BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
----------*----------
Phạm Thị Khánh Ngân
DI SẢN TƯ LIỆU Ở VIỆT NAM
VẤN ĐỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
(TRƯỜNG HỢP CÁC DI SẢN TƯ LIỆU THUỘC CHƯƠNG
TRÌNH KÝ ỨC THẾ GIỚI ĐƯỢC UNESCO GHI DANH)
Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số:
62 31 06 42
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2017
Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyễn Thị Lan Thanh
Phản biện 1:
GS.TS Trương Quốc Bình
Phản biện 2:
PGS.TS Trần Lê Bảo
Phản biện 3:
PGS.TS Ngô Văn Doanh
Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện
họp tại: Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
32 Hào Nam, Đống Đa, Hà Nội
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam;
- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Di sản tư liệu là một loại hình di sản văn hóa mới được quan tâm
ở Việt Nam (năm 2007). Đến nay, Việt Nam có 06 di sản tư liệu được
Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO ghi danh: 02 Di sản tư
liệu thế giới và 04 Di sản tư liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
- Nhiều đề án đang được thực hiện nhằm bảo vệ, phát huy giá trị
di sản này, tuy nhiên, tất cả chỉ dừng ở di sản được ghi danh với tính
chất cục bộ, vì vậy, việc nghiên cứu, bảo vệ và khai thác di sản này là
vấn đề cần được các cấp, các ngành và toàn xã hội quan tâm.
- Do có quá nhiều chủ thể quản lý trực tiếp và gián tiếp di sản
nên cơ chế, chính sách phối hợp giữa cơ quan/tổ chức/cá nhân còn
lỏng lẻo, thiếu đồng bộ.
- Việc biến đổi khí hậu, các cuộc chiến xảy ra liên miên, nạn ăn
trộm, chảy máu cổ vật, tiêu hủy di sản, cùng với sự thờ ơ, vô trách
nhiệm của con người đã đẩy nhiều di sản đang dần biến mất vĩnh viễn.
- Bên cạnh đó, việc duy trì sức sống, tầm ảnh hưởng và giá trị
lịch sử, văn hóa của di sản tư liệu trong xã hội đương đại còn mờ nhạt,
chưa tiến hành thường xuyên việc truyền thông, thông tin những kiến
thức từ kho di sản tư liệu tới đông đảo cộng đồng.
Từ nhận thức trên, NCS đã chọn đề tài Di sản tư liệu ở Việt Nam
- vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị (trường hợp các di sản tư liệu
thuộc Chương trình Ký ức Thế giới được UNESCO ghi danh) làm luận
án nghiên cứu chuyên ngành quản lý văn hóa của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu
ở Việt Nam (trường hợp nghiên cứu: Mộc bản, Châu bản triều
Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long, Mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm, Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế và Mộc bản trường
Phúc Giang).
3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: tại Trung tâm Lưu trữ I, IV (Cục Văn thư và Lưu
trữ Quốc gia), Văn Miếu Hà Nội, chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang, Cố
đô Huế và thư viện trường học Phúc Giang, Hà Tĩnh.
2
- Thời gian: từ năm 2007 đến nay.
- Các vấn đề cần và sẽ làm rõ tại nội dung luận án: di sản tư
liệu là gì? có là đối tượng của quản lý Nhà nước về di sản văn hóa
không? Những khó khăn, thách thức nào đang đặt ra đối với công tác
bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu? Biện pháp nào thúc đẩy hoạt
động bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu?...
- Giả thuyết nghiên cứu: Di sản tư liệu là loại hình di sản hỗn
hợp vừa có yếu tố vật thể, vừa có yếu tố phi vật thể. Do đó, việc bảo
vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu cũng là sự kế thừa hiệu quả hoạt
động này của di sản văn hóa dân tộc từ trước tới nay bằng việc: xây
dựng cơ chế chính sách, nhận diện, bảo quản để phát huy giá trị.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Nêu khái niệm di sản tư liệu dưới góc nhìn khác trong mối tương
quan với di sản văn hóa vật thể và phi vật thể.
- Dựa trên việc phân tích thực trạng bảo vệ và phát huy giá trị di sản
tư liệu được UNESCO ghi danh, kết hợp với học tập kinh nghiệm các
quốc gia trong khu vực đề xuất cơ chế, chính sách phù hợp với việc bảo
vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu ở Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống hóa các khái niệm liên quan đến di sản tư liệu để
hình thành cơ sở lý luận cho nghiên cứu của đề tài.
+ Đánh giá thực trạng việc bảo vệ, phát huy giá trị di sản tư liệu ở
Việt Nam (nghiên cứu 6 trường hợp cụ thể).
+ Xác định các yếu tố ảnh hưởng, thành công, hạn chế nhằm định
hướng cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu.
+ Đưa ra kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, kết hợp
với thực trạng nhằm đề xuất khuyến nghị và giải pháp bảo vệ, phát huy
giá trị di sản tư liệu ở Việt Nam có hiệu quả.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận chủ nghĩa duy vật biện
chứng và lịch sử.
- Phương pháp phân tích hệ thống; Phương pháp sơ đồ, mô hình
hóa; Phương pháp nghiên cứu tiếp cận liên ngành/đa ngành.
3
- Phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội học.
- Phương pháp chuyên gia; Phương pháp tổng hợp dữ liệu.
6. Đóng góp của luận án
* Về phương diện khoa học: đề tài góp phần hệ thống hóa một
số vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác bảo vệ, phát huy giá trị di
sản tư liệu ở Việt Nam.
- Đưa ra một số ý kiến về khái niệm, học thuật về các vấn đề liên
quan đến bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng bảo vệ và phát huy giá trị di sản
tư liệu ở Việt Nam xác định những bước đi tiếp cho di sản này.
* Về phương diện thực tiễn: Luận án là tài liệu tham khảo cho
việc xây dựng kế hoạch cụ thể nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, mô
hình điều phối để bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu có hiệu quả;
xây dựng các tiêu chí cụ thể cho Danh mục di sản tư liệu quốc gia; là
tài liệu tham khảo, học tập cho sinh viên về quản lý di sản.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (6 trang), Tài liệu tham
khảo và Phụ lục, phần nội dung của luận gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về di sản tư liệu được
UNESCO ghi danh ở Việt Nam. (38 trang).
Chương 2: Thực trạng bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu
được UNESCO ghi danh ở Việt Nam. (49 trang)
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ và phát
huy giá trị di sản tư liệu được UNESCO ghi danh ở Việt Nam. (37
trang).
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ DI SẢN TƯ LIỆU
ĐƯỢC UNESCO GHI DANH Ở VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Di sản tư liệu và các khái niệm liên quan
Năm 2001, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành Luật
Di sản văn hóa, đến năm 2009, thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật di sản văn hóa Điều 1 quy định: “Di sản văn hóa bao
gồm di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể, là sản phẩm
4
tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” [50].
Theo Công ước về việc bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế
giới của UNESCO năm 1972 (Công ước 1972) là Công ước đầu tiên
đưa ra định nghĩa, tiêu chí bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa và
di sản thiên nhiên. Đến năm 1992, Ủy ban di sản thế giới bổ sung khái
niệm di sản hỗn hợp hay miêu tả các mối quan hệ tương hỗ nổi bật
giữa văn hóa và thiên nhiên của một số khu di sản [79].
Nhằm phát huy Công ước 1972 và dung hòa với loại hình di sản
văn hóa đang hình thành, Chương trình Kiệt tác của nhân loại được
khởi xướng, 30 năm sau, Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật
thể của UNESCO năm 2003 (Công ước 2003) chính thức ra đời.
Và tiếp nối cho việc hoàn thiện các mảnh ghép nội hàm
của di sản văn hóa, xuất phát từ nhu cầu ngày càng tăng về việc bảo
vệ và tiếp cận những di sản tài liệu quý hiếm có nguy cơ bị xâm hại và
mai một, tồn tại trong lòng di sản vật thể và di sản phi vật thể tại nhiều
nước và khu vực trên thế giới, một khái niệm mới được thai nghén
và bước đầu được quan tâm khi UNESCO khới xướng Chương
trình Ký ức Thế giới (MOW) vào năm 1992. Đối với UNESCO,
tư liệu là “những văn bản” hay “những ghi chép lại” một điều gì đó
bởi mục đích trí tuệ có chủ ý [82]. Một tư liệu được coi là có hai thành
phần: nội dung thông tin và vật mang nội dung thông tin. Cả hai thành
tố này đều rất đa dạng và quan trọng như nhau với vai trò là các bộ
phận của ký ức.
Ở nước Nga, theo tiêu chuẩn quốc gia đầu tiên về thuật ngữ
GOST 16487-70 và Tiêu chuẩn GOST 16487-83: Văn thư và công tác
lưu trữ. Các thuật ngữ và định nghĩa, “tài liệu” được định nghĩa như
là “đối tượng vật chất cùng với thông tin được ghi nhận bởi con người,
bởi phương pháp để truyền nó trong thời gian và không gian” [86].
Trong tiêu chuẩn quốc tế ISO 15489: Thông tin và tài liệu, “tài
liệu” được hiểu là thông tin được tạo lập, tiếp nhận và lưu giữ bởi tổ
chức hoặc cá nhân như là bản chứng nhận để khẳng định trách nhiệm
pháp lý hay hoạt động quản lý [69].
5
Khoản 2 Điều 2 Chương I, Pháp lệnh thư viện năm 2000: “Tài
liệu là một dạng vật chất đã ghi nhận những thông tin ở dạng thành
văn, âm thanh, hình ảnh nhằm mục đích bảo quản và sử dụng” [61]
Điều 2 Chương I, Luật lưu trữ được thông qua năm 2011:
Tài liệu là vật mang tin được hình thành trong quá trình hoạt
động của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tài liệu bao gồm văn bản, bản vẽ
thiết kế, bản đồ, công trình nghiên cứu, sổ sách, âm bản, dương bản
phim, ảnh, vi phim; băng, đĩa ghi âm, ghi hình; tài liệu điện tử; bản
thảo tác phẩm văn học, nhật ký, hồi ký, tài liệu viết tay; tranh vẽ hoặc
in; ấn phẩm và vật mang tin khác [51].
Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 10382-2014: Di sản văn hóa và các
vấn đề liên quan – Thuật ngữ và định nghĩa, ghi: “Di sản tư liệu là sản
phẩm mang thông tin được hình thành từ những kí hiệu, mật mã, âm
thanh hoặc hình ảnh dưới nhiều dạng thức độc đáo, phản ánh thành
tựu tiêu biểu về lịch sử, tư tưởng, văn hóa và khoa học” [27].
Có nhiều ý kiến cho rằng, di sản tư liệu là 1 thành phần của di
sản văn hóa phi vật thể, “sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc
cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng...” [52]. Điều đó có
phần đúng nhưng chưa đủ, vì di sản tư liệu lại có giá trị căn bản của
một hiện vật bảo tàng hoặc di tích lịch sử và văn hóa, tài liệu lưu trữ
được biểu hiện bằng các thông điệp văn hóa đã được vật chất hóa
trong bản thân chúng. Có nghĩa là chúng có yếu tố phi vật thể trong tự
thân. Theo phân tích trên, di sản tư liệu là sản phẩm tinh thần được tư
liệu hóa trên một vật mang tin, trong đó, có cả yếu tố vật thể và phi
vật thể.
Vì vậy, NCS đồng ý với phân tích và lấy khái niệm sau để làm
khái niệm nghiên cứu luận án: di sản tư liệu là loại hình di sản văn hóa
hỗn hợp bao gồm cả yếu tố vật thể và phi vật thể gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân; là sản phẩm mang thông tin dưới nhiều dạng thức độc
đáo, phản ánh thành tựu về lịch sử, tư tưởng, văn hóa và khoa học.
1.1.2. Bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu
Công ước 1972 là Công ước quốc tế đầu tiên gắn khái niệm bảo
vệ thiên nhiên với bảo vệ di sản văn hóa, mang đến cách tiếp cận mới
6
với cơ sở pháp lý cần thiết, đảm bảo mối quan hệ cân bằng, hài hòa
giữa con người với thiên nhiên, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
Tại Điều 2 Công ước 2003 ghi Bảo vệ là các biện pháp có mục
tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm
việc nhận diện, tư liệu hoá, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy,
củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục chính
thức hoặc phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện
khác nhau của loại hình di sản này.
Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2000) của tác giả Nguyễn
Lân, Nxb TP Hồ Chí Minh, viết: “bảo tồn: giữ lại, không để mất đi”;
“bảo vệ: giữ gìn cho khỏi bị hư hỏng”; “phát huy: làm cho tác dụng
lan rộng ra hoặc phát triển lên”. Trong khuôn khổ của Chương trình
Ký ức thế giới, bảo quản là toàn bộ các biện pháp cần thiết nhằm bảo
đảm khả năng tiếp cận lâu dài – vĩnh viễn của các di sản tư liệu [82].
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật di sản văn hóa năm
2009, có quy định: “Bảo tồn di sản văn hóa là hoạt động nhằm đảm
bảo sự tồn tại lâu dài, ổn định của di sản văn hóa” [52]. “Bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể là hoạt động quản lý, nghiên
cứu, kiểm kê, sưu tầm, phân loại, tư liệu hóa, thực hành, trình diễn,
phổ biến, truyền dạy, phục hồi nhằm đảm bảo sự tồn tại lâu dài và
ngăn ngừa nguy cơ làm mai một, thất truyền di sản văn hóa phi vật
thể, để phát huy giá trị” [52].
Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa là hai lĩnh vực thống nhất,
tương hỗ, luôn gắn kết chặt chẽ biện chứng, chi phối ảnh hưởng qua
lại trong hoạt động giữ gìn tài sản văn hóa. Bảo vệ di sản văn hóa
thành công thì mới phát huy được các giá trị văn hóa. Phát huy cũng là
một cách bảo vệ di sản văn hóa tốt nhất (lưu giữ giá trị di sản trong ý
thức cộng đồng xã hội). Do vậy, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa là cơ chế chính sách, nghiên cứu, nhận diện, phân loại, bảo tồn để
phát huy giá trị, nhằm đảm bảo sự tồn tại lâu dài và ngăn ngừa nguy
cơ làm mai một hoặc mất đi của di sản dân tộc.
Căn cứ nội dung bảo vệ, phát huy giá trị di sản tại Công ước
1972 và Công ước 2003 của UNESCO, cùng với sự phân tích các vấn
đề liên quan ở Việt Nam, NCS đưa ra khái niệm làm cơ sở nghiên cứu
7
luận án: bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu là hoạt động xây dựng
cơ chế chính sách, nhận diện, phân loại, nhằm bảo vệ và phát huy giá
trị di sản.
1.1.3. Quan điểm về việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản
* Quan điểm của UNESCO
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, UNESCO đã đưa khuyến nghị các
quốc gia nên bảo quản và phát huy di sản chữ viết của dân tộc trong các thư
viện, kho lưu trữ, đảm bảo sự tiếp cận và phổ biến chúng rộng rãi hơn.
Chương trình Ký ức thế giới (MOW) về Di sản tư liệu đưa ra bốn
quan điểm mục tiêu và được các quốc gia hưởng ứng:
- Tạo điều kiện bảo tồn các di sản tư liệu bằng những kỹ thuật
thích hợp.
- Hỗ trợ tiếp cận với các di sản tư liệu trên toàn cầu.
- Nâng cao nhận thức trên toàn thế giới về sự tồn tại và tầm quan
trọng của di sản tư liệu.
- Cảnh báo chung các chính phủ, những người ra quyết định và
công chứng rằng việc bảo tồn và tiếp cận [82].
* Quan điểm của Việt Nam
Ngày 23 tháng 11 năm 1945, ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 65 về Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi
Việt Nam. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX đến Đại hội XI, vấn đề
xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hoá truyền thống (trong đó có di sản tư liệu) ngày càng được
quan tâm. Đặc biệt, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam lần thứ 5 (khóa VIII) ban hành Nghị quyết Về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm 2001, Luật di sản văn hóa đã được Quốc hội Việt Nam phê
chuẩn, đã khẳng định “Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của Di sản văn
hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
của nhân dân ta” [50].
Trên thực tiễn, các quan điểm chung cho việc bảo vệ và phát huy
giá trị di sản tư liệu ở Việt Nam đều chưa được định hướng cụ thể, vì
vậy, việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu đều phải dựa trên
8
nguyên tắc hướng dẫn của UNESCO và các văn bản quy phạm chung
về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của Việt Nam.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo vệ và phát huy
giá trị di sản tư liệu
* Yếu tố khách quan
* Yếu tố chủ quan
* Yếu tố con người
1.2. Tổng quan về di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức
thế giới được UNESCO ghi danh ở Việt Nam
1.2.1. Khái quát về di sản tư liệu:
Có thể nói di sản tư liệu đã được giới nghiên cứu khoa học quan
tâm từ rất lâu và trên nhiều phương diện, góc độ khác nhau:
“Bảo tồn di sản thành văn cuả Thư viện Quốc gia Việt Nam”
(2007) và Luận án tiến sĩ Lê Quý Đôn với sự phát triển của nền thư
tịch Việt Nam (2008), đề cập đến vấn đề khái niệm, quản lý, bảo quản
và phát huy giá trị di sản thành văn, thư tịch Hán Nôm...
Bên cạnh đó, việc bảo tồn di sản văn và di sản thành văn được
nghiên cứu, đề cập trên ở các tạp chí chuyên ngành như: “Bảo vệ và
phát huy di sản văn hóa” – Lưu Trần Tiêu (Tạp chí Văn hóa - Nghệ
thuật số 5); "Vai trò của tư liệu Hán Nôm đối với di tích và danh lam
thắng cảnh ở Việt Nam" - Đinh Khắc Thuân (Tạp chí DSVH số
1/2002, trang 62); "Bảo tàng với việc khai thác và phát huy di sản chữ
Nôm" - Nguyễn Kim Dung (Tạp chí DSVH số 8/2004, trang 107)....
"Hướng dẫn chung về bảo vệ di sản tư liệu" (2002, bổ sung năm
2014), “Truyền thống Việt Nam qua di sản văn hóa – Nhận thức, khám
phá và bảo tồn” (2013), đề cập tương đối toàn diện đến các vấn đề
nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong đó có thư
tịch, văn bia, sắc phong....trong di tích, bảo tàng trên toàn quốc.
Hội nghị Khoa học quốc tế năm 2010 về "Bảo tồn và phát huy
giá trị các di sản tư liệu"; Tập huấn quốc tế năm 2013 về "Xây dựng
hồ sơ đề cử danh mục di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới
của UNESCO"; Tập huấn quốc tế năm 2015 về "Kinh nghiệm đề cử
danh mục di sản tư liệu Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO "
9
là chia sẻ kinh nghiệm của các chuyên gia trong lĩnh vực di sản tư liệu
Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO và Việt Nam.
1.2.2. Các di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới
được UNESCO ghi danh ở Việt Nam
1.2.2.1. Mộc bản triều Nguyễn
Là di sản tư liệu thế giới đầu tiên của Việt Nam, gồm 34.618
tấm, là những văn bản chữ Hán - Nôm được khắc ngược trên gỗ để in
ra các sách tại Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Nội
dung các bản thảo được khắc trên mộc bản đều được hoàng đế trực
tiếp ngự lãm, phê duyệt bằng bút tích trước khi giao cho những người
thợ tài hoa nhất trong cung đình khắc lên gỗ quý. Đây là khối tài liệu
đặc biệt quý hiếm, do giá trị về mặt nội dung, đặc tính về phương
pháp chế tác, những quy định rất nghiêm ngặt của triều đình phong
kiến về việc ấn hành và san khắc. Nội dung của mộc bản rất phong
phú và đa dạng, phản ánh mọi mặt về xã hội Việt Nam dưới triều
Nguyễn. Đặc biệt, trong đó có những nội dung quan trọng liên quan
đến chủ quyền, tự chủ quốc gia như: bản khắc cổ nhất Nam quốc sơn
hà, các văn bản về chủ quyền biên giới Việt Nam, Lào, Campuchia….
1.2.2.2. Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long
Là những tấm bia tiến sĩ duy nhất trên thế giới có bài ký (văn
bia), không chỉ lưu danh tiến sĩ đã thi đỗ trong các kỳ thi trải dài suốt
gần 300 năm (từ 1442 đến 1779), mà còn ghi lại lịch sử các khoa thi
và triết lý của triều đại về nền giáo dục và đào tạo, sử dụng nhân tài,
có tác động to lớn đối với xã hội đương thời và hậu thế. 82 tấm bia ghi
họ tên, quê quán của 1.304 nhà trí thức khoa bảng (85 trạng nguyên,
bảng nhãn, thám hoa; 283 hoàng giáp và 939 tiến sĩ). "Hiền tài là
nguyên khí của quốc gia…" được khắc trên bia đề danh tiến sĩ năm
1484 đến nay vẫn được coi như một tư tưởng lớn về việc đánh giá và
sử dụng nhân tài. Các bài văn bia còn ghi rõ ngày tháng dựng bia, tên
của người soạn văn bia, dựng bia đã khẳng định tính xác thực, nguyên
bản và duy nhất của tư liệu.
1.2.2.3. Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm
Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là bảo vật quốc gia có tổng số hơn
ba nghìn bản được san khắc nhiều đợt trong khoảng thời gian từ thế kỷ
10
XVII đến đầu thế kỷ XX. Bên cạnh đó, mỗi ván khắc là một tác phẩm
điêu khắc nghệ thuật tiêu biểu cho nghệ thuật chám khắc gỗ Việt Nam
thời Lê – Nguyễn. Chùa Vĩnh Nghiêm là trung tâm Phật giáo lớn
thuộc phái Thiền Trúc Lâm của Phật giáo Việt Nam. Kho mộc bản
(ván khắc) còn lưu giữ hiện nay (được san khắc tại đây), vẫn lưu giữ
được 34 đầu sách với gần 3000 bản khắc, mỗi bản có hai mặt, mỗi mặt
2 trang sách (âm bản) khoảng 2000 chữ Nôm, chữ Hán. Đây còn là
một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ, mang tính độc bản, nguyên gốc.
1.2.2.4. Châu bản triều Nguyễn
Châu bản là những văn bản của vương triều đã được nhà vua
“ngự phê” bằng mực son đỏ. Toàn bộ khối Châu bản triều Nguyễn có
773 tập, tương đương khoảng 85.000 văn bản của 11 triều vua nhà
Nguyễn, bao gồm: chiếu, dụ, chỉ, sớ, tấu, khải, phúc, phiến trình,
phiếu nghĩ... được quy định chặt chẽ về chức năng và thẩm quyền ban
hành. Châu bản triều Nguyễn chủ yếu được viết tay trên giấy dó, phản
ánh các vấn đề của đời sống xã hội, các biến động về lịch sử, các
chính sách đối nội, đối ngoại của Việt Nam thế kỷ XIX và nửa đầu thế
kỷ XX. Một trong những giá trị nổi bật của Châu bản triều Nguyễn thể
hiện ở chỗ đây là những tư liệu đặc biệt quan trọng góp phần khẳng
định chủ quyền, đặc biệt là trách nhiệm trong công tác cứu hộ các
nước gặp nạn của Việt Nam tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1.2.2.5. Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế
Thơ văn trên Kiến trúc cung đình Huế là toàn bộ hệ thống văn tự
chữ Hán sáng tác dưới dạng các bài văn thơ được chạm cẩn, bản gốc
duy nhất hiện còn ở kiến trúc thuộc Quần thể di tích Cố đô Huế giai
đoạn 1802 – 1945. Mỗi tác phẩm là sự kết tinh của nhiều yếu tố khác
nhau, từ mỹ thuật, kỹ xảo trang trí, thư pháp.... Hệ thống di sản thơ
văn là một bảo tàng sống động, độc đáo, chuyển tải những thông điệp
lịch sử, văn hóa và nghệ thuật đặc sắc một giai đoạn trong lịch sử cận
đại của Việt Nam, là những tác phẩm tinh tuyển từ những sáng tác của
các vị hoàng để tài hoa của triều Nguyễn. Đặc biệt, thơ văn chạm
khắc trên các cấu kiện gỗ kiến trúc thời Nguyễn là ván khắc dương
bản (khác với mộc bản triều Nguyễn là âm bản), một tác phẩm chạm
khắc hoàn chỉnh rất có giá trị, nhất là tính độc bản của nó.
11
1.2.2.6. Mộc bản trường Phúc Giang (Mộc bản Trường Lưu)
Mộc bản sách giáo khoa ở Trường Lưu được khắc từ năm 1758
tới năm 1788, dùng để in tài liệu dạy học. Các mộc bản ngoài giá trị
về kỹ thuật khắc, còn trở thành những cổ vật quý giá, tư liệu quý cung
cấp nhiều thông tin thuộc nhiều lĩnh vực: văn bản học, giáo dục, đối
ngoại...Với 394 bản còn lại, Mộc bản Trường Lưu là một trong những
di sản quý giá còn lại của dòng họ Nguyễn Huy, đây cũng là tư liệu
gốc minh chứng cho giai đoạn hoạt động văn hóa và giáo dục của một
dòng họ trong lịch sử phát triển của Việt Nam. Điểm đặc biệt của di
sản này là liên quan đến giáo dục ở một làng quê, là khối mộc bản duy
nhất về văn hóa, giáo dục của dòng họ được lưu giữ ở Việt Nam.
Tóm lại, di sản tư liệu ở Việt Nam có giá trị đặc biệt về nội dung
và hình thức, phong phú về chất liệu, đa dạng chủ thể sở hữu, với
ngôn ngữ chủ yếu là Hán, Nôm. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, chưa có
một nghiên cứu tổng quan nào về di sản tư liệu ở Việt Nam, vì vậy, cơ
chế chính sách chưa trở thành một hệ thống chặt chẽ, việc nhận diện
di sản được chú ý, chưa bao quát để tiến tới định hướng chung cho
công tác bảo vệ, phát huy giá trị di sản này trên toàn quốc.
Tiểu kết
Với những nghiên cứu về lý luận, những khái niệm và tổng quan di sản
tư liệu, NCS đưa ra nhận định về di sản tư liệu và các khái niệm liên quan. Di
sản tư liệu là bước chuyển hóa từ sự sáng tạo, ký ức của con người được tư
liệu hóa bằng các ký hiệu, mật mã, âm thanh hoặc hình ảnh dưới nhiều dạng
thức độc đáo. Việc các di sản tư liệu ở Việt Nam được UNESCO ghi danh
trong thời gian qua có ý nghĩa đặc biệt trong việc nâng cao nhận thức của xã
hội, do vậy, việc nghiên cứu thực trạng để đưa ra các phương án bảo vệ và
phát huy giá trị di sản tư liệu dựa trên cơ chế chính sách phù hợp, nhằm sử
dụng hiệu quả yếu tố nội tại và khách quan để phát huy các tiềm lực di sản
này là rất cần thiết hiện nay.
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
TƯ LIỆU ĐƯỢC UNESCO GHI DANH Ở VIỆT NAM
2.1. Cơ chế, chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản
12
Ngay sau ngày tuyên bố độc lập, tháng 11 năm 1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích
trên toàn cõi Việt Nam. Ngày 31/3/1984, Hội đồng Nhà nước công bố
Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích và danh lam thắng cảnh và các
văn bản hướng dẫn đề cập chi tiết đến việc bảo vệ các tài liệu lưu trữ
trong di tích. Hiến pháp năm 1992, quy định trách nhiệm của Nhà
nước, các tổ chức nhân dân về bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị di
sản văn hóa dân tộc. Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII có chủ trương:
“Kết hợp hài hòa việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa với hoạt
động phát triển kinh tế du lịch“.
Năm 2001, Luật di sản văn hóa được Quốc hội Việt Nam phê
chuẩn và năm 2009, Luật di sản văn hóa đã sửa đổi, bổ sung. Vào thời
điểm đó, di sản tư liệu mới được bước đầu tiếp cận nên không bắt kịp
việc bổ sung vào Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật di sản văn
hóa. Cục Di sản văn hóa đã đưa các thuật ngữ, định nghĩa về di sản tư
liệu và các vấn đề liên quan vào TCVN 2014, để trong thời gian tới sẽ
bổ sung các điều khoản thêm vào Luật di sản văn hóa. Ngày 02 tháng
3 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 05/2007/CTTTg về tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ.
Thủ tướng Chính phủ đã thành lập và kiện toàn UBQG UNESCO
của Việt Nam (theo Quyết định số 251-TTg ngày 15/6/1977 và Quyết
định số 194/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ).
Năm 2006, Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, thành lập Ban Điều
phối Chương trình Ký ức thế giới theo Quyết định số 209/BTK/06.
Đến năm 2012, Ban Điều phối thành Ủy ban quốc gia Chương trình
Ký ức Thế giới của Việt Nam (theo Quyết định số 630/QĐ-UBQG
ngày 19/11/2012).
Đến nay, Việt Nam đã có và 06 di sản tư liệu được UNESCO ghi
danh (gồm: 02 di sản tư liệu thế giới, 04 di sản tư liệu khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương). Cơ chế bảo vệ và phát huy giá trị đối với 6 di
sản này cũng rất đa dạng và phụ thuộc vào các cấp hoặc chủ thể quản
lý di sản, do vậy, chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa các di sản tư liệu
trên toàn quốc.
2.2. Công tác nghiên cứu nhận diện di sản tư liệu
13
Từ năm 2009 đến nay, Việt Nam đã có 6 di sản tư liệu được ghi
danh thuộc Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO. Hiện trạng 6
di sản qua nghiên cứu ở tình trạng khá báo động:
- Đối với mộc bản: Mộc bản triều Nguyễn, Mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm và Mộc bản trường Phúc Giang
- Đối với trên giấy: Châu bản triều Nguyễn
- Đối với trên đá: Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long
- Đối với trên kiến trúc: Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế
2.3. Phân loại
2.3.1. Đối với di sản tư liệu thế giới
Gồm có 02 di sản tư liệu: Mộc bản triều Nguyễn (năm 2009) và
Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long (năm 2011).
2.3.2. Đối với di sản tư liệu khu vực
Gồm có 04 di sản tư liệu: Mộ bản chùa Vĩnh Nghiêm (năm
2012), Châu bản triều Nguyễn (năm 2014), Thơ văn trên kiến trúc
cung đình Huế và Mộc bản trường Phúc Giang (năm 2016).
2.4. Bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu
2.4.1. Tăng cường phương thức bảo quản
- Đối với Mộc bản triều Nguyễn và Châu bản triều Nguyễn.
- Đối với Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long.
- Đối với Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm
- Đối với Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế.
- Đối với Mộc bản Trường Lưu
2.4.2. Xây dựng các đề án bảo vệ, phát huy giá trị di sản
- Đề án Bảo quản và phát huy giá trị tài liệu Mộc bản Triều
Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới.
- Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị 82 bia Tiến sĩ.
- Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị di sản Mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm và chùa Bổ Đà, tỉnh Bắc Giang.
- Đề án Bảo quản và phát huy giá trị tài liệu Châu bản triều
Nguyễn - di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương.
- Dự án Bảo vệ và phát huy giá trị Thơ văn trên kiến trúc cung
đình Huế và Mộc bản Quỳnh Lưu trình Chính phủ phê duyệt.
14
2.4.3. Năng động các phương thức khai thác
Hai trong số này đang gắn liền với những di tích có lượng khách
du lịch lớn là cố đô Huế và Biệt điện Trần Lệ Xuân, Đà Lạt đã giới
thiệu di sản với du khách để tăng thêm sức hấp dẫn cho quần thể di
tích. Kết hợp “Chương trình giáo dục di sản” đối với các trường học
trên toàn quốc, thành lập các Câu lạc bộ tìm hiểu về di sản, các cuộc
thi viết, hùng biện về di sản văn hóa..... Ngay sau khi Thơ văn trên
kiến trúc cung đình Huế được ghi danh, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố
đô Huế là một đơn vị bám sát rất tốt trong việc phát huy giá trị “di sản
trong di sản” bằng các phương thức có sự liên kết, quảng bá, làm nổi
bật giá trị của các di sản văn hóa thế giới Cố đô Huế
2.4.4. Tuyên truyền quảng bá di sản
Từ khi Mộc bản triều Nguyễn được vinh danh là di sản tư liệu,
Thừa Thiên Huế đã tổ chức nhiều hoạt động triển lãm, trưng bày và
giới thiệu loại hình di sản này đến với công chúng, các nhà nghiên cứu
và du khách. Nếu Nhà nước quan tâm đến việc phát huy giá trị của
mộc bản triều Nguyễn bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có việc
đưa vào trường học, cũng rất cần thiết kết hợp các di sản tư liệu của
Việt Nam đã được UNESCO ghi nhận.
2.4.5. Huy động các nguồn lực
- Nguồn nhân lực
Tên đơn vị chủ trì
Nguồn nhân lực
Số lượng
Trình độ ĐH
Trung tâm Lưu trữ quốc gia 119 người
>64%
I, Hà Nội
Trung tâm hoạt động Văn 68 người
>47%
hóa khoa học Văn Miếu –
Quốc Tử Giám, Hà Nội
Ban quản lý Chùa Vĩnh 12 người
kiêm nhiệm, không có
Nghiêm, Bắc Giang
chuyên môn
Trung tâm lưu trữ quốc gia 61 ngừơi
>57%
IV, Đà Lạt – Lâm Đồng
Trung tâm Bảo tồn di tích 750 người
>50% có trình độ ĐH trở
Cố đô Huế
lên
15
Thư viện dòng họ Nguyễn 2-3 người
Huy, Hà Tĩnh
Không có
chuyên môn
trình
độ
(Nguồn PL3)
Nhìn vào bản thống kê trên có thể thấy: nguồn nhân lực cho việc
bảo vệ và phát huy giá trị di sản trong các đơn vị phong phú, tương
đối đồng đều, có chuyên môn và thế mạnh trên các lĩnh vực đảm
trách, được Nhà nước hỗ trợ cả về vật chất và tinh thần, quyền lợi
được đảm bảo.
- Nguồn tài chính
Đối với các di sản tư liệu thuộc các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
là các đơn vị được Nhà nước cấp ngân sách nguồn kinh phí ổn định và
thu hút được nguồn tài trợ từ nguồn xã hội hóa hoặc các tổ chức phi
Chính phủ. Đối với các Trung tâm Bảo tồn Cố đô Huế và Văn miếu
Quốc Tử Giám kinh phí hoạt động theo nguồn thu trực tiếp. Ngoài ra,
đây là các đơn vị độc lập, có ảnh hưởng nhiều tới địa phương, có sự
nhanh nhạy phát huy nguồn thu trong xã hội và các tổ chức, cá nhân
trong nước và quốc tế. Đối với di sản tư liệu tại chùa Vĩnh Nghiêm,
việc đầu tư kinh phí không nhiều, chủ yếu dựa vào nguồn thu công
đức của khách thập phương.
- Cơ sở vật chất
- Đối với Mộc bản triều Nguyễn và Châu bản triều Nguyễn.
- Đối với Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long.
- Đối với Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm
- Đối với Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế.
- Đối với Mộc bản Trường Lưu.
2.4.6. Mở rộng hợp tác quốc tế
Từ năm 2007, Việt Nam bắt đầu thúc đẩy sự phát triển của
Chương trình Ký ức thế giới, xin được dự án tài trợ mở một lớp tập
huấn đầu tiên về việc xây dựng hồ sơ Di sản tư liệu; chủ động tổ chức
các Hội thảo, Tập huấn quốc tế, khu vực (2008, 2010, 2013, 2015). Từ
18 - 20/5/2016, Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị quốc tế về
Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
2.5. Đánh giá thực trạng bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư
liệu ở Việt Nam.
16
2.5.1. Điểm mạnh
- Nâng cao nhận thức xã hội; Chính phủ, cộng đồng và xã hội đã
quan tâm định hướng chính sách, hoàn thiện hệ thống văn bản về bảo
vệ, phát huy giá trị.
- Tuân thủ và vận dụng tối đa các văn bản Hướng dẫn của
UNESCO, các bài học kinh nghiệm của các quốc gia trong việc quản
lý, xây dựng các phương án bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu.
- Định lượng tiêu chí lựa chọn các di sản tư liệu quốc gia và địa
phương để từ đó có những biện pháp nghiên cứu phát hiện ra các di
sản tư liệu có giá trị đặc biệt để có phương án bảo vệ và phát huy giá
trị tổng thể; Các tư liệu này vô cùng quan trọng cần được công bố rộng rãi
để thế giới có bức tranh toàn cảnh về Việt Nam.
- Vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị di sản đã được quan tâm hơn
bằng những hoạt động cụ thể của Chính phủ, UBND các tỉnh/thành
phố, cơ quan, đơn vị và cả dòng họ, gia tộc, cá nhân trên toàn quốc...
- Hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu đứng trên
góc độ đơn lẻ các cơ quan/tổ chức/cá nhân nắm giữ di sản cũng được
cải thiện, có nhiều điểm mới....
- Việc đầu tư ngân sách, thu hút nguồn vốn xã hội hóa, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường cơ sở vật chất được cải thiện.
- Di sản tư liệu có tác dụng không nhỏ cho công tác tuyên truyền văn
hóa đọc, giáo dục truyền thống lịch sử, phát huy bản sắc dân tộc trong bối
cảnh hội nhập chung trong nước và quốc tế cho các thế hệ.
- Biên tập và xuất bản nội dung các tài liệu thành Kỷ yếu khoa
học, giáo trình, tài liệu tuyên truyền, quảng bá, tăng cường hiệu quả
việc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản…
- Mở rộng việc hợp tác quốc tế thông qua các Hội thảo khoa học,
quảng bá du lịch, chia sẻ nguyên tài nguyên có giá trị...
2.5.2. Điểm yếu
Về cơ chế chính sách: các văn bản hướng dẫn của UNESCO về
Chương trình Ký ức thế giới chỉ mang tính khuyến khích các quốc gia
thực hiện. Trong nước, di sản tư liệu chưa quan tâm đúng mức.
- Năm 2012, Việt Nam chính thức thành lập Ủy ban quốc gia
Chương trình Ký ức thế giới, trên thực tế, Ủy ban quốc gia tương đối
17
khép kín, chưa phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan, tập
trung chủ yếu vào việc xây dựng hồ sơ trình UNESCO ghi danh.
- Ngày 22/11/2004, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số
1243/QĐ-TTg thành lập Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia với chức
năng tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về bảo vệ, phát huy giá trị di
sản. Tuy nhiên, 6 hồ sơ vừa qua, đều không có sự thỏa thuận này.
- Chưa có sơ kết, đánh giá thuận lợi – khó khăn, thành tựu - hạn
chế của việc tham gia vào Chương trình Ký ức thế giới của Việt Nam.
- Một trong điểm đặc biệt là có một di sản đồng sở hữu nhà nước và cá
nhân, là điểm mới, nhưng cũng là những cảnh báo của UNESCO đối với vấn
đề vai trò cộng đồng, cá nhân đối với di sản tại các quốc gia trong khu vực.
Về công tác nghiên cứu nhận diện: 6 di sản tư liệu được
UNESCO ghi danh giá trị nội dung đã được khai thác, có phương án
phát huy giá trị, nhưng hiện nay, còn có một lượng lớn tư liệu cần có
một kế hoạch nghiên cứu mang tính tổng thể để nhận diện, lưu giữ và
khai thác giá trị của di sản trong xã hội.
Về phân loại:di sản tư liệu được lựa chọn chỉ dựa trên các tiêu
chí Hướng dẫn của UNESCO, vì vậy, việc lựa chọn chưa thể bao quát,
có khi còn bỏ sót nhiều tư liệu có giá trị trên toàn quốc, cần có một lộ
trình phù hợp cho việc xây dựng dữ liệu quốc gia và hội nhập quốc tế.
Về bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu thế giới được
UNESCO ghi danh ở Việt Nam hiện diễn ra tương đối phức tạp.
2.5.3. Thuận lợi
Ngay từ sau ngày thống nhất đất nước, bằng Sắc lệnh 65/SL năm
1945 về Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam, di sản văn hóa nói
chung và di sản tư liệu nói riêng đã được Chính phủ rất quan tâm:
thành lập UBQG UNESCO Việt Nam và đến năm 2012, tiếp tục kiện
toàn UBQG về Chương trình Ký ức thế giới; Kể từ khi di sản tư liệu
của Việt Nam được UNESCO ghi danh, được Chính phủ, xã hội quan
tâm mạnh mẽ với nhiều hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị....
2.5.4. Thách thức
Thứ nhất, việc mất mát, thất lạc tài liệu có giá trị đang trở thành
mối nguy cơ hàng đầu do nguyên nhân như chiến tranh, thay đổi khí
hậu, phát triển xã hội và do cả hạn chế về nhận thức của con người....
18
Thứ hai, Chương trình Ký ức thế giới thực sự mới triển khai từ
năm 1992, văn bản đang dừng ở mức khuyến nghị, hướng dẫn. Trong
nước, di sản tư liệu còn mới, việc phối hợp giữa các cơ quan chức
năng còn nhiều lúng túng, thiếu vắng các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, hệ thống cơ quan chuyên môn khá đa dạng về loại hình
là nguyên nhân khiến cho việc thống kê, phân loại di sản tư liệu trong
cả nước không dễ dàng, cần phải có cơ chế điều phối hợp lý.
Thứ tư, việc nhận thức về tầm quan trọng của công tác nhận diện
và xác định giá trị di sản tư liệu chưa được quan tâm đúng mức, công
tác bảo vệ chưa được bài bản, thống nhất và trên quy trình chung.
Thứ năm, kinh phí dành cho công tác bảo quản, phát huy giá trị
di sản tư liệu còn hạn chế so với tiềm năng, nhu cầu thực tế của di sản.
Thứ sáu, công tác đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn tại các
trường Đại học còn nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn.
Tiểu kết
Với thực trạng tại Chương 2, đã thể hiện rất rõ bức tranh manh
mún, nhỏ lẻ, không có sự liên kết giữa các di sản tư liệu trong toàn
quốc. Thậm chí, các chính sách vấn chưa được đặt ra cụ thể, cơ chế
phối hợp cũng chưa thực hiện đồng bộ, những chỉ tiêu xây dựng Danh
mục Di sản tư liệu quốc gia cũng chưa được đề xuất và thực
hiện…dẫn đến việc ghi danh rồi để đó, việc phát huy giá trị sau thời
gian ghi danh được dư luận quan tâm sau một thời gian lại chìm lắng,
không có sự đánh giá, rút kinh nghiệm, để hoàn thiện các khâu hoạt
động. Bằng việc phân tích thực tiễn những thành công, những khó
khăn, thuận lợi và thách thức đối với 6 di sản tư liệu được UNESCO
ghi danh trong thời gian qua, NCS rút ra được các khó khăn, thách
thức cho các di sản tư liệu “tiềm năng“ để có những đề xuất giải pháp
cho sự hoàn thiện tổng thể của loại hình này trong sự phát triển chung
của di sản văn hóa Việt Nam.
Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
TƯ LIỆU ĐƯỢC UNESCO GHI DANH Ở VIỆT NAM
3.1. Kinh nghiệm quốc tế
3.1.1. UNESCO và Chương trình Ký ức Thế giới
19
3.1.2. Cu Ba
3.1.3. Hàn Quốc
3.1.4. Trung Quốc
Từ các kinh nghiệm của UNESCO và các quốc gia trên, NCS rút ra
một số kinh nghiệm và bài học phù hợp có thể áp dụng ở Việt Nam như sau:
- Việc hoàn thiện chính sách thông qua các bộ Luật và văn bản quy
phạm pháp luật, xây dựng cho mình một cơ chế điều phối phù hợp, có quy
trình cụ thể cho vấn đề xây dựng tiêu chí bảo vệ và phát huy giá trị di sản.
- Việc nghiên cứu nhận diện giá trị di sản luôn là những bước đi khởi
đầu của các quốc gia trên thế giới.
- Các quốc gia đều xây dựng Danh mục Di sản tư liệu quốc gia nhằm
lưu giữ, bảo vệ, phát huy giá trị di sản trong thực tiễn xã hội.
- Việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu được xây dựng bằng
Chiến lược quốc gia với những phương án tổng thể và kế hoạch triển khai cụ
thể cho các cấp độ di sản được ghi danh.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát huy giá trị di
sản tư liệu được UNESCO vinh danh tại Việt Nam
3.2.1. Nhóm giải pháp về định hướng cơ chế chính sách
- Đối với 6 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh
Nên thành lập Câu lạc bộ các di sản tư liệu được UNESCO ghi
danh, luân phiên hàng năm có giao lưu học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm
để phát huy hiệu quả tốt nhất trong việc phát huy giá trị di sản trên
toàn quốc.
Về cơ chế điều phối, hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp, sự
nghiệp có thu là tương đối ổn định, chủ động trong việc bảo vệ và phát
huy, tuy nhiên, cần có sự tham khảo các cơ quan chuyên môn để di
sản được bảo vệ một cách hiệu quả, đúng luật định.
- Đối với di sản tư liệu nói chung
Xây dựng chiến lược phát triển cho công tác bảo vệ, phát huy giá trị di
sản tư liệu trong tổng quan chung phát triển văn hóa, từng cấp quản lý, để
có đánh giá tổng thể hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Việc phối hợp cần phải thực hiện theo quy trình, đảm bảo tuân thủ
Hướng dẫn của UNESCO và văn bản pháp quy của Việt Nam, sự tham vấn
của Văn phòng UNESCO tại Việt Nam và Hội đồng di sản văn hóa quốc gia.
20
Bổ sung thêm mục 3 (Điều 4 trong Luật Di sản văn hóa sẽ được
chỉnh sửa, bổ sung theo lộ trình dự kiến vào năm 2018 ) định nghĩa:
Di sản tư liệu, theo định nghĩa trong TCVN 10382:2014: Di sản văn
hóa và các vấn đề liên quan – Định nghĩa và thuật ngữ.
- Về xây dựng mô hình điều phối hoạt động: Trên cơ sở các phân tích
mô hình quốc tế trên và dựa trên thực tiễn hoạt động của UBQG về di
sản tư liệu ở Việt Nam, NCS đề xuất mô hình điều phối bảo vệ và phát
huy giá trị di sản tư liệu tại Việt Nam: Trong đó, Thủ tướng Chính phủ là cấp
quản lý cao nhất, quyết định đối với việc các hồ sơ thuộc Danh mục quốc gia
trình UNESCO ghi danh. Hội đồng di sản văn hóa quốc gia là cơ quan tư vấn
về các vấn đề liên quan đến di sản văn hóa trong đó có di sản tư liệu. Đồng
thời với việc đề xuất mô hình điều phối hoạt động, bảo vệ và phát huy giá trị
di sản, NCS đưa ra cơ chế xét duyệt theo Hội đồng từ cấp độ địa phương đến
cấp độ quốc gia, trong đó Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước là Thư ký Thường
trực dưới sự định hướng của Ủy ban MOWCAP tại Việt Nam và sự phối
hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành có liên quan đối với việc sưu tầm, nghiên
cứu, lựa chọn, xét duyệt, kiểm tra và giám sát việc bảo vệ, phát huy giá trị di
sản tư liệu:
3.2.2. Giải pháp tăng cường việc nghiên cứu nhận diện
- Đối với 6 di sản tư liệu được ghi danh
Di sản tư liệu sau khi ghi danh, cần xây dựng các dự án tầm nhìn tổng
thể và chiến lược, với sự tham góp của các cơ quan quản lý, đơn vị chuyên
môn, cộng đồng và chính quyền địa phương. Bên cạnh việc bảo tồn
nguyên dạng các tài liệu đã có, cần có kế hoạch nghiên cứu nhận diện
các tài liệu đã mất hoặc đang tồn tại ở một số nơi chưa thu thập về...
- Đối với di sản tư liệu nói chung
Thực hiện các đề tài dự án nghiên cứu khoa học để xác định được giá
trị di sản đối với các cơ quan, đơn vị và mở rộng trong cộng đồng để nhận
diện thêm các di sản tiềm năng bổ sung vào kho tàng di sản của dân tộc; tiến
hành lập danh mục và lựa chọn theo thứ tự ưu tiên những di sản đưa
vào danh mục quốc gia trước khi trình di sản khu vực và thế giới.
Hiện nay, Việt Nam mới đang chủ trọng đến các tài liệu văn bản, thiếu
hẳn mảng tài liệu phi văn bản rất lớn và có giá trị, như: phim, ảnh, tranh....Vì
vậy, cần tích cực tuyên truyền và khơi dậy tiềm năng này trong tương lai gần.
21
3.2.3. Về phân loại
- Đối với 6 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh
Việt Nam đang chú trọng quá đến việc danh hiệu trong việc chúng ta
muốn các di sản tư liệu đều được ghi danh là di sản thế giới mà không quan
tâm đến việc tại sao UNESCO ghi danh? và ghi danh để làm gì? Việc cần
làm hiện nay, Việt Nam cần xác định rõ: các di sản tư liệu thế giới đã có giá
trị như thế nào, đã ảnh hưởng và tác động gì đối với phát triển xã hội trước và
sau khi được ghi danh? Việc phân loại, ngoài tiêu chí nổi bật, việc đầu tư đến
đâu để đóng góp sự hợp tác chung và tạo sức lan tỏa đối với di sản tư liệu
trong nước và quốc tế.
- Đối với di sản tư liệu nói chung
NCS đề xuất tiêu chí lựa chọn đưa các tư liệu có giá trị vào danh
mục Di sản tư liệu quốc gia tại Việt Nam:
- Nội dung xác thực, có giá trị đặc biệt ghi dấu một sự kiện trọng
đại, chủ quyền của đất nước hoặc liên quan đến sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu; có giá trị tư tưởng, nhân văn tiêu
biểu cho một khuynh hướng, một phong cách, một thời đại; có giá trị
thực tiễn cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn
lịch sử nhất định.
- Có hình thức độc đáo về chất liệu, ngôn ngữ thể hiện, thể loại
đặc biệt; thời gian từ 50 năm trở lên (tính từ trước khi Hồ Chủ tịch ra
Sắc lệnh về Bảo tồn cổ tích ngày 23/11/1945).
- Là hiện vật độc bản, quý hiếm, toàn vẹn hoặc có nguy cơ bị tiêu
hủy, mất đi vĩnh viễn.
3.2.4. Bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu
- Đối với di sản tư liệu được UNESCO ghi danh
Hình thức du lịch cần được nghiên cứu theo hình thức trải
nghiệm, làm “sống lại” cách mà người xưa sử dụng và khai thác loại
hình di sản này như thế nào… Đầu tư, nâng cấp hệ thống kho tàng bảo
quản di sản tư liệu theo hướng phù hợp với từng loại chất liệu của tài
liệu, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Đồng thời, xây dựng hệ
thống cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản tư liệu, chia sẻ trên toàn quốc
và hội nhập thế giới.
- Đối với di sản tư liệu tiềm năng
22
* Tổ chức nghiên cứu, nhận diện, phân loại, đánh giá giá trị và
tình trạng kỹ thuật của các di sản tư liệu.
* Thực hiện nghiêm túc và khoa học các Hướng dẫn của UNESCO về
quy trình, thủ tục, xây dựng nội dung, kèm theo các phương án bảo vệ và
phát huy giá trị di sản tư liệu phù hợp với nhu cầu phát triển của Việt Nam.
* Đẩy mạnh tuyên truyền để nâng cao nhận thức của xã hội đối
với UNESCO, Chương trình MOW, MOWCAP… tăng cường chia sẻ
cộng đồng nhằm hướng tới mục tiêu một thế giới phát triển bền vững.
* Tăng cường phối hợp, chia sẻ kinh nghiệm họat động giữa các
cá nhân, tổ chức trong nước và quốc tế có liên quan.
* Tăng cường hợp tác quốc tế đặc biệt là các lĩnh vực
* Mở các Hội thảo khoa học, tập huấn, bồi dưỡng.
* Định kỳ có sơ kết, đánh giá về việc triển khai, kiểm tra
* Bổ sung nguồn kinh phí và cơ chế hút nguồn xã hội hóa:
* Nâng cấp trang thiết bị, cơ sở vật chất
3.2.5. Nhóm tổ chức thực hiện
3.3. Khuyến nghị
3.3.1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
3.3.2. Đối với các đơn vị sự nghiệp:
3.3.3. Đối với cộng đồng - xã hội
Tiểu kết
Trên cơ sở thực trạng, các định hướng của Chương 2 và bài học
kinh nghiệm từ UNESCO, mô hình điều phối của một số các quốc gia,
NCS đã đưa ra một số các giải pháp có thể thực hiện, gồm: nhóm giải
pháp về định hướng chính sách, bảo vệ và phát huy giá trị di sản, tăng
cường các nguồn lực hiện có của Việt Nam.
Bên cạnh đó, NCS đưa ra một số kiến nghị đối với các cơ quan
quản lý, đơn vị sự nghiệp và cộng đồng, xã hội trong việc thực hiện,
nêu cao trách nhiệm của từng tổ chức/cá nhân cùng bảo vệ và phát
huy giá trị di sản tư liệu của Việt Nam nói riêng và hòa nhập với cộng
đồng quốc tế nói chung.
KẾT LUẬN
Đề tài Di sản tư liệu ở Việt Nam – vấn đề bảo vệ và phát huy giá
trị (trường hợp các di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới
23
được UNESCO ghi danh) là một đề tài tổng hợp đánh giá thực tiễn về
di sản tư liệu được UNESCO ghi danh tại Việt Nam. Đây là những
bước nghiên cứu mới với sự khái quát chung nhất và thực sự cần thiết
cả về cơ sở lý luận và thực tiễn khi đề xuất với các cấp có thẩm quyền
về các giải pháp bảo vệ và phát huy giá trị của di sản tư liệu hiện nay.
1. Trên cơ sở tham khảo về lý luận, NCS nhận thấy, di sản tư liệu
là quá trình tư liệu hóa những sáng tạo, tri thức của con người trong
quá trình lao động, sản xuất, sinh hoạt văn hóa, nhằm lưu truyền các
giá trị về khoa học, văn hóa, thẩm mỹ từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Để tồn tại và phát triển bền vững, di sản tư liệu cần được nghiên cứu
nhận diện, phân loại, bảo vệ, phát huy giá trị một cách phù hợp, đáp
ứng được yêu cầu xã hội và hòa nhập văn hóa thế giới.
2. Trên cơ sở đánh giá chung thực trạng các di sản tư liệu thuộc
Chương trình Ký ức thế giới được UNESCO ghi danh tại Việt Nam,
NCS đã nhận thấy một số khó khăn, hạn chế trong việc bảo vệ và phát
huy giá trị di sản, như sau:
- Đối với quốc tế các văn bản hướng dẫn về bảo vệ và phát huy
giá trị di sản tư liệu chỉ mới dừng ở khuyến nghị, chưa trở thành Công
ước vì vậy việc thực hiện mỗi quốc gia đều có sự khác nhau khi vận
dụng. Trong nước, thì hiếu hụt về định hướng, chính sách trong các
văn bản quy phạm pháp luật cũng là một cản trở lớn cho việc định
hình và phát triển của loại hình di sản này.
- Cơ chế quản lý, điều hành, phối hợp đang chồng chéo, thiếu
đồng bộ, thiếu quy chuẩn; chưa có sự vận hành bài bản, theo quy
trình, các ủy ban được thành lập mang tính hình thức, không hoạt
động, không xây dựng được các tiêu chí cụ thể cho việc lựa chọn di
sản tư liệu quốc gia.
- Việc chọn lựa, đề cử xếp hạng các tài liệu có giá trị, đảm bảo
theo các tiêu chí quy định để tham gia Chương trình Ký ức Thế giới
của UNESCO ở từng cấp độ còn có những lúng túng, bị động. Các
đơn vị có tài liệu được tư vấn đề cử xếp hạng tự làm hồ sơ dưới sự
hướng dẫn của chuyên gia UNESCO theo cách vừa làm, vừa học hỏi,
rút kinh nghiệm của những hồ sơ đã làm. Vai trò của cơ quan quản lý