(18phái). Đến năm 1975 có hơn 20
tông phái khác nhau với hai triệu tín đồ,20 ngàn chức sắc với một số phái lớn như:
Tây Ninh, Tiên Thiên, Bến tre…
Nguyên nhân tồn tại của đạo cao đài: 4 nguyên nhân chính
1.

Nhận thức thấp của đồng bào Nam Bộ

2.

Đáp ứng được tâm lý không chịu thua kém người của nhân dân


3.

sử dụng ngôn ngữ bình dân, giáo lý đơn giản, dễ hiểu, quần chúng dễ tiếp thu.

4.

trình độ tư duy bán khai thể hiện: dung hợp trong tư tưởng; hời hợt trong

nhận thức, đơn giản trong suy nghĩ.

Vũ Thị Thu
Giang
Lớp DL14A

ĐẠO HOÀ HẢO


A. Đạo Hòa Hảo:
Hay còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo, là một tông phái Phật giáo do Huỳnh
Phú Sổ khai lập năm 1939, lấy pháp môn Tịnh Độ tông làm căn bản và chủ trương
tu hành tại gia. Số tín đồ Đạo Hòa Hảo ước tính khoảng 2 triệu người, tập trung
chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ. Hiện nay, trong thư viện của hơn 30 quốc gia trên
thế giới vẫn còn giữ những tài liệu sách báo về đạo Hòa Hảo.
1.Lịch sử
1.1. Ra đời
Đạo Hòa Hảo ra đời tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc(nay
thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) vào năm 1939 do Huỳnh
Phú Sổ sáng lập. Huỳnh Phú Sổ, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1920 (tức 25/11 Kỷ
Mùi), là con của Huỳnh Công Bộ, một con người điềm đạm trầm tính, ít nói,

thường xa lánh chốn đông người ồn ã. Ông được cha cho học hết bậc sơ Pháp-Việt
tại một trường ở huyện, có năng khiếu thơ, văn và thông minh, nhạy cảm. Nhưng
do sức khỏe luôn đau ốm nên ông không tiếp tục học lên bậc cao hơn. Ông phải lên
núi Cấm tìm thầy chữa bệnh và tại đây ông đã tu theo phái Bửu Sơn Kỳ Hương do
Phật thầy Đoàn Minh Huyên (1807-1856) làm giáo chủ.
Huỳnh Phú Sổ tự nhận mình là bậc "sinh như tri", biết được quá khứ nhìn thấu
tương lai, được thọ mệnh cùng với Phật A-di-đà và Phật Thích-ca Mâu-ni, xuống
hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để
"Chấn hưng Phật giáo, cứu độ chúng sinh khỏi sông mê, biển khổ và đưa tới chốn
Tây phương cực lạc". Ông chữa bệnh cho người dân bằng các bài thuốc đã học và
chính những lúc đi chữa bệnh đó ông đã kết hợp rao giảng về Tứ ân hiếu nghĩa của
Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên qua những bài sấm kệ do ông soạn thảo. Vì
vậy chỉ trong vòng 2 năm từ 1937 đến 1939 số người tin theo ông đã khá đông và


ông trở nên nổi tiếng khắp vùng. Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (tức 4/7/1939)
được ông chọn làm ngày khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai
đạo chính là gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để
đặt tên cho tôn giáo mới của mình: đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo. Ông đã
được các tín đồ suy tôn làm giáo chủ Hòa Hảo.
Huỳnh Phú Sổ được xưng tụng là Phật thầy mượn thân xác mình để cứu độ chúng
sinh. Ông làm nhiều bài ca dao, thơ ca, nói thiên cơ, sau được tập hợp lại thành bài
giảng "Giác mê tâm kệ" có phần gần gũi tư tưởng thần bí, tín ngưỡng dân gian nên
trong hoàn cảnh đời sống nhân dân Nam Bộ đầu những năm 40 thế kỷ 20 dễ đi vào
lòng người, được quần chúng tin theo. Muốn trở thành tín đồ Hòa Hảo phải tuyên
thệ: "Một đời, một đạo đến ngày chung thân".
1.2. Thời kỳ Nhật xâm chiếm
Sang năm 1941, đạo Hòa Hảo tiếp tục gia tăng số lượng tín đồ của mình một
cách nhanh chóng. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp lo ngại Nhật tranh thủ giáo
phái Hòa Hảo nên đã câu thúc Huỳnh Phú Sổ ở Châu Đốc, Bạc Liêu, Cần Thơ.

Năm 1942, Nhật vận động được giáo chủ Hòa Hảo về Sài Gòn. Tại đây ông đã vận
động được nhiều nhân vật hoạt động chính trị thân Nhật vào đạo Hòa Hảo để gây
thanh thế, đồng thời thời gian này nhiều thanh niên theo đạo Hòa Hảo cũng tham
gia các tổ chức của Nhật.
Năm 1946, Huỳnh Phú Sổ cùng với những người lãnh đạo Hòa Hảo thành
lập tổ chức Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng gọi tắt là "Đảng Dân xã" vào Tháng
Chính năm 1946 bao gồm lực lượng nòng cốt trong Hòa Hảo và tổ chức Việt Nam
Quốc gia Độc lập Đảng. Đảng Dân xã có điều lệ và chương trình hành động, cơ
cấu tổ chức riêng, có vai trò như một tổ chức chính trị. Từ đó Hòa Hảo vừa có đạo
vừa có đảng mang hình thức gần với một tổ chức chính trị. Khối Hòa Hảo còn tổ


chức lại lực lượng vũ trang vào Tháng Sáu năm 1946 mang tên "Nghĩa quân Cách
mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực".
1.3. 1947-1972
Năm 1947, Huỳnh Phú được các cán bộ Cộng Sản mời tham dự cuộc họp để
giải quyết mâu thuẫn giữa các tín đồ Hòa Hảo với đảng Cộng Sản, vì ông quá tin
tưởng Cộng Sản nên chỉ mang theo 4 vệ sĩ đi theo nên đã bị Cộng Sản thủ tiêu .các
bộ phận lực lượng tìm cách ảnh hưởng những phần tử quá khích trong đạo Hòa
Hảo theo hoặc chống lại Việt Minh, gây ra những vụ thanh toán và tranh giành ảnh
hưởng đẫm máu. Nội bộ Hòa Hảo có sự chia rẽ thành các nhóm khác nhau, cát cứ
ở các vùng thuộc Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ.
Năm 1964 đạo Hòa Hảo có sự củng cố lại về tổ chức, xây dựng mở mang
các cơ sở tôn giáo, văn hóa, xã hội. Hệ thống Ban trị sự được kiện toàn từ trung
ương đến cơ sở (hình thành cơ cấu tổ chức 4 cấp trung ương, tỉnh, huyện, xã).
Đảng Dân xã cũng được củng cố để hỗ trợ cho đạo, đồng thời cơ quan lãnh đạo
Hòa Hảo có sự phân đôi thành 2 ban trị sự trung ương: phái cũ do Lương Trọng
Tường, phái mới do Huỳnh Văn Nhiệm đứng đầu.
1.4. 1972-nay
Năm 1972 Lê Quang Liêm tách ra khỏi phái cũ của Lương Trọng Tường thành lập

ban trị sự trung ương mới. Lúc này đạo Hòa Hảo có tới 3 ban trị sự trung ương
cùng tồn tại cho đến thống nhất đất nước. Sau đó, Hòa Hảo thành lập thêm Tổng
đoàn bảo an, lập Viện đại học Hòa Hảo.
Đến nay, Hòa Hảo vẫn phát triển chú yếu trong vùng tứ giác Long Xuyên. Số
lượng tín đồ khoảng 2 triệu người.
2. Giáo lý Hòa Hảo


Giáo lý Hòa Hảo được thể hiện trong những bài sấm kệ do Huỳnh Phú Sổ biên
soạn, bao gồm 6 tập:
1. Sấm khuyên người đi tu niệm
2. Kệ của người Khùng
3. Sấm giảng
4. Giác mê tâm kệ
5. Khuyến thiện
6. Những điều sơ học cần thiết của kẻ tu hiền
Có thể nhận thấy giáo lý Hòa Hảo là sự tiếp thu và nâng cao tư tưởng Bửu Sơn
Kỳ Hương của Đoàn Minh Huyên, gồm phần "Học Phật" và phần "Tu nhân":


Phần "Học Phật": chủ yếu dựa vào giáo lý đạo Phật song được giản lược
nhiều và có thêm bớt đôi chút. Tinh thần chính là khuyên tín đồ ăn ngay ở
hiền.



Phần "Tu nhân": theo giáo lý Hòa Hảo tu nhân có nghĩa là tu "tứ ân hiếu
nghĩa"- đó là 4 điều Đoàn Minh Huyên, đã chỉ ra, bao gồm Ân tổ tiên cha
mẹ, Ân đất nước, Ân đồng bào nhân loại, Ân tam bảo (Phật, Pháp, Tăng).


Đạo Hòa Hảo khuyên tín đồ vừa học Phật vừa tu nhân để tạo nên công đức. Có
công đức để trở thành bậc hiền nhân. Song, họ đặc biệt yêu cầu tín đạo phải tu
nhân, cho rằng việc tu hành phải dựa trên đạo đức, trước hết đạo làm người: Thiên
kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên (Không có tu nhân thì không thể học Phật, hoặc
học Phật mà chẳng tu nhân thì cũng vô nghĩa); Dụng tu Tiên đạo, tiên tu Nhân
đạo; Nhân đạo bất tu, Tiên tu viễn ký (Muốn tu thành Tiên Phật trước hết phải tu
đạo làm người, đạo người mà không tu thì Tiên Phật còn xa vời).
3. Nghi lễ và tổ chức


Đạo Hoà Hảo chủ trương tu tại gia hơn là đi lễ chùa. Họ chủ trương giúp đỡ
người nghèo hơn là cúng tiền xây chùa hay tổ chức lễ hội tốn kém. Những buổi lễ
được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi
hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Họ cho đó là
những sự phung phí thay vì dùng tiền đó dể giúp đỡ những người thực sự cần đến.
Đạo Hòa Hảo không có tu sĩ, không có tổ chức giáo hội mà chỉ có một số
chức sắc lo việc đạo và cả việc đời. Không có nơi thờ công cộng, trung tâm của
đạo ở làng Hòa Hảo gọi là tổ đình cũng chỉ mang tính gia tộc. Đạo này không xây
dựng chùa chiền, không có tượng ảnh thờ. Vật thờ của đạo Hòa Hảo là miếng vải
đỏ (trần điều) trên bàn thờ (còn gọi là trang thờ) đặt ở gian chính giữa và xây một
bàn thông thiên ở sân trước của nhà. Việc thờ phụng này thể hiện tư tưởng của
Phật giáo: "Phật tại tâm, tâm tức Phật". Đạo Hòa Hảo thờ Phật, ông bà tổ tiên và
các anh hùng tiên liệt có công với đất nước, không thờ các thần thánh nếu không rõ
nguyên nhân.
Lễ vật khi thờ phúng cũng rất đơn giản chỉ có hoa và nước lạnh (nước mưa,
nước lọc tinh khiết). Ban đêm đốt đèn ở bàn thờ trong nhà và bàn thờ thông thiên.
Khi thờ tín đồ chỉ đọc sấm giảng do thầy Huỳnh Phú Sổ soạn và niệm lục tự Nammô-a-di-đà-Phật với mục đích tĩnh tâm.
Ngoài ra đạo Hòa Hảo còn có một số quy định về tôn giáo và quan hệ gia
đình, xã hội. Ví dụ người nhập môn phải tuyên thệ trước Tam Bảo, nam tín đồ phải
để vấn tóc (búi) để giữ hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên, tín đồ phải thực hiện ăn chay

từ thấp đến cao (4 đến 10 ngày trong 1 tháng hoặc trường chay như đạo Cao Đài,
ngày tín đồ phải 2 lần cầu nguyện và khấn lạy trước bàn thờ (sáng, tối). Lời khấn
nguyện khi cúng lễ của tín đồ Hòa Hảo là câu Nam mô nhất nguyện, Thiên hoàng,
Địa hoàng, Nhân hoàng, Liên hoa hải hội, thượng Phật từ bi, Phật vương độ chúng,
thế giới bình an.


5. Các ngày lễ tết
Trong một năm, theo âm lịch đạo Hào Hảo có các ngày lễ, Tết chính:


Ngày 1 tháng Giêng: Tết Nguyên Đán



Ngày Rằm tháng Giêng: Lễ thượng nguyên



Ngày 8 tháng 4: Lễ Phật đản



Ngày 18 tháng 5: Lễ khai đạo



Ngày Rằm tháng 7: Lễ trung nguyên




Ngày 12 tháng 8: Vía Phật thày Tây An



Ngày Rằm tháng 10: Lễ hạ nguyên



Ngày Rằm tháng 11: Lễ Phật A-di-đà



Ngày 25 tháng 11: Lễ sinh nhật giáo chủ Huỳnh Phú Sổ



Ngày 8 tháng Chạp: Lễ Phật thành đạo

6. Đạo Hòa Hảo trong những năm gần đây
Đạo Hòa Hảo ra đời trong tình hình chính trị phức tạp, từng bị các thế lực
phản động lôi kéo lợi dụng. Trên thực tế sự lợi dụng này có lúc khá nặng nề, gây
thiệt hại cho cách mạng và còn tạo ra tình trạng chia rẽ không bình thường trong
nội bộ của đạo Hòa Hảo.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, ngày 19-6-1975, Tổ đình đạo Hòa
Hảo tuyên bố giải tán. Ban trị sự các cấp, kêu gọi tín đồ tu tại gia như lúc đầu.
Cho đến đầu năm 1999, đạo Hòa Hảo không có tổ chức giáo hội, tín đồ tu tại gia.
Hàng năm đến ngày khai đạo (18 tháng 5 Âm lịch) các tín đồ tổ chức hành hương
về Tổ đình (nơi sinh sống của gia tộc ông Huỳnh Phú Sổ).



Ngày 26-5-1999, Đại hội đại biểu đạo Hòa Hảo lần thứ I được tổ chức tại An
Giang, thông qua chương trình đạo sự, quy chế tổ chức, hoạt động của Ban đại
diện, đồng thời đã bầu ra Ban Đại diện nhiệm kỳ I và ngày 11-6-1999, Ban Tôn
giáo của Chính phủ đã chấp thuận quy chế đạo Hòa Hảo, tổ chức hoạt động và
nhân sự của Ban đại diện và cho đến nay, hoạt động của đạo Hòa Hảo đã trở nên
bình thường.
7. Số Tín Ðồ Phật Giáo Hòa Hảo
Tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong ngày lễ đạo trước năm 1975 tại Thánh Địa Hòa
Hảo, nay là Huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, Việt Nam. Tổng số tín đồ Phật Giáo
Hòa Hảo được ước lượng vào khoảng trên 2 triệu người (trước 1975), đại diện cho
một tỉ số 38% trên dân số vùng Hậu Giang, hay 10% trên tổng số dân Việt Nam
Cộng Hòa. Có những tỉnh như Châu Ðốc, An Giang, Kiến Phong, Sa Ðéc, tín đồ
Phật Giáo Hòa Hảo lên đến 90 % dân số; ở các tỉnh khác, tỷ số này thay đổi từ 10
đến 60 %. Nếu tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tham gia các cuộc bầu cử ứng cử trong
nhiệm vụ đại biểu nhân dân, thì họ sẽ chiếm được đại đa số ghế. Tỷ dụ trong cuộc
bầu cữ hội đồng hàng tỉnh năm 1965, tại các tỉnh An Giang, Châu Ðốc, tất cả các
đại biểu nhân dân đều là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo; và tại các tỉnh Kiến Phong,
Vĩnh Long, Phong Dinh, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đã chiếm 80 % số ghế. Tỷ số
này cũng đã được thể hiện trong cuộc bầu cữ Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng
Hòa ngày 11-9-1965, và liên danh đắc cữ nhiều phiếu nhứt trong toàn quốc là liên
danh của tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tỉnh An Giang.
8. Ðặc Tính Phật Giáo Hòa Hảo
- Đặc tính thứ nhất: nằm trong truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương đến Phật Giáo
Hòa Hảo là một nền đạo Phật của nông dân. Ðức Phật Thầy Tây An trước kia vừa
truyền bá đạo Phật vừa khuyến khích nông nghiệp dưới hình thức Lập trại ruộng để
vừa tu hành vừa cày cấy. Ngày nay cũng thế, hầu hết tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo là


nông dân, và đó cũng là một lý do tại sao Ðức Huỳnh Giáo Chủ đã lập đạo tại một

vùng đất phì nhiêu nhứt Việt Nam.
Trên phương diện nhân sinh và xã hội, người ta cũng nhận định rằng bản chất
thuần phác của người nông dân cho họ có căn bản thuận lợi để tu học theo đạo
Phật.
- Đặc tính thứ hai: Phật Giáo Hòa Hảo cũng như Bửu Sơn Kỳ Hương đều chủ
trương tu hành tại gia. Bởi vì các vị Giáo Chủ này đã nghĩ rằng đạo Phật không
những chỉ truyền bá ở thiền môn mà còn phải phát triển rộng rãi đến mọi gia đình.
Do đó các tín đồ PGHH không bị bắt buộc phải cạo đầu vào chùa, lìa bỏ mọi việc
ngoài thế gian, mà họ vẩn ở tại gia đình, sống như mọi người công dân khác với
nếp sống bình dị trong nông nghiệp, đồng thời tu hành theo giáo lý của Ðức Thích
Ca.
Tôn chỉ tu hành của Phật Giáo Hòa Hảo là Học Phật Tu Nhân, tức là noi theo giáo
lý chơn truyền của Ðức Phật mà tu sửa con người, để vừa làm tròn bổn phận trong
cõi đời đang sống, vừa dọn thân tâm cho trong sáng để được siêu thăng vào cõi
Tịnh Ðộ Cực Lạc, giải thoát khỏi vòng luân hồi.
Ðể thi hành tôn chỉ Học Phật Tu Nhân, người tín đồ PGHH phải tích cực
thực hiện Tứ Ân, tức 4 điều ân lớn, là:
1- Ân Tổ Tiên Cha Mẹ
2- Ân Ðất Nước
3- Ân Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng)
4- Ân Ðồng Bào Nhơn Loại(Xin xem sách về Giáo Lý PGHH) Cũng trong đường
lối đó, người tín đồ PGHH đã tỏ ra tích cực tu hành đồng thời cũng tích cực hy
sinh vì đất nước, khi quốc giahữu sự.
- Đặc tính thứ ba: là sự canh tân phương pháp hành đạo nhằm loại trừ mọi hình
thức rườm rà mê tín dị đoan. Ðặc tính canh tân này có mục đích loại bỏ âm thinh
sắc tướng để phát dương phần tinh túy của đạo Phật, đúng theo chánh pháp vô vi


của


Ðức

Phật.

Ðạo Phật Giáo Hòa Hảo chủ trương canh tân như sau:
- Không cất chùa đúc tượng thêm ngoài những ngôi chùa đã sẳn có. Ai giàu lòng từ
thiện thì nên phát tâm bố thí, cứu trợ kẻ nghèo khổ, hơn là cất chùa lớn, đúc tượng
cao.
- Không chấp nhận thầy cúng, thầy lễ, thầy bói, thầy phù thủy, cũng không dâng
cúng chè xôi thực phẩm cho Phật, vì Phật không dùng những của hối lộ đó.
- Không dùng cờ phướn, lầu kho, đốt giấy tiền vàng bạc, phí tổn vô ích....
- Không khóc lóc hay làm linh đình lúc tang ma, mà chỉ im lặng cầu nguyện cho
linh hồn người chết được siêu thoát.
- Không ép hôn, thách tiền cưới hay tiệc rượu linh đình, vì sẽ mang nợ, gây hại về
sau.
Tóm lại, giáo pháp vô vi Phật Giáo Hòa Hảo nhằm canh tân phương pháp hành đạo
để trở về với giáo lý chơn truyền của Ðức Phật, là tu hành tại Tâm, chảng phải ở
hình thức lễ nghi bề ngoài.
9. Sự Thờ Phượng Của Phật Giáo Hòa Hảo
Trong chủ trương canh tân nói trên, sự thờ phượng trong nhà các tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo thật là giản dị. Trên bàn thờ, không có tượng Phật, không có chuông
mõ. Chỉ có một tấm Trần bằng vải màu dà, tượng trưng cho sự hòa hợp nhơn loại,
và cho màu sắc nhà thiền. Ðó là bàn thờ Chư Phật. Dưới bàn thờ Phật là bàn thờ
Cữu Huyền Thất Tổ, ông bà cha mẹ đã khuất. Trước nhà có một bàn thờ lộ thiên
( gọi là bàn Thông Thiên) để người tín đồ cảm thông với Trời Ðất , bốn phương
trời, mười phương Phật. Chỉ dùng nước lạnh, bông hoa, và nhang để cúng Phật.
Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn
nhang dùng đặng bán mùi uế trược. Mỗi ngày người tín đồ PGHH làm lễ cúng
Phật, ít nhứt hai lần, buổi sáng và buổi tối. Trong các ngày rằm, mồng một, ngày
vía Chư Phật, họ đến chùa hay hội quán hành lễ, và nghe kinh giảng hay nghe



thuyết pháp. Lúc đãnh lễ họ không dùng mõ chuông, mà chỉ lâm râm tâm niệm.
Khi nào mắc công việc thì đến giờ hành lễ họ quay mặt về hướng Tây mà cúng
Phật, và khuyến khích nhau ngồi đâu, ở đâu cũng tụng niệm trong tâm.Ngoài ra
trong các Xã, Ấp có những độc giảng đường trang bị máy phóng thanh, để mỗi
ngày trong những giờ nhất định, có những giảng viên đến đọc kinh giảng hay
thuyết pháp cho người chung quanh cùng nghe. Ðộc Giảng Ðường Phật Giáo Hòa
Hảo là những ngôi chùa thâu hẹp chỉ để truyền đạo, chớ không phải để cư trú, nên
nhỏ hơn chùa, bởi bản chất Phật Giáo Hòa Hảo là cư sĩ tại gia.
Hiện nay ( trước 1975) chỗ nào có nhiều tín đồ PGHH đều có Ðộc Giảng
Ðường, với nét kiến trúc đặc biệt của Phật Giáo Hòa Hảo. Theo kiểm kê năm 1965,
Phật Giáo Hòa Hảo có 390 Ðộc Giảng Ðường. (Sau 1975, trên 300 độc giảng
đường đã bị nhà cầm quyền Việt Nam đập bỏ)
10. Cờ Ðạo, Huy Hiệu
Cờ đạo hình chủ nhật màu dà, không có chữ hay hình tượng nào. Huy hiệu
PGHH hình tròn màu dà, bìa vàng trên có bông sen trắng và bốn chữ viết tắt
PGHH.
11. Thánh Ðịa
Thánh Ðịa Phật Giáo Hòa Hảo đặt tại làng Hòa Hảo tức là sanh quán của
Ðức Huỳnh Giáo Chủ, và cũng là nơi khai sáng mối Ðạo. Tại đây không có sự xây
cất đồ sộ, nhưng có một nếp sống đặc biệt an lạc, với không khí đạo giáo.
12. Hệ Thống Tổ
Chức
Ðoàn thể PGHH được quản trị bởi một hệ thống Ban Trị Sự. Các Ban Trị Sự
được thiết lập từ mỗi Ấp, Xã, Quận, Tỉnh. Trên hết là một Hội Ðồng Trị Sự Trung
Ương. Mỗi Ấp chia làm nhiều chi hội. Nhờ một tổ chức đi sâu vào tới hạ tầng cơ


sở quần chúng, nên sự điều hành công việc được chặc chẽ, và các chỉ thị được thi

hành suốt từ trung ương xuống đến các chi hội.
Nguyên tắc tổ chức và điều khiển là dân chủ tập trung, tức là:
a- Bầu Cử:
Các tín đồ bầu cử lựa chọn đại diện của mình vào các ban trị sự Ấp. Sau đó
các Ấp bầu ban trị sự Xã; và các Ấp, Xã bầu ban trị sự Quận, Tỉnh. Rồi tất cả Ấp,
Xã, Quận, Tỉnh bầu lên Hội Ðồng Trị Sự Trung Ương.
b- Lãnh Ðạo:
Nguyên tắc dân chủ tập trung làm cho các trị sự viên được bầu có tính chất đại
diện bởi đã được lựa chọn theo tiêu chuẩn đạo đức, nên đương nhiên có uy tín để
điều hành mọiviệc.Do đó, giáo quyền,được tôn trọng theo nguyên tắc hạ cấp phục
tòng

thượng

cấp.

Các ban trị sự gồm từ 10 đến 15 người. Hội Ðồng Trị Sự Trung Ư gồm 23 người.
Bên cạnh Hội Ðồng Trị Sự Trung Ương có một Hội Ðồng Bảo Pháp đặc trách vấn
đề thi hành kỷ luật theo giới điều của Ðạo. Trên hết có vị lãnh đạo tinh thần tối cao
là Ðức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ, người đã khai sáng mối Ðạo.
13. Sinh Hoạt
Phật Giáo Hòa Hảo được khai sáng từ năm 1939. Lúc đó là thời kỳ việt Nam
lệ thuộc nước Pháp, nên người Pháp nhiều lần đàn áp và ngăn chận sự truyền đạo
của đức Huỳnh Giáo Chủ. Ðến khi quân đội Nhựt tiến chiếm đông Dương, nhà
cầm quyền Nhựt tỏ ý muốn giúp đở các đoàn thể quốc gia và tôn giáo để đòi lai
chủ quyền trong tay người Pháp. Do đó, vào năm 1942, Ðức Huỳnh Giáo Chủ
được quân đội Nhậtt giải thoát khỏi tình trạng biệt xứ tại Bạc Liêu, và đưa Ngài về
Sài gòn. Ðức Huỳnh Giáo Chủ tuy cám ơn người Nhật đã giải thoát mình, nhưng
vẫn một mặt đòi hỏi chánh phủ Nhật hãy thật sự giao trả chủ quyền Việt Nam cho
dân tộc Việt Nam. Năm 1945, đoàn thể PGHH tổ chức kháng chiến chống Pháp, và

sau đó chống chế độ độc tài khủng bố do cộng sản Việt Minh chủ trương. Sau khi


hiệp định GƠ Neo ký kết, ông Ngô Ðình diệm chấp chánh quyền hành tại Việt
Nam, và dưới chế độ gia đình trị này, Phật Giáo Hòa Hảo cũng lại bị đàn áp, không
được tự do sinh hoạt. Chỉ sau khi chế đỗ này bị lật đổ ngày 1-11-1963, Giáo Hội
Phật Giáo Hòa Hảo mới có thời cơ để tổ chức lại hàng ngũ tín dồ và hệ thống quản
trị. Cuộc tiến chiếm miền Nam năm 1975 bởi cộng sản Bắc Việt lại làm cho Phật
Giáo Hòa Hảo phải thêm một lần nữa, chịu một thời kỳ bị đàn áp đen tối. Cũng
như các tôn giáo khác ở Việt nam, tín đồ PGHH đang phải trực diện với một chánh
sách bài trừ tôn giáo. Cộng sản Bắc Việt đã tịch thâu các cơ sở của Ðạo, và giam
cầm các cấp lãnh đạo trị sự Phật Giáo Hòa Hảo. Trong sinh hoạt bình thường,
trọng tâm công tác của Giáo Hội PGHH nhắm vào 2 mục tiêu chính. Thứ nhứt là
phổ truyền giáo lý trong và ngoài nước. Thứ hai, thực hiện các công tác xã hội, văn
hóa, cứu trợ và bố thí. Công tác phổ truyền giáo lý dược xem như món ăn tinh thần
để bồi dưỡng và phát huy đạo dức trong xã hội và cải tạo con người, đồng thời các
công tác xã hội văn hóa nhằm tác dụng nâng cao đời sống của chúng sanh, trong
một xã hội đang tiến bộ theo trào lưu của thế kỷ 20 hiện nay. Trong công thức Học
Phật Tu Nhân, trên 2 triệu người tín đồ PGHH cư sĩ tại gia đồng thời với sự tu sửa
thân tâm, lại còn đóng góp vào việc phát triển nền kinh tế nông nghiệp của Việt
Nam. Hơn thế, khi quốc gia hữu sự, tín dồ PGHH sẳn sàn hiến dâng đời sống hy
sinh để bảo vệ tổ quốc.

Mỗi năm đặc biệt trong ngày đại lễ Kỹ Niệm Khai Sáng

Mối Ðạo vào 18 tháng 5 Âm lịch, các sự kiện trên đây dược thể hiện trong tổ chức
đại lễ nơi Thánh địa Hòa Hảo và ở khắp vùng Hậu Giang.

14. Trong Cộng Ðồng Phật Giáo Thế Giới
Hiện nay Phật Giáo Hòa Hảo là một trong 4 tôn giáo quan trọng nhứt ở Việt

Nam. Với khối quần chúng trên hai triệu người, PGHH không những có tánh chất
của một khối quần chúng tâm lý sắt son tin tưởng nơi giáo lý cao siêu của Ðức
Huỳnh Giáo Chủ, mà còn thêm tổ chức thành hàng ngũ, hệ thống chặc chẽ, để chịu


đựng mọi thử thách cam go mà tự tồn phát triển. Trên bình diện quốc gia, giáo hội
Phật Giáo Hòa Hảo là một hội viên sáng lập của Hội Ðồng Tôn Giáo Việt Nam,
một cơ quan đoàn kết các tôn giáo chánh yếu như: Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo,
Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Ðài Giáo, Tin Lành... Dồng thời PGHH cũng tham gia
các sinh hoạt quốc gia, đúng theo truyền thống của một tôn giáo dân tộc. Ngoài ra,
giáo lý PGHH cũng đã dược tiếp nhận với nhiều cảm tình bởi nhiều giới trí thức
Ðông phương cũng như Tây phương.
Bởi vì, với một giáo thuyết hòa đồng tinh hoa Tam giáo, Phật Giáo Hòa Hảo
đã phát dương giáo pháp chơn truyền của Dức Thích Ca Mâu Ni lam căn bản giáo
lý, lại thêm các tư tưởng Nho giáo, Lão giáo, đã ăn sâu vào tập tục dân tộc Việt
Nam, để kết thành một tư tưởng Ðạo học có đặc thái dân tộc Việt Nam. Với giáo
thuyết phong phú ấy, Phật Giáo Hòa Hảo là một tổ chức đang hướng dẫn một phần
nhân loại dưới ánh sáng của Ðức Phật, để đưa con người trong thế kỷ hiện tại đến
những giá trị tinh thần mới, hầu cùng với các Phật tử thế giới và các Giáo Hội Phật
Giáo khắp các quốc gia, xiễn dương đạo Phật, cải tạo xã hội, giải thoát con người.
15. Phụ Bản: Hệ Thống Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo
( Tài liệu báo Phương Ðông số 23, 5-73, tác giả Hinh Phương)
Hệ thống ban trị sự:
A- Hội Ðồng Trị Sự Trung Ương.
B-Các Ban Trị Sự Tỉnh:
An Giang, Châu Ðốc, Sa Ðéc, Kiến Phong, Kiên Giang, Vĩnh Long, Phong Dinh,
Bạc Liêu, Chương Thiện, An Xuyên, Ba Xuyên, Biên Hòa, Gia Ðịnh, Vĩnh Bình,
Kiến Hòa, Kiến Tường, Lâm Ðồng, Tuyên Ðức, Ninh Thuận, Phú Yên, Bình Ðịnh,
và liên tỉnh Long An / Ðịnh Tường.
C- Các Ban Trị Sự Thị Xã:

Sài Gòn, Cần Thơ, Mỹ Tho, Rạch Giá, Vũng Tàu, Ðà Lạt.
D- Các Ban Trị Sự Thuộc Trung Ương:


Thánh Ðịa Hòa Hảo, Xã Thiện Từ.
E- 82 Ban Trị Sự Cấp Quận, 476 Ban Trị Sự Cấp Xã, 3.100 Ban Trị Sự Cấp Ấp.
Cơ sở tự viện:
213 chùa chiền, tu viện.
468 độc giảng đường.
452 hội quán.
2.800 văn phòng.
Nhân sự:
36.500 trị sự viên các cấp.
2.679 tu sĩ và nhân viên tại các tự viện.
6.086 đọc giảng viên. 10.000 nhân viên và khóa sinh ngành Phổ Thông Giáo Lý.

B. Huỳnh Phú Sổ
Huỳnh Phú Sổ (1920-1947) là người sáng lập đạo Hòa Hảo, hay còn gọi là
Phật giáo Hòa Hảo.
1.1. Thiếu thời
Huỳnh Phú Sổ sinh ngày 15 tháng 1 năm 1920 nhằm ngày 25 tháng 11 năm
Kỷ Mùi tại làng Hoà Hảo, huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, (nay thuộc huyện Phú
Tân, tỉnh An Giang). Thuở nhỏ ông thông minh, học hết bằng sơ học yếu lược
Pháp - Việt nhưng hay bị đau ốm nên đành bỏ dở việc học.
Trong một lần lên núi Sam (Bảy Núi, An Giang), tiếp xúc với phái Phật giáo
Bửu Sơn Kỳ Hương, ông được trị bệnh tốt và luyện chí tu hành. Năm 1937, Huỳnh
Phú Sổ về làng, chữa bệnh cho dân, viết kinh, giảng sấm, tự xưng là Phật thầy.
1.2. Khai đạo



Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (4 tháng 7 năm 1939) ông đứng ra cử hành lễ
"đền linh Khứu Sơn trung thọ mạng" khai đạo, lấy tên là Hòa Hảo, đó vừa là tên
quê hương ông vừa có ý nghĩa là "hiếu hòa" và "giao hảo". Từ đó Huỳnh Phú Sổ đi
chữa bệnh, tiên tri, thuyết pháp và sáng tác thơ văn, kệ giảng. Văn chương của ông
bình dân nên dễ đi vào lòng người. Chỉ trong một thời gian ngắn số tín đồ và ảnh
hưởng của Huỳnh Phú Sổ càng ngày càng gia tăng và trở thành một phong trào tín
ngưỡng mạnh mẽ khiến Thực dân Pháp lo ngại.
Ngày 18 tháng 8 năm 1940 họ đưa ông đi quản thúc tại Sa Đéc.
Ngày 23 tháng 5 năm 1940, chuyển ông sang quản thúc ở làng Nhơn Nghĩa,
tỉnh Cần Thơ nhưng cả hai nơi này đều được đông đảo quần chúng đến xin nghe
thuyết pháp và quy y Phật giáo Hòa Hảo.
Vì vậy ngày 28 tháng 7 năm 1940, nhà cầm quyền Pháp đưa Huỳnh Phú Sổ
vào bệnh viện Cần Thơ và sau đó chuyển lên nhà thương điên Chợ Quán tại Sài
Gòn.
Tháng 6 năm 1941 Huỳnh Phú Sổ bị đưa đi quản thúc ở Bạc Liêu. Tại đây
ông không được phép trị bệnh và thuyết pháp.
Tháng 10 năm 1942 trước tin tức người Pháp sẽ đưa Huỳnh Phú Sổ đi đày ở
Ai Lao (Lào), các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và hiến binh Nhật đã giải cứu ông đem
về Sài Gòn.
Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1945 Huỳnh Phú Sổ đi thuyết pháp và khuyến
nông tại 107 địa điểm ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
1.3. Hoạt động chính trị
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Huỳnh Phú Sổ cùng Hồ Văn Ngà, Trần Văn Ấn,
Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Thạch... thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất.


×