Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Cách mạng khoa học công nghệ và việc áp dụng nó vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam hiện nay (recovered)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.97 KB, 71 trang )

Lời mở đầu
Lời mở đầu...................................................................................................................................................1
II. SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC.........................................................19
- Việt Nam đang ở trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, đối mặt với những cơ hội và thách thức to lớn. Với mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa
trên cơ sở tăng vốn đầu tư, khai thác các lợi thế về tài nguyên và sức lao động, nền kinh tế Việt Nam
chưa đảm bảo nền tảng cho sự phát triển nhanh, bền vững và không thích ứng với bối cảnh khoa học và
công nghệ phát triển như vũ bão, toàn cầu hoá trở thành xu hướng tất yếu, cạnh tranh quốc tế ngày
càng gay gắt. .............................................................................................................................................52
- Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến năm 2020 là giai đoạn có ý nghĩa quyết định đối
với sự phát triển của Việt Nam, đang đặt ra những yêu cầu to lớn cho sự phát triển khoa học và công
nghệ. Kinh tế nước ta phải chuyển sang thời kỳ phát triển mới dựa vào những ngành công nghiệp sử
dụng công nghệ cao, nông nghiệp năng suất cao và dịch vụ chất lượng cao; tốc độ tăng GDP chủ yếu từ
tăng năng suất lao động, trong đó khoa học và công nghệ đóng vai trò then chốt và quyết định...........52

Kết luận

1


LỜI MỞ ĐẦU
-----Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang đem lại
những thành tự to lớn cho sự phát triển của nhân loại, nó đẩy nhanh sự phát
triển của lực lượng sản xuất, tạo năng suất lao động cao và làm chuyển biến
mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và đồng thời làm thay đổi sâu sắc
mọi mặt của đời sống xã hội loài người.
Bước vào thế kỷ XXI, trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kỹ thuật, văn
hoá, giáo dục – đào tạo, môi trường … đều có những biến đổi sâu sắc. Cùng
với sự xuất hiện các cơ hội phát triển mới, nguy cơ tụt hậu về kinh tế, khoa
học và công nghệ thông tin … sẽ là những thách thức lớn đối với nhiều quốc


gia trên thế giới.
Khoa học – công nghệ luôn đóng vai trò quan trọng trong việc nắm bắt
các cơ hội phát triển mới, rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia, đẩy
nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới và làm biến đổi
nền sản xuất, điều này kéo theo sự thay đổi lớn trong các lĩnh vực kinh
doanh cũng như trong quản lý của mỗi một đơn vị doanh nghiệp. Sự phát
triển của khoa học công nghệ cũng làm cho quá trình cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp và các quốc gia trở nên khốc liệt. Điều này đòi hỏi các nhà
quản lý kinh tế phải có những chính sách phù hợp để phát triển nền sản xuất
kinh doanh và đặc biệt là việc thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại
hoá ở Việt Nam.
2


Trong sự nghiệp CNH - HĐH hiện nay KHCN đang chiếm một vị trí đặc
biệt quan trọng. Bởi vì nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến
là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn của chúng ta là
một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành CNH HĐH. Trong thời đại ngày nay, CNH phải gắn liền với HĐH. CNH - HĐH ở
nước ta là nhằm xây dựng CSVC kỹ thuật cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trung
tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta.
Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: “Cách mạng khoa học công nghệ và
việc áp dụng nó vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam hiện nay”
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, sự nghiên cứu về đề tài còn
nhiều thiếu sót, kính mong các giảng viên giúp đỡ và giúp em bổ sung
những thiếu sót để em có thể hoàn thiện đề tài tiểu luận của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !

3



NỘI DUNG
-----I. CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ
I.1.

Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ

Những thời đại Kinh tế khác nhau ở chỗ không phải là chúng sản xuất ra
cái gì mà là chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động gì và
khám phá được gì cho nền sản xuất kinh doanh. Như vậy sự phát triển của
công nghệ có thể được biết tới qua những mốc lịch sử lớn sau đây:
 Thứ nhất: những công cụ nguyên thuỷ: hòn đá, cây gậy nhọn, cung tên
và những tư liệu lao động khác như ngọn lửa, một số động vật được thuần
dưỡng … Đây có thể xem như là sự khám phá tìm tòi nghiên cứu cũng như
là những phát minh của con người ở thủa còn sơ khai.
 Thứ hai: thời đại đồ đá, đây là một giai đoạn phát triển khá dài và
được phân rõ thành 2 giai đoạn:
• Thời đại đồ đá cũ: Con người sử dụng các công cụ là một phần trong
quá trình khám phá và sự tiến hóa. Con người thuở ban đầu tiến hóa, biết đi
bằng 2 chân, có bộ não bằng khoảng 1/3 bộ não người hiện đại. Việc sử
dụng công cụ đã không có thay đổi đáng kể trong hầu hết giai đoạn ban đầu
của lịch sử loài người, nhưng vào khoảng thời gian cách đây 50.000 năm,

4


những hành vi phức tạp và sử dụng các công cụ xuất hiện, làm nhiều nhà
khảo cổ học kết nối với sự xuất hiện các ngôn ngữ hiện đại một cách đầy đủ.



Thời đại đồ đá mới: Sự phát triển công nghệ của loài người bắt đầu

nhanh trong thời kỳ đồ đá mới. Sự phát minh ra các lưỡi rìu đá được đánh
bóng là một tiến bộ quan trọng do nó cho phép chặt rừng trên diện rộng để
trồng trọt. Việc phát hiện ra nông nghiệp cho phép cung cấp thức ăn cho số
lượng người nhiều hơn, và sự chuyển tiếp sang lối sống định canh định cư
đã làm tăng số lượng trẻ con, vì trẻ nhỏ không cần thiết phải bế như lối sống
du canh du cư. Thêm vào đó, trẻ con có thể góp sức lao động để tàm tăng số
lượng cây trồng dễ dàng hơn việc họ chỉ sống theo phương thức hái lượm –
săn bắt. Với sự gia tăng dân số và sức lao động này đã dẫn đến sự gia tăng
chuyên môn hóa lao động. Sự xuất hiện các cấu trúc xã hội có thứ bậc ngày
càng gia tăng, đặc biệt là chuyên môn hóa về lao động, thương mại và chiến
tranh giữa các nền văn hóa lân cận, và sự cần thiết phải hành động tập thể để
vượt qua những thách thức môi trường, như việc xây dựng đê và hồ chứa
nước đều có vai trò rất quan trọng.
 Thứ ba: thời đại đồ đồng
 Thứ tư: thời đại đồ sắt
 Thứ năm: thời đại cơ khí hoá. Mở đầu bằng cuộc công nghệ công
nghiệp cuối thế kỷ 18 và được phát triển mạnh hơn cao hơn với việc ứng
dụng rộng rãi của điện khí hoá từ đầu thế kỷ 19.
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật. Cuộc cách mạng kỹ
thuật lần thứ nhất diễn ra đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII
và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ XX với nội dung chủ yếu là cơ
5


khí hóa, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Cuộc
cách mạng kỹ thuật lần thứ hai còn gọi là cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, xuất hiện vào những năm 50 của thế kỷ XX. Khoa học, công
nghệ thế kỷ XX đã phát triển như vũ bão. Nguồn gốc của sự phát triển này là

ba phát minh vĩ đại nhất của trí tuệ nhân loại nửa đầu thế kỷ XX:
• Thuyết tương đối của Anhxtanh
• Thuyết lượng tử của Flăngcơ
• Mật mã di truyền của Oatxơn và Gricơ
Những phát minh này là đã mở ra thế giới vi mô của vật chất và hình
thành nên hệ thống công nghệ mới.
Hệ thống công nghệ mới ra đời bao gồm: Công nghệ vi điện tử, máy
tính; Quang điện tử, lade; Vật liệu mới, hạt nhân, gen, tế bào…Quá trình
xuất hiện và phát triển bùng nổ của những công nghệ cao này chính là đặc
trưng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới- cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại ở thế kỷ XX
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo nên sự thay đổi
to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, cụ thể là:
- Về tự động hóa: sử dụng ngày càng nhiều máy tự động quá trình, máy
công cụ điều khiển bằng số, rô bốt.
- Về năng lượng: ngoài những dạng năng lượng truyền thống (nhiệt điện,
thủy điện) ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguyên tử
là chủ yếu và các dạng năng lượng "sạch" như năng lượng mặt trời, v.v..

6


- Về vật liệu mới: chỉ chưa đầy 40 năm trở lại đây các vật liệu mới đã
xuất hiện với nhiều chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt
mà vật liệu tự nhiên không có được. Ví dụ: vật liệu tổng hợp (composit);
gốm Zincôn hoặc cácbuasilích chịu nhiệt cao…
- Về công nghệ sinh học: được ứng dụng ngày càng nhiều trong công
nghiệp, nông nghiệp, y tế, hóa chất, bảo vệ môi trường… như công nghệ vi
sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ thuật gen và nuôi cấy tế bào.
- Về điện tử và tin học: đây là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, hấp dẫn đang

được loài người đặc biệt quan tâm, nhất là lĩnh vực máy tính diễn ra theo
bốn hướng: nhanh (máy siêu tính); nhỏ (vi tính); máy tính có xử lý kiến thức
(trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa (viễn tin học).
Vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại chuyển sang giai đoạn mới- giai đoạn đã và đang có
nhiều quan điểm khác nhau khi đặt tên gọi cho nó. Có người cho rằng đó là
giai đoạn công nghiệp siêu dẫn; có ý kiến cho là giai đoạn vi điện tử; ý kiến
khác lại cho là giai đoạn tin học hoá; các nhà tương lai học gọi là giai đoạn
văn minh trí tuệ, và theo họ nền văn minh này diễn ra sau nền văn minh
nông nghiệp và nền văn minh công nghiệp.
Mặc dù có thể còn có ý kiến khác nhau, song nhiều ý kiến nhất trí cho
rằng, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiên đại kể trên có hai đặc
trưng chủ yếu:
- Một là, khoa học - công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
(bao gồm cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội -nhân văn...) do con người
tạo ra và thông qua con người tác động trở lại đời sống kinh tế, xã hội. Vì
7


vậy, nó đòi hỏi cần phải có chính sách đầu tư cho khoa học - công nghệ một
cách thích ứng.
- Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học - công nghệ ra
đời thay thế cho phát minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng
vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Vì vậy, đòi hỏi cần được kết
hợp chặt chẽ giữa chiến lược khoa học - công nghệ với chiến lược kinh tế xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, khoa học và công nghệ luôn gắn bó chặt chẽ
với nhau: khoa học là tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết
quả trực tiếp của khoa học. Vì vậy ở nước ta hiện nay nâng cao năng lực và
hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ là tùng bước tạo tiền đề cho
kinh tế tri thức ra đời .

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. Khởi đầu từ những thập niên 50
của thế kỷ 20 với tên gọi này người ta muốn nhấn mạnh đến sự kết nối trực
tiếp từ những phát minh khoa học đến những ứng dụng vào kỹ thuật công
nghệ. Nếu trước đây từ những phát minh khoa học đến những ứng dụng vào
kỹ thuật công nghệ thường phải mất một thời gian khá dài, có khi cả trăm
năm, nghìn năm, thì ngày nay khoảng cách đó được rút ngắn đi rất nhiều.
Vào thời đại của C.Mác đã sớm nhận thấy xu hướng ấy khi đưa ra nhận định
: “Khoa học ngày trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”
Ở Châu Âu, sau đêm dài trung cổ, nhiều ngành khoa học đã có bước phát
triển nhảy vọt trong 2 thế kỷ 17 và 18. Khởi đầu là toán học, thiên văn học,
vật lý học, hoá học, với những nhà bác học điển hình như :

8


-Galia (1564- 1642) là nhà thiên văn học người Italia. Người đầu tiên
dùng kính viễn vọng quan sát mặt trời, mặt trăng và các hành tinh. Ông nổi
tiếng về công lao chứng minh thuyết vũ trụ của Copernic, phát minh ra luật
quán tính, luật rơi tự do…
-Niwton (1642- 1727) nhà khoa học người Anh, ông là nhà toán học, vật
lý học, thiên văn học, cơ học, phát minh ra định luật vạn vật hấp dẫn. Các
quy luật của cơ học cổ điển … kể từ đây, mở ra thời kỳ mới- thời đại cơ giới
hoá.
-Leonard de Vinci- danh hoạ vĩ đại. Ông đã vẽ các kiểu máy tiện, máy
bơm, vũ khí, máy bay, nghiên cứu địa chất.
-Copernic (1473-1543)-người Ba Lan, phát hiện ra mặt trời là trung tâm
vũ trụ.
-Lavoisier (1743-1794) nhà khoa học người Pháp phát hiện thành phần
hoá học của nước và cấu tạo nguyên tố hoá chất.
Cuộc cách mạng khoa học đã mở đường cho một cuộc cách mạng kỹ

thuật công nghệ lớn nhất trong lịch sử loài người vào cuối thế kỷ 18 mà nội
dung là chế tạo ra máy móc, cơ khí hoá nền sản xuất xã hội chuyển từ lao
động thủ công sang lao động bằng máy móc. Cuộc cách mạng kỹ thuật –
công nghệ được gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lớn nhất của nhân loại.
Bởi nó đưa máy móc vào công nghiệp thay thế thủ công bằng cơ khí hoá và
dùng máy móc để sản xuất ra maý móc như một quy luật quan trọng của
C.Mác đã phát hiện của sản xuất đại công nghiệp nhằm cơ khí hoá tiếp các
ngành sản xuất khác như vận tải, nông nghiệp…

9


Cuộc cách mạng công nghệ diễn ra đầu tiên ở Anh (trong khoảng thời
gian 1750-1830) rồi sau đó lan rộng sang Pháp, Đức và một số nước Châu
Âu cụ thể là:
-Máy kéo Sợi (1735) và tiếp sau là máy dệt.
-Máy hơi nước (1784) và tiếp sau đó là ôtô chạy bằng hơi nước (1789).
-Đầu tàu hoả chạy bằng hơi nước (1803)
-Tàu biển chạy bằng hơi nước (1851)
-Động cơ đốt trong (1860) và tiếp sau là ôtô chạy bằng động cơ đốt trong
(1886).
-Điện tín (1843), liên lạc điện thoại (1875), trạm điện thoại (1878)
-Đèn điện (1878)
-Từ đầu thế kỷ XX, điện được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất và vào
nhiều ngành kỹ thuật cơ khí hoá được phát triển và nâng cao nhờ Điện khí
hoá.
Tất cả những thành tựu về công nghệ đã dẫn đến kết quả làm cho lực
lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng cao. Nhờ đó mà loài
người chuyển từ phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất khác
cao hơn, chuyển từ nền văn minh này lên nền văn minh khác tiên tiến hơn.

I.2.

Lý luận chung về công nghệ
I.2.1. Công nghệ là gì ?

10


Công nghệ luôn được hiểu theo một nghĩa rộng là sự ứng dụng các trí
thức khoa học vào giải quyết một nhiệm vụ thực tiễn. Như vậy công nghệ là
một sản phẩm do con người tạo ra làm công cụ để sản xuất ra của cải vật
chất. Cho tới này định nghĩa về công nghệ chưa toàn diện thống nhất, điều
này được lý giải là do số lượng các công nghệ có nhiều đến mức không thể
thống kê được. Người sử dụng công nghệ trong những điều kiện và hoàn
cảnh khác nhau dẫn đến sự hiểu biết về công nghệ cũng khác nhau.
 Theo UNIDO (United Nation’s Industrial Development organization)
– tổ chức phát triển công nghệ của liên hợp quốc thì : công nghệ là việc áp
dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu
và sử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp.
 Theo ESCAP (Economic and Social Commission for asia and the
Pacific) – ủy ban kinh tế và xã hội châu á Thái Bình Dương thì : công nghệ
là một hệ thống kiến thức về quy trình kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và
thông tin. Sau đó ESCAP mở rộng định nghĩa của mình, nó bao gồm tất cả
các kỹ năng kiến thức thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất chế
tạo, dịch vụ, quản lý, thông tin.
Định nghĩa này được coi là bước ngặt trong lịch sử quan niệm về công
nghệ. Định nghĩa này không coi công nghệ phải gắn chặt với quá trình sản
xuất chế tạo ra các sản phẩm cụ thể mà mở rộng khái niệm ra các lĩnh vực
mới như dịch vụ và quản lý.
 Cuối cùng một định nghĩa được coi là khái quát nhất về công nghệ :

công nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra.

11


Khái niệm “công nghệ cao” cũng chỉ mới xuất hiện từ những năm 70-80
của thế kỷ XX khi một loạt công nghệ mới ra đời. - Trong sx dựa vào công
nghệ mới, chi phí vật chất ( nguyên liệu) cho sản phẩm ngày càng ít, trong
khi giá trị sản phẩm ngày càng tăng.
+ Vào những năm 20 của thế kỷ XX, chi phí nguyên liệu và năng lượng
cho 1 chiếc xe hơi chiếm 60% tổng chi phí sx
- Đến những năm 80 của thế kỷ XX, chi phí sx cho 1 cụm vi mạch bán
dẫn: chi phí vật chất chỉ còn chiếm 2% so với 98% cho phần trí tuệ trong
tổng chi phí
+ Chi phí nguyên liệu sx dây cáp đồng là 80 %; còn chi phí nguyên liệu
cho dây cáp điện thoại bằng sợi thủy tinh trong những năm 90 là 10%
+ Dây cáp đồng chỉ có thể chuyển tải được 1 trang thông tin/1 giây trong
khi dây cáp quang có thể chuyển tải hàng vạn tập sách trong 1 giây.
- Hiện nay, những lĩnh vực công nghệ cao đó là: Công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ vũ trụ, công
nghệ biển, công nghệ sạch, công nghệ quản lý
I.2.2. Các bộ phận cấu thành của công nghệ
Công nghệ là phương tiện để giải quyết các mục tiêu kinh tế nên thước
đo của hoạt động công nghệ là phần tăng trưởng kinh tế, góp phần vào việc
nâng cao năng suất lao động, thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội.
Công nghệ phụ thuộc vào môi trường kinh tế, môi trường xã hội trong
thực tế. Yêu cầu chất lượng, xu thế phát triển của thị trường, sản phẩm là
nhân tố hạn chế sự lựa chọn. Đồng thời lựa chọn công nghệ lại bị ràng buộc
12



bởi quan hệ buôn bán trong nước và quốc tế, do đó vấn đề áp dụng công
nghệ vào quá trình phát triển kinh tế giải quyết một mục tiêu cụ thề là một
tập hợp các vấn đề cần tính toán và đồng bộ.
Bất cứ một công nghệ nào, dù công nghệ đơn giản hay công nghệ phức
tạp thì cũng đều được cấu thành từ 4 yếu tố cơ bản, bốn thành phần đó tác
động qua lại lẫn nhau và hợp thành một chính thể khoa học.
+Con người- đội ngũ lao động kỹ thuật vận hành điều khiển và quản lý
có kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm (Human ware - Viết tắt là H)
+Thiết bị máy móc, dụng cụ, phụ tùng. Đây là phần vật chất, phần cứng
của công nghệ được gọi là kỹ thuật (Techro ware - viết tắt là T)
+Thông tin dữ liệu, dữ kiện, thuyết minh kỹ thuật, đặc trưng kỹ thuật, tài
liệu hướng dẫn (Inforware- viết tắt là I)
+Quản lý là chỉ các hoạt động giữ mối liên kết trong phân bổ các nguồn
lực, thiết kế và thực thi các chính sách quản lý sản xuất và kinh doanh. Có
thể gọi đây là phần tổ chức của công nghệ (Orga ware - viết tắt là O)
Vậy trong 4 bộ phận cấu thành cơ bản đó thì con người đóng vai trò chủ
đạo trong quá trình vận hành và biến đổi công nghệ. Nhờ đó sử dụng tốt
hơn các nguồn lực, thiết bị là cốt lõi. Nhưng thiết bị lại do con người lắp đặt
và vận hành: thông tin là sự tích luỹ kiến thức. Khối lượng kiến thức càng
tăng càng đỏi hỏi công tác quản lý thông tin ngày càng cao; tổ chức là quá
trình điều phối thông tin. Nhận xét tổng thể lại, con người, thiết bị cùng với
vật tư tạo thành các nguồn lực cho sản xuất và kinh doanh, hay nói một cách
khác công nghệ được phân thành :

13


-Phần cứng là sản phẩm tồn tại ở dạng vật chất.
-Phần mềm là sản phẩm của trí tuệ, các bí quyết thông số, phương

pháp…
I.2.3. Các thuộc tính của công nghệ
Công nghệ là một loại hàng hoá đặc biệt, tuy nhiên với tư cách là một hệ
thống công cụ chế biến vật chất và chế biến thông tin, hàng hoá công nghệ
có những thuộc tính riêng. Các thuộc tính này quy định và ảnh hưởng trực
tiếp đến việc mua bán định giá, trao đổi, sử dụng công nghệ. Công nghệ bao
gồm 4 thuộc tính cơ bản -Tính hệ thống
-Tính sinh thể
-Tính đặc thù
-Và tính thông tin
Cũng như 4 bộ phận cấu thành một công nghệ, 4 thuộc tính cơ bản này
cũng có thể được xem là 4 tiêu thức cơ bản để mọi người có thể nhìn nhận
một công nghệ.
I.3.

Vai trò của công nghệ đối với sự phát triển kinh tế- xã hội.

Khoa học công nghệ là một trong bốn nguồn lực quyết định sự phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Ngày nay, khi mà nhân loại bước vào kỷ
nguyên tri thức thì khoa học công nghệ càng khẳng định hơn vai trò quyết
định đến quá trình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt là đối với
các nước đang phát triển trong quá trình tiến hành CNH- HĐH, nó chính là
động lực lớn thúc đẩy và góp phần tích cực rút ngắn quá trình này.

14


Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, việc
tìm ra những công nghệ mới, vật liệu mới và những nguồn năng lượng mới
đã xuất hiện một kiểu tăng trưởng mới về chất – tăng trưởng kinh tế theo

chiều sâu trong điều kiện sản xuất phát triển dựa trên cơ sở cuộc cách mạng
khoa học hiện đại. Khoa học công nghệ là điều kiện để có sản phẩm cuối
cùng đạt chất lượng cao, làm tăng nhanh năng suất lao động, đảm bảo an
toàn sản xuất, chống ỗ nhiễm môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên quốc
gia, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của
xã hội.
Khoa học và Công nghệ phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội và KHCN phải thực sự đi vào cuộc sống
Trong nông nghiệp, KHCN đóng vai trò to lớn về lai tạo, nhân giống cây
trồng mới nhằm tăng năng suất và thay thế giống cây trồng ngoại nhập. Các
nhà khoa học đã chọn và tuyển được gần 170 giống lúa mới, trong đó có
nhiều giống lúa chịu được phèn, chua, mặn; góp phần mở rộng diện tích
trồng lúa, nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trong công nghiệp, KHCN có những đổi mới, cải tiến công nghệ ở các
các lĩnh vực, qua đó, Việt Nam đã tự chủ, sản xuất được nhiều loại thiết bị
cơ khí chính xác, thiết bị siêu trường, siêu trọng…
KHCN cũng góp phần nâng trình độ y học của Việt Nam ngang tầm với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã chủ động sản xuất
được 9/10 loại vaccine phục vụ tiêm chủng mở rộng, giảm tỉ lệ mắc và tử
vong đối với nhiều bệnh như bại liệt, viêm não…
Hoạt động hợp tác quốc tế về KHCN của nước ta ngày càng được mở
rộng. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác về KHCN với các đối tác
15


của trên 70 quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế; là thành viên chính
thức và không chính thức của gần 100 tổ chức quốc tế và khu vực về KHCN.
KHCN là nền tảng và động lực thúc đẩy CNH-HĐH
Nhấn mạnh vai trò của KHCN trong phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước, Đảng và Nhà nước khẳng định: “KHCN cùng với giáo dục đào tạo là

quốc sách hàng đầu”, “là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước”. Vì vậy, bằng mọi cách phải đưa KHCN thực sự đi
vào cuộc sống, đảm bảo KHCN phải là lực lượng sản xuất trực tiếp và đủ
mạnh để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước.
Ngành KHCN cần sớm khắc phục một số hạn chế trong thời gian tới, đó
là trình độ công nghệ của Việt Nam còn chưa cao; đóng góp của yếu tố công
nghệ, tri thức vào từng sản phẩm còn hạn chế; KHCN chưa phát triển tương
xứng với tiềm năng…
Theo đó, cần tăng cường đầu tư phát triển KHCN và đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao, đồng thời đặc biệt chú trọng tới việc đãi ngộ, tôn vinh
những nhà khoa học có những đóng góp lớn cho đất nước.
Ngành KHCN tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện và phát triển thị trường
công nghệ; tập trung chuyên sâu hoạt động nghiên cứu khoa học; chuyển
dịch cơ cấu kinh tế; phát triển nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ… trên nền
tảng của KHCN; đổi mới ứng dụng công nghệ trong tất cả các ngành, các
lĩnh vực nhằm tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Cùng với đó, mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KHCN, đặc biệt là
việc tiếp cận, cải tiến các sản phẩm KHCN của các nước phục vụ trực tiếp
16


cho hoạt động sản xuất và phát huy hiệu quả vai trò của các quỹ phát triển
KHCN.
Khoa học-Công nghệ đóng góp to lớn cho phát triển kinh tế-xã hội
50 năm qua, ngành Khoa học - Công nghệ (KHCN) đã có những đóng
góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước. Hoạt động KHCN đã gắn với công tác quản lý kinh tế-xã hội, chú
trọng tới tính hiệu quả, hướng tới doanh nghiệp, thị trường và khẳng định
được vai trò trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và năng lực

cạnh tranh của nền kinh tế. Đặc biệt, từ năm 1986 tới nay, quán triệt sâu sắc
đường lối đổi mới của Đảng, Bộ KHCN đã tham mưu, đóng góp trực tiếp
vào việc xây dựng các đường lối, chủ trương về phát triển KHCN của Đảng
và Nhà nước.
Qua nghiên cứu vai trò cụ thể của khoa học công nghệ đối với tăng
trưởng kinh tế, nhà kinh tế học P.A. Samuelson và W.P.Nordhaus đã dùng
các phân tích của mình để tính toán phần đóng góp của khoa học công nghệ
trong tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ từ 1900 đến 1984 và đã rút ra kết luận:
Trong mức tăng trưởng 2,2%/năm về sản lượng theo đầu công nhân, khoảng
0,5% là do tăng yếu tố tư bản (vốn), và do yếu tố công nghệ là 1,7%. Như
vậy, nhân tố khoa học công nghệ giữ một vai trò vô cùng đặc biệt đối với
tăng trưởng kinh tế.
Cũng theo nghiên cứu của các nhà kinh tế học cho thấy: từ năm 1981, ở
Mỹ với mức tăng trưởng trung bình là 3,2%/năm thì sự đóng góp của yếu tố
đầu vào: đất đai, vốn, lao động chỉ chiếm 1,1 %, còn yếu tố giáo dục và
khoa học công nghệ chiếm tới 2,1% ( Bảng 1.1 )
Bảng 1.1. Đóng góp của các yếu tố vào mức tăng trưởng GDP thực tế
17


Yếu tố đóng góp
GDP thực tế

Tăng
hàng năm
3,2

Đóng góp đầu vào

1,1


-Vốn

0,5

-Lao động

% của
tổng số
100
34
15

0,6
0

-Đất đai
Giáo dục và tiến bộ khoa học

%

19
0

2,1

66

công nghệ


Nguồn: P.A.Samuelson và W.P.Nordhaus. Kinh tế học tập II-Học viện Quan hệ Quốc
tế- Hà Nội 1989

Điều này chứng tỏ vai trò quan trọng của khoa học công nghệ đối với
tăng trưởng kinh tế quốc gia. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay
đã tạo ra thời cơ rất thuận lợi để các nước đang phát triển nhanh chóng thực
hiện Công nghiệp hoá đất nước. Nhiều nhà kinh tế cũng dự báo rằng, trong
giai đoạn tới “tương lai sẽ phụ thuộc vào các quốc gia có tiềm năng ứng
dụng”. Vì vậy, để nhanh chóng rút ngắn thời gian CNH – HĐH, các nước
đang phát triển phải quan tâm và khai thác tốt những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ, phát huy được lợi thế là các nước đi sau.
Thực tế lịch sử cho thấy, nước Anh cần 120 năm để CNH, trong khi đó Mỹ
và Tây Âu chỉ cần 60 năm, còn các con rồng Châu Á chỉ mất 30 năm là hoàn

18


thành quá trình CNH. Trong tương lai sẽ hứa hẹn thời gian hoàn thành quá
trình CNH tiếp tục rút ngắn.
Cách mạng khoa học và công nghệ đã làm thay đổi chiến lược kinh tế và
chiến lược thị trường. Sự xuất hiện của các ngành công nghệ cao đưa đến kết
quả là năng suất lao động được nâng lên vượt bậc và thực sự hiệu quả hơn.
Vì vậy, các nước tư bản phát triển và các công ty xuyên quốc gia đều coi
việc phát triển khoa học công nghệ với các ngành công nghệ cao là con bài
trong cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.
Thực chất của quá trình CNH – HĐH ở các nước đang phát triển chính là
sự vận dụng thành tựu của khoa học công nghệ dựa trên những đổi mới công
nghệ nhằm chuyển hệ thống kinh tế xã hội từ trạng thái năng suất thấp, hiệu
quả thấp, sử dụng lao động thủ công là chính, sang một hệ thống có năng
suất cao, dựa trên những phương pháp công nghiệp, những công nghệ tiên

tiến. CNH - HĐH cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng nhanh các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ giá trị cao. Muốn
đạt mục tiêu trên phải đổi mới công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế, phải sử
dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới.
II. SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG
CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC.
2.1.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
2.1.1. Thế nào là Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ?

Công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH ) là quá trình chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý
19


kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao
động cao
2.1.2. Đặc điểm của quá trình CNH – HĐH:
Thứ nhất: công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa, phải chuyển
lao động từ thủ công sang sử dụng lao động cơ khí, tranh thủ áp dụng các
thành tựu khoa học kỹ thuật tiến bộ của thế giới tạo ra các bước nhảy vọt về
kinh tế.
Thứ hai: CNH – HĐH nhẵm mục tiêu dân giàu nước mạnh, độc lập dân
chủ và tiến bộ xã hội. Công nghiệp hóa là tất yếu với tất cả các nước đang
phát triển nhưng với mỗi nước, mục tiêu và tính chất của công nghiệp hóa có
thể khác nhau. Ở nước ta, công nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ

thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân
tộc.
Thứ ba: công nghiệp hóa hiện đại hóa trong điều kiện cơ chế thị trường
có sự điều tiết của nhà nước. Trong cơ chế này nhà nước vẫn giữ vai trò hết
sức quan trọng trong vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tuy
nhiên, CNH – HĐH không xuất phát từ chủ quan của nhà nước, nó đòi hỏi
phải vận dụng các quy luật khách quan mà trước hết đố là các quy luật của
kinh tế thị trường
Thứ tư: công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân trong bối
cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, vì thế mở cửa nền kinh tế quốc dân trong bối
cảnh toàn cầu hóa kinh tế là tất yếu đối với đất nước ta. Công nghiệp háo
20


trong điều kiện chiến lược kinh tế mở có tể đi nhanh nếu ta biết tận dụng,
tranh thủ được những thành tựu của thế giới và sự giúp đỡ quốc tế để phát
triển nhanh nền kinh tế
Trong lịch sử công nghiệp hóa trên thế giới, có nhiều con đường công
nghiệp háo nhưng thể hiện ở hai con đường chính đó là công nghiệp hóa cổ
điển và công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Con đường công nghiệp hóa
cổ điển là quá trình công nghiệp hóa mà nhiều nước trước đây đã trải qua
như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Đức, Liên Xô (cũ)…thường đó là những nước có
nền khoa học công nghệ tiên tiến đương thời. Do đó, những bước tiến của
công nghiệp hóa thường gắn với những sáng chế phát minh của chính nước
đó hay thời đại đó. Vì vậy quá tình công nghiệp hóa thường kéo dài hàng
trăm năm theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, ở thời kỳ phôi thai.
Ngày nay với các nước đi sau tình hình đang đổi khác, để giải quyết một
vấn đề trong công nghiệp hóa có rất nhiều giải pháp hay công nghệ sẵn sang
đem ra sử dụng. Tiến hành công nghiệp hóa theo hướng tận dụng lợi thế như
đã nói của các nước công nghiệp phát triển muộn chính là công nghiệp hóa

gắn liền với hiện đại hóa. Theo con đường công nghiệp hóa gắn với hiện đại
hóa thì thời gian ngắn hơn rất nhiều so với con đường công nghiệp hóa cổ
điển. Ví dụ như, ở Anh, công nghiệp hóa được coi là bắt đầu từ năm 1780 và
phải tới 58 năm sau đó thì thu nhập bình quân đầu người mới tăng lên gấp
đôi; ở Mỹ công nghiệp hóa bắt đầu từ năm 1839 và để đạt được mức thu
nhập gấp đôi cũng cần tới 47 năm. Nước Nhật bắt đầu công nghiệp hóa vào
năm 1880 và đã rút ngắn được thời gian tăng gấp đôi thu nhập xuống còn 34
năm. Các nước đi sau điển hình cho con đường công nghiệp hóa gắn với
hiện đại hóa thì Hàn Quốc đạt kết quả trong vòng 11 năm ( 1966 – 1977 ).

21


Mới đây trung quốc đã rút ngắn thời gian đó xuống còn 10 năm ( 1977 –
1987 ).
Kinh nghiệm thế giới là bài học thực tiễn cho việt Nam học tập. Nhưng
điều chủ yếu việc tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ở nước ta
là phù hợp với những yêu cầu đang đặt ra cho quá trình này như : triệt để
khai thác lợi thế của các nước phát triển muộn về công nghiệp. Xu thế quốc
tế hóa sản xuất và đời sống nhanh chóng vượt qua đói nghèo, rút ngắn
khoảng cách tụt hậu của nước ta so với các nước công nghiệp phát triển
trong khu vực cũng như trên thế giới. Con đường đã chọn mở ra hướng đi
cho chúng ta tiến tới một cái đích cao hơn và chúng ta tin tưởng rằng với
bước đi vững chắc đúng đắn, đất nước ta sẽ tiến tới được cái đích đó.
2.1.3. Vai trò của khoa học – công nghệ đối với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Qua nghiên cứu những ứng dụng của công nghệ nước ngoài vào Việt
Nam trong những năm qua, chúng ta có thể thấy được khái quát thực trạng
của hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam. Theo Phó
Thủ tướng Phạm Gia Khiêm thì “ nhìn chung công nghệ được chuyển giao

vào Việt Nam thời gian qua có trình độ cao hơn công nghệ nước ta hiện có
hoặc trong nước chưa có”.
- Trước hết, hoạt động chuyển giao công nghệ đã góp phần chuyển dịch có
cấu của nền kinh tế theo hướng tích cực. Nó làm tăng tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ, chuyển nền kinh tế truyền thống của ta từ nông nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn sang một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng
chiếm ưu thế. Đây là sự chuyển dịch phù hợp với quá trình CNH- HĐH đất
nước và phù hợp với sự phát triển của các nền kinh tế hiện đại.
22


- Ngoài ra, việc tiếp thu và ứng dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại
vào sản xuất góp phần cải thiện nền công nghiệp lạc hậu của ta. Nhiều công
nghệ tiên tiến, hiện đại đã được chuyển giao vào nước ta trong các lĩnh vực
như khai thác dầu khí, thông tin, viễn thông, xây dựng,.tạo nền tảng cho các
ngành công nghiệp chủ chốt của nước ta. Từ đó, thúc đẩy rút ngắn quá trình
công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống.
Trong sự nghiệp CNH - HĐH hiện nay KHCN đang chiếm một vị trí đặc
biệt quan trọng. Bởi vì nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến
là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn của chúng ta là
một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành CNH HĐH. Trong thời đại ngày nay, CNH phải gắn liền với HĐH. CNH - HĐH ở
nước ta là nhằm xây dựng CSVC kỹ thuật cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trung
tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta.
Ngay từ khi bắt đầu quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm
hoàn thiện và đổi mới quan điểm, các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực
khoa học và công nghệ. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị (Khoá VI) đã nêu
rõ: "Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, coi khoa học và
công nghệ là một động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới, ổn định tình
hình và phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN, coi những người

làm khoa học và công nghệ là đội ngũ cán bộ tin cậy, quý báu của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta". Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 7 BCHTW
(Khoá VII) trong phần về chủ trương phát triển công nghiệp và công nghệ
đến năm 2000 đã nêu rõ quan điểm: "Khoa học, công nghệ là nền tảng của
CNH - HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại

23


tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định". Trong Báo cáo
chính trị tại Đại hội VIII vừa qua Đảng lại nhấn mạnh: "Khơi dậy trong nhân
dân lòng yêu nước, ý trí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam,
quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng KHCN". Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra: "Con đường CNH - HĐH
ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian vừa có những bước tuần tự, vừa có
bước nhảy vọt phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi
khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông
tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức
cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ,
từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh
tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển GD và ĐT, khoa học và
công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH - HĐH".
Từ năm 1996 đất nước ta chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH,
phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây cũng
là một yếu tố có ý nghĩa quyết định chống lại "nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới".
Nền tảng KHCN ở VN thì vẫn có song rất yếu kém do không được quan
tâm. Xu thế VN hiện nay là dưới sức ép phải phát triển nhiều mặt nhất là cơ
sở hạ tầng cho công nghiệp, năng lượng, viễn thông, giao thông vận tải... do
đó chú trọng vào đầu tư xây dựng dựa trên cơ sở nhập công nghệ và kỹ thuật

hàng loạt với giá cao. Đáng nói là mặc dù trong đầu tư luôn nêu ra vấn đề
chuyển giao công nghệ, nhưng thực chất các quá trình này chỉ là hình thức,
nội dung chẳng được bao nhiêu. Lấy ví dụ chúng ta luôn tự ca ngợi về thành
tích của ngành đóng tàu và thực sự cũng có nhiều đơn đặt hàng đóng các tàu

24


có trọng tải nhỏ và vừa, thế nhưng thực chất VN chỉ gia công vỏ tàu. Những
hạng mục quan trọng như máy tàu, các thiết bị nghi khí hàng hải (ra đa, máy
đo sâu, la bàn, thiết bị viễn thông, GPS, thiết bị chống cháy...), trang bị nội
thất trên tàu, thiết kế, giám sát thi công, chỉ đạo kỹ thuật vẫn phải trông đợi
vào nước ngoài. Như vậy thực chất chúng ta chỉ cho thuê bến bãi nhà xưởng
và nhân lực rẻ mạt chứ đã làm gì đáng kể. Ngay cả đầu tư viễn thông là một
lĩnh vực rất phát triển và có hiệu quả cũng vậy. Thực chất chúng ta đã tự sử
dụng chất xám trong xây lắp, khai thác nhưng phần hồn là thiết bị và công
ngfhệ thì vẫn phụ thuộc vào nước ngoài. Rất nhiều lĩnh vực mà đầu tư chủ
yếu là chất xám VN hoàn toàn có thể vươn lên và chiếm lĩnh thị trường
trong nước, thậm chí tính tới xuất khẩu ra nước ngoài như tự động hoá và tin
học, ấy thế mà do công nghiệp trong nước đang quá phụ thuộc vào nước
ngoài như nói trên, hơn nữa sự quan tâm bằng chính sách nâng đỡ cụ thể của
chính phủ còn chưa tới tầm, khiến cho cán bộ KHKT trong hai lĩnh vực trên
phải ê chề ngồi mà xem đồng tiền trong nước chảy ồ ồ vào túi người nước
ngoài. Nói không quá có quá nhiều dự án thuộc lĩnh vực TĐH chẳng hạn,
đầu tư nước ngoài đang có mức giá thành gấp vài trăm %, thậm chí cả chục
% so với khả năng đầu tư trong nước. Trong lĩnh vực này, nhiều chủ đầu tư
trong nước đang ngoảng mặt đi để nhìn vào người nước ngoài, bất chấp các
chủ trương Nhà nước lúc nào cũng hô hào ủng hộ phát triển nội lực.v.v.
Nếu thực sự được quan tâm, CMKHCN trong nước chắc chắn sẽ tạo ra
đột biến để nâng đất nước lên tầm các nước trong khu vực như Singgapo,

Malaixia, ... Nhưng yếu tố hàng đầu là sự chuyển hướng quyết liệt sang sự
làm ăn chính quy, minh bạch, loại trừ tham nhũng ra khỏi bộ máy công
quyền. Việc đó nên bắt đầu bằng việc thực hiện một nền hành chính nhanh
nhạy và trong sạch thông qua mô hình chính phủ điện tử. Đó chính là một
25


×