CÂU HỎI ÔN TẬP THI CUỐI KÌ
1.
1.1.
Những hình thức cơ bản của thế giới quan. Chức năng của thế
giới quan triết học.
Lý luận chung về thế giới quan
1.1.1.
Thế giới quan là gì?
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới.
Thế giới quan bao hàm cả những quan điểm, quan niệm về giới tự nhiên và cả những quan điểm,
quan niệm về bản thân con người, xã hội loài người.
Thế giới quan ra đời từ cuộc sống. Nó là kết quả của quá trình nhận thức, song suy cho đến cùng nó
là kết quả của cả những yếu tố chủ quan và những yếu tố khách quan, của cả hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn.
Hình thành thế giới quan là một quá trình tất yếu mà chủ thể của nó có thể là cá nhân hay cộng đồng
và xã hội.
1.1.2.
Về nội dung của thế giới quan phản ánh thế giới ở ba góc độ:
- Các đối tượng bên ngoài con người.
- Bản thân con người.
- Mối quan hệ của con người với các đối tượng bên ngoài con người.
1.1.3.
Hình thức
Thế giớ quan có thể biểu hiện dưới dạng quan điểm, quan niệm rời rạc, cũng có thể biểu hiện dưới
dạng hệ thống lý luận chặt chẽ.
1.1.4.
Cấu trúc
Thế giới quan có cấu trúc phức tạp nhưng 2 yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin.
Một TGQ nhất quán là TGQ có tri thức và niềm tin thống nhất với nhau tạo cơ sở để con người
hành động theo tri thức và niềm tin của mình.
Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song tri thức chỉ gia nhập và o thế giới
quan khi nó đã trở thành niềm tin để hình thành lý tưởng, động cơ thôi thúc con người hành động.
Không bao giờ con người đạt được thế giới quan nhất quán tuyệt đối, mà tính nhất quán của thế giới
quan mà con người đạt được càng ngày càng tăng lên khi tri thức của con người càng ngày được kiểm
nghiệm.
Trong cuộc sống con người có thể xảy ra các trường hợp: con người có tri thức nhưng thiếu niềm
tin và con người có niềm tin nhưng thiếu tri thức thì các thế giới quan này không nhất quán nên hành
động của con người không nhất quán. Ví dụ: Có người nói về lý thuyết chủ nghĩa xã hội rất hay nhưng
bản thân lại không tin xã hội đó xuất hiện. Cho nên chính những con người ấy nhiều khi lại tha hóa,
nhũng nhiễu nhân dân, tham nhũng... Đó là biểu hiện của thế giới quan không nhất quán. Trường hợp thứ
hai, những giáo dân rất tin vào tôn giáo của mình, nhưng không có nhiều người hiểu biết đúng về giáo lý
của tôn giáo mình. Nhiều nhà dân có bàn thờ Phật, tin theo Phật giáo nhưng liệu có bao nhiêu người có
hiểu biêt về sự ra đời, thuyết Tứ Diệu Đế...
Như vậy, một thế giới quan nhất quán là một thế giới quan có tri thức và niềm tin thống nhất với
nhau tạo nên cơ sở vững chắc cho con người tiếp tục tìm hiểu thế giới, cho con người xác định thái độ,
cách thức hoạt động, cách thức sống nói riêng và xác lập nhân sinh quan nói chung.
1.1.5.
Vai trò, chức năng
Chính vai trò là cơ sở để con người xác định những vấn đề then chốt của cuộc sống, thế giới quan
có các chức năng như: chức năng nhận thức, chức năng xác lập giá trị, chức năng bình xét, đánh giá, chức
năng điều chỉnh hành vi... mà khái quát lại, chức năng bao trùm của thế giới quan là chức năng định
hướng cho toàn bộ hoạt động sống của con người.
1.1.6.
Phân loại thế giới quan
Tuỳ theo cách tiếp cận mà TGQ được phân thành nhiều loại khác nhau, như:
- TGQ duy vật và TGQ duy tâm.
- TGQ vô thần và TGQ hữu thần.
- TGQ khoa học và TGQ phản khoa học.
- V.v.
TGQ khoa học là TGQ được hình thành và phát triển dựa trên thành tựu của các khoa học.
1
1.2.
Những hình thức cơ bản của thế giới quan
Căn cứ vào quá trình vận động và phát triển tri thức và niềm tin của con người trong lịch sử loài
người, người ta chia thế giới quan thành ba hình thức cơ bản.
1.2.1. Thế giới quan huyền thoại
TGQ huyền thoại là TGQ hình thành và phát triển trong giai đoạn đầu của xã hội loài người.
Đặc trưng cơ bản của TGQ huyền thoại:
- Thể hiện chủ yếu qua các chuyện thần thoại.
- Trình độ nhận thức rất thấp, chỉ dừng lại ở cấp độ nhận thức cảm tính (trông thấy, sờ thấy chứa
chưa đạt đến độ nhận thấy). Những cái trừu tượng trong các câu chuyện thần thoại được thể hiện dưới
dạng cụ thể.
- Tri thức và niềm tin đan xen nhau.
- Nội dung pha trộn không tự giác giữa thực và ảo, giữa thần và người; trật tự không gian,
thời gian bị đảo lộn. Sự pha trộn này là kết quả tất yếu của trình độ nhận thức thấp, khi con người chưa
hiểu về nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới nên họ đã nhân cách hóa,
nhân hình hóa, nhân tính hóa chúng thành các vị thần hoặc bán thần trong thần thoại. Các vị thần trong
chuyện thần thoại rất thật. Các vị thần có sức mạnh, tài năng của thần, nhưng ở những vị thần ấy lại có
những điều rất người. Dớt là vị thần cao nhất trong các vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Dớt có sức mạnh,
tài năng, quyền lực của một vị thần, nhưng ở Dớt lại có những điểm rất người như rất thích phụ nữ, thần
cũng nóng giận, cũng thù hận, vui buồn, yêu thương, ghen ghét.... Ở những con người bằng xương bằng
thịt ở những bộ tộc lại có những yếu tố rất thần thánh. Hình ảnh của các thế hệ trước được truyền miệng
từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác qua tưởng tượng, qua suy luận tưởng tượng của
con người kể tạo ra những sự biến đổi không tự giác làm cho những con người của thị tộc ngày càng anh
hùng hơn, kỳ vĩ hơn và cũng thần thánh hơn. Hêraclit, Hécto, Ôđixê, Thiếu Hạo, Chuyên Húc... là những
con người như thế. Trật tự thời gian và không gian bị đảo lộn cũng do yếu tố truyền miệng tạo nên.
Có thể nói, ở thế giới quan huyền thoại đều giải thích “các lực lượng tự nhiên trong tưởng tượng và
nhờ trí tưởng tượng”; và đều truy tìm nguồn gốc thị tộc – những thị tộc đã có trước thần thoại do chính
bản thân thị tộc sáng tạo ra với những vị thần và bán thần; cũng đều chỉ là cái thực tế đã qua phản ánh
hoang tưởng vào những câu chuyện của người nguyên thủy”.
1.2.2. Thế giới quan tôn giáo
TGQ tôn giáo là TGQ có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với thế giới;
niềm tin này được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy.
Đặc trưng cơ bản của TGQ tôn giáo:
- Ra đời rất sớm
- Thể hiện chủ yếu qua giáo lý của các tôn giáo.
- Trình độ nhận thức thấp. Khi con người không thể giải thích được các hiện tượng như: mưa gió,
sấm chớp, nhật thực, nguyệt thực... đã dẫn đến việc con người thần thánh hóa chúng, quy chúng
về sức mạnh tự nhiên và tôn thờ chúng.
- Tuyệt đối hóa niềm tin. Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin cao hơn lý trí,
trong đó niềm tin vào một thế giới khác hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người sẽ đến sau cái chết
giữ vai trò chủ đạo. V.I. Lênin cho rằng: “Sự bất lực của giai cấp bóc lột trong cuộc đấu tranh
chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn cả thế giới bên kia, cũng
giống như sự bất lực của con người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng
tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu,...”. Trong niềm tin này, TGQ tôn giáo biểu
hiện sự nghèo nàn hiện thực, vừa là phản kháng chống lại sự nghèo nàn đó. Nó là thuốc giảm
đau, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng trong cuộc sống.
- Ảo lấn át thực, thần lấn át người. Ở trong tất cả các tôn giáo thì vai trò và vị trí của con người
luôn ở thang bậc cuối cùng. Hình ảnh con người luôn hiện lên với mặt trái của mình.
1.2.3. Thế giới quan triết học
TGQ triết học là TGQ có hạt nhân lý luận là các học thuyết triết học.
TGQ triết học và triết học không tách rời nhau. Triết học là hạt nhân lý luận của TGQ, là bộ phận
quan trọng nhất vì nó chi phối các quan điểm, quan niệm còn lại của TGQ như quan điểm về kinh tế,
chính trị, văn hóa,....
Đặc trưng cơ bản của TGQ triết học:
- Thế giới quan triết học ra đời muộn nhất so với thế giới quan huyền thoại và thế giới quan tôn giáo.
Thế giới quan triết học chỉ hình thành khi nhận thức của con người đã đạt đến trình độ cao của sự
2
khái quát hóa, trừu tượng hóa và khi các lực lượng xã hội đã ý thức được sự cần thiết phải có định
hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc sống. Triết học ra đời vào khoảng thời kì VIII TCN.
- Thế giới quan triết học chủ yếu thể hiện qua các học thuyết triết học.
- Ra đời khi nhận thức của con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ
thống hóa và khi các lực lượng xã hội đã ý thức được sự cần thiết phải có định hướng về tư tưởng
để chỉ đạo cuộc sống.
- Đề cao vai trò tri thức.
- Không chỉ thể hiện quan điểm, quan niệm về thế giới mà còn chứng minh chúng bằng lý luận.
Trong khi thế giới quan huyền thoại và thế giới quan tôn giáo chỉ trình bày các quan điểm, quan
niệm.
- Tính chất của TGQ triết học do tính chất các học thuyết triết học quy định. Đặc điểm này thế giới
quan huyền thoại và tôn giáo không có nội dung tương ứng. Nếu học thuyết triết học là duy vật thi
thế giới quan tương ứng là thế giới quan duy vật, nếu học thuyết triết học là duy tâm thì thế giới
quan tương ứng là thế giới quan duy tâm.
Thế giới quan triết học được chia thành thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật.
TGQDT là TGQ thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần và thừa nhận vai trò quyết định của
tinh thần đối với thế giới vật chất.
TGQDT thể hiện dưới 2 hình thức: TGQDT chủ quan và TGQDT khách quan tương ứng với chủ
nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan quan niệm cái
tinh thần, ý thức là của chủ thể (con người). Chủ nghĩa duy tâm khách quan trong khi thừa nhận tính thứ
nhất của ý thức thì chủ nghĩa duy tâm khách quan quan niệm có một loại ý thức không của con người, có
trước và quyết định sự ra đời và tồn tại của vũ trụ và con người.
TGQDV là TGQ thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của đời
sống vật chất đối với đời sống tinh thần và thừa nhận vai trò của con người trong đời sống xã hội.
Kể từ khi ra triết học đời, sự phát triển của thế giới quan duy vật gắn liền với sự phát triển của chủ
nghĩa duy vật. Tương ứng với 3 hình thức cơ bản của CNDV là 3 hình thức cơ bản của TGQDV:
- TGQDV chất phác.
- TGQDV siêu hình.
- TGQDV biện chứng.
TGQDVCP là TGQ thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, chất phác của các nhà duy vật thời cổ đại.
Tiêu biểu là phái Ngũ hành ở Trung Quốc; Vai’sesika, Lokayata ở Ấn Độ; Miletus, Ephezus, ở Hy
Lạp; v.v.
Đặc trưng cơ bản của TGQDVCP
- Nhận thức nặng tính trực quan, phỏng đoán nên ngây thơ, chất phác.
- Đồng nhất VC với vật thể khi TGQ này hiểu vật chất là những chất đầu tiên sinh ra vạn vật. Ở
phương Đông, phái Ngũ hành coi những chất đầu tiên ấy là Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Ở phương
Tây, phái Mile cho rằng chất đầu tiên ấy đơn thuần là nước (quan điểm của Talet), apeiron (quan điểm của
Anaaximan) hay không khí (quan điểm của Anaximen).
- Không hiểu đúng nguồn gốc, bản chất của YT.
- Không hiểu đúng mối quan hệ giữa VC & YT.
- Duy tâm về xã hội. khi giải quyết những vấn đề tự nhiên họ đứng trên quan điểm duy vật, còn khi
giải quyết nước vấn đề xã hội họ đã “trượt” sang quan điểm duy tâm…
- Chưa thể hiện được vai trò cải tạo thế giới.
TGQDV chất phác ra đời và thể hiện rõ nét ở thời kì cổ đại, thừa nhận tính thứ nhất của vật chất,
nhưng họ lại đồng nhất vật chất với vật thể. Vật thể là biểu hiện cụ thể của vật chất, vật chất là vật liệu,
như vậy chưa phân biệt được vật thể và vật chất. Ở phương Đông, phái Ngũ hành coi những chất đầu tiên
ấy là Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Ở phương Tây, phái Mile cho rằng chất đầu tiên ấy đơn thuần là
nước (quan điểm của Talet), apeiron (quan điểm của Anaaximan) hay không khí (quan điểm của
Anaximen). Trình độ nhận thức CNDV thời kì cổ đại này còn thấp, khả năng khái quát hóa, hệ thống hóa
chưa cao.
Thế giới quan duy vật chất phác còn có nhiều hạn chế, trong đó:
• Nhận thức của các nhà duy vật mang nặng tính trực quan, phỏng đoán chứ chưa có được
những căn cứ khoa học vững chắc.
• Quan niệm vật chất là một hay một số chất đầu tiên sản sinh vạn vật chứng tỏ các nhà duy
vật thời kì này đã đồng nhất vật chất với vật thể - một số dạng cụ thể của vật chất.
3
•
Việc đồng nhất vật chất với vật thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều hạn chế
trong những lĩnh vực khác, như: không hiểu được bản chất của các hiện tượng tinh thần
cũng như mối quan hệ giữa tinh thần với vật chất; không có cơ sở xác định những biểu hiện
của vật chất trong đời sống xã hội nên cũng không có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật
khi giải quyết những vấn đề về mặt xã hội. Điều đó tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật
không triệt để: khi giải quyết những vấn đề tự nhiên họ đứng trên quan điểm duy vật, còn
khi giải quyết nước vấn đề xã hội họ đã “trượt” sang quan điểm duy tâm…
• Thế giới quan duy vật thời cổ đại chỉ dừng lại ở việc giải thích thế giới chứ chưa đóng được
vai trò cải tạo thế giới.
TGQDV siêu hình: Là TGQ của các nhà duy vật được hình thành từ phương pháp nhận thức siêu
hình.
Thể hiện rõ nét vào thế kỷ XVII, XVIII ở các nước Tây Âu.
Tiêu biểu là Bacon, Hobbes, Locke, Spinoza, Descartes, Diderot, Holbach, v.v.
Đặc trưng cơ bản của TGQDV siêu hình
Tiếp tục phát triển tư tưởng của TGQDV chất phác thời cổ đại về VC, nghĩa là vật chất và
vật thể vẫn đồng nhất, chưa phân biệt được. Vì vậy, CNDV giai đoạn vẫn chưa hiểu đúng đắn về bản chất
ý thức cũng như quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Nhận thức thế giới bằng phương pháp siêu hình nên coi thế giới là vô số những sự vật cụ
thể tồn tại cạnh nhau trong một không gian trống rỗng. Khi nhận thức một đối tượng nào đó thì phương
pháp siêu hình cô lập tách rời đối tượng ấy ra khỏi cái khác, họ không thấy mối liên hệ giữa các đối tượng
với nhau. Khi nhận thức một đối tượng thì người ta quan niệm đối tượng đó không có sự thay đổi, mà có
thay đổi thì chỉ thay đổi về mặt số lượng chứ không có sự thay đổi về mặt chất lượng.
Ngoài những hạn chế như TGQDVCP, TGQDVSH còn bộc lộ hạn chế cả về phương pháp nhận
thức, phương pháp tư duy.
Thế giới quan duy vật biện chứng:
TGQDVBC được Marx & Engels xây dựng vào TK XIX trên cơ sở: Tổng kết những thành tựu của
khoa học, những sự kiện lịch sử ở Tây Âu, khi PTSX TBCN đã bộc lộ cả những mặt mạnh và hạn chế của
nó; kế thừa những nội dung hợp lý trong triết học của Feuerbach & Hegel.
Đặc trưng cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng:
- Thế giới quan duy vật biện chứng phân biệt rõ vật chất với vật thể. Vật chất là thực tại khách
quan, tức là tất cả những gì tồn tại bên ngoài ý thức không, không phụ thuộc vào ý thức. Những
biểu hiện cụ thể của vật chất là vật thể.
- Thế giới quan duy vật biện chứng nhận thức thế giới bằng phương pháp biện chứng. Phương
pháp biện chứng là phương pháp đặt đối tượng vào trong mối liên hệ, nhận thức đối tượng ở
trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung của sự phát triển.
Kết luận: Tính chất của thế giới quan triết học bị tính chất của các học thuyết triết học quyết định.
Thế giới quan huyền thoại không thể tồn tại với tư cách là thế giới quan khoa học bởi thời kì ấy khoa học
còn chưa ra đời. Thế giới quan tôn giáo tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố siêu tự nhiên, niềm tin không phù
hợp để trở thành thế giới quan khoa học. Thế giới quan duy tâm không thể trở thành thế giới quan khoa
học bởi nó thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, đi ngược lại kết luận của khoa học. Thế giới quan duy vật
chất phác đồng nhất vật chất với vật thể nên không thể tồn tại với tư cách là thế giới quan khoa học. Thế
giới quan duy vật siêu hình xem xét đối tượng trong sự cô lập, tách rời, không có sự thay đổi về chất mà
chỉ có sự thay đổi về lượng nên cũng không thể trở thành thế giới quan khoa học. thế giới quan duy vật
biện chứng xây dựng trên nền tảng những kết luận của khoa học và nó là hệ thống mở, đòi hỏi các thế hệ
không ngừng tổng kết các thành tựu khoa học bổ sung và phát triển cho phù hợp với phát triển của khoa
học. Cho nên, thế giới quan duy vật biện chứng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm hạt nhân phù hợp trở
thành thế giới quan khoa học.
1.3.
Chức năng của thế giới quan triết học
Thế giới quan triết học định hướng cho toàn bộ cuộc sống của con người. Thế giới quan triết học
được hình thành, phát triển trong quá trình sinh sống và nhận thức của con người; đến lượt mình, thế giới
quan triết học lại trở thành nhân tố định hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận thức thế giới xung
quanh, cũng như tự nhận thức bản thân mình, và đặc biệt là, từ đó con người xác định thái độ, cách thức
hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề hình thành nhân sinh quan tích cực,
tiến bộ.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau: thế giới quan duy
vật, khoa học và thế giới quan duy tâm tôn giáo. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
4
tâm trong triết học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng
xã hội đối lập nhau. Chủ nghĩa duy vật là thế giới quan của giai cấp, của lực lượng xã hội tiến bộ, cách
mạng, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội. Trong lịch sử, chủ nghĩa duy vật đã đóng
tro tích cực trong cuộc đấu tranh của chủ nô dân chủ chống chủ nô quý tộc ở Hy Lạp thời cổ đại, trong
cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống giai cấp phong kiến ở các nước phương Tây thời cận đại. Ngược
lại, chủ nghĩa duy tâm được sử dụng làm công cụ biện hộ về lý luận cho giai cấp thống trị, lạc hâu, phản
động.
TGQ triết học là TGQ có hạt nhân lý luận là các học thuyết triết học. Cho nên chức năng của triết
học cũng là chức năng của thế giới quan. Thế giới quan triết học còn có chức năng phương pháp luận.
Mỗi hệ thống triết học không chỉ là một thế giới quan nhất định, mà còn là phương pháp luận chung nhất
trong việc xem xét thế giới. Mỗi quan điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc phương pháp luận, là lý
luận về phương pháp. Với tư cách là phương pháp luận chung nhất, triết học đóng vai trò định hướng cho
con người trong quá trình tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn, và do đó, nó có ý nghĩa quyết định đối với thành bại trong nhận thức và thực tiễn.
2.
Những hình thức lịch sử của phép biện chứng. Nội dung cơ bản
của phép biện chứng duy vật và những yêu cầu có tính nguyên tắc
mà phép biện chứng duy vật đòi hỏi.
1.2. Những hình thức lịch sử của phép biện chứng
1.2.1. Biện chứng là gì?
“Biện chứng” là khái niệm dùng để chỉ các mối liên hệ, sự vận động và phát triển của các sự vật,
hiện tượng.
Phương pháp biện chứng là phương pháp:
- Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác;
- Nhận thức đối tượng trong trạng thái động nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.
1.2.2. Phép biện chứng là gì?
Phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển.
Với tư cách là học thuyết, phép biện chứng thể hiện tri thức của con người về các mối liên hệ, về sự
vận động và phát triển.
Phép biện chứng vừa là lý luận, vừa là phương pháp.
- Là lý luận vì phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ, học thuyết về sự vận động và
phát triển.
- Là phương pháp vì phép biện chứng là hệ thống những nguyên tắc, những yêu cầu đòi hỏi con
người phải nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ, trong sự vận động của quá trình phát sinh, phát
triển và diệt vong của nó.
1.2.3. Những hình thức lịch sử của phép biện chứng
Học thuyết thể hiện nhận thức của con người, là sản phẩm của quá trình nhận thức, mà sự hiểu biết
và nhận thức của con người không cố định nên nội dung của phép biện chứng luôn thay đổi, vận động
theo thời gian. Căn cứ vào sự vận động, thay đổi của phép biện chứng, người ta chia lịch sử của phép biện
chứng thành 3 hình thức cơ bản: Phép biện chứng chất phác, Phép biện chứng duy tâm, Phép biện chứng
duy vật.
2.2.1.1. Phép biện chứng chất phác
Học thuyết về các mối liên hệ, về trạng thái vận động và phát triển dựa trên trực quan, nặng tính
ngây thơ, chất phác.
- Biểu hiện rõ nét ở thời cổ đại. Tiêu biểu cho phép biện chứng chất phác thời cổ đại ở phương
Đông là quan điểm về Dịch, về Âm Dương, Ngũ hành ở Trung Quốc. Tiêu biểu cho phép biện chứng chất
phác thời cổ đại ở phương Tây là quan điểm của Hêraclit ở Hy Lạp.
- Thời kì này con người thừa nhận trong vũ trụ có mối liên hệ, có sự vận động và phát triển. Nhưng
người ta chưa hiểu sâu về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển nên học thuyết về mối liên hệ, về
sự vận động và phát triển mang tính chất ngây thơ, chất phác. Do trình độ còn thấp kém vè khoa học, nên
phép biện chứng cổ đại mới chỉ là những quan điểm biện chứng mộc mạc, mang tính suy luận, phỏng
đoán trên cơ sở những kinh nghiệm trực giác mà chưa được minh chứng bằng các tri thức khoa học.
Cho dù còn nhiều hạn chế, nhưng nhìn chung, phép biện chứng cổ đại đã coi thế giới là chỉnh thể
thống nhất; giữa các bộ phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, tác động và quyết định lẫn
nhau; thế giới không ngừng vận động, biến đổi. Những nội dung tu tưởng cơ bản của phép biện chứng Hy
5
Lạp cổ đại là cơ sở để phép biện chứng phát triển lên cách hình thức cao hơn, “triết học hiện đại chỉ tiếp
tục cái công việc do Heraclit và Arixtốt đã mở đầu mà thôi”.
2.2.1.2. Phép biện chứng duy tâm
Học thuyết về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển của các nhà triết học duy tâm.
Phép biện chứng duy tâm đạt đến đỉnh cao trong triết học Heghen ở Đức vào thời kì XIX.
Lần đầu tiên trong lịch sử Hêghen đã trình bày những nội dung cơ bản của phép biện chứng dưới
dạng học thuyết chặt chẽ thông qua hệ thống các nguyên lý, các quy luật, các cặp phạm trù. Nhưng hạn
chế lớn nhất của Hêghen là ông theo chủ nghĩa duy tâm cho nên phép biện chứng của Hê ghen là phép
biện chứng duy tâm, nghĩa là Hê ghen quan niệm các mối liên hệ, sự vận động và phát triển này tồn tại ở
trong thế giới tinh thần trước rồi mới chuyển hóa thành mối liên hệ, sự vận động và phát triển trong thế
giới vật chất.
Theo Lênin, cống hiến lớn nhất của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt
là Hêghen đã trở thành phép biện chứng, coi nó như một phương pháp xem xét đối lập với phương pháp
siêu hình của thời kì XVII, XVIII. Nếu phép biện chứng cổ đại chủ yếu được đúc rút từ kinh nghiệm cuộc
sống thì phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã trở thành một hệ thống lý luận tương đối
hoàn chỉnh và trong một chừng mực nhất định, đã trở thành một phương pháp tư duy triết học phổ biến.
Tuy nhiên, với những hạn chế của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức, khi khoa học tự
nhiên phát triển sang giai đoạn tổng quát, nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng
trên quan điểm duy vật, thì tất yếu nó sẽ bị phủ định và thay thế bằng phép biện chứng duy vật.
2.2.1.3. Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học do Mác và Ăng ghen xây dựng vào giữa thế
kỉ XIX, trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen.
Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật:
- Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.
- Phép biện chứng duy vật không chỉ giải thích các mối liên hệ, trạng thái vận động và phát triển
của thế giới mà nó còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
2.3. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
Sự phong phú và đa dạng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy quy định nội
dung phép biện chứng duy vật. Nội dung của các phép biện chứng duy vật bao gồm nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. 2 nguyên lý được cụ thể hoá qua các quy luật. Các mối liên hệ
phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy vật khái quát thành các phạm trù cơ bản
như cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng; nguyên nhân và
kết quả, khả năng và hiện tượng; nội dung và hình thức… Bên cạnh các cặp phạm trù, phép biện chứng
duy vật còn bao hàm ba quy luật phổ biến về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là
quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy
luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
“Mối liên hệ” là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc nhau, góp phần quy
định sự tồn tại của nhau, chuyển hoá nhau của các sự vật, hiện tượng.
Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát: không có sự vật, hiện
tượng nào tồn tại cô lập, tách rời khỏi những sự vật, hiện tượng khác mà chúng luôn nằm trong những
mối liên hệ với nhau.
Các mối liên hệ có nhiều tính chất; song có 3 tính chất cơ bản, là:
1). Tính khách quan. Các mối liên hệ tồn tại ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức của con
người
2). Tính phổ biến. Bất kỳ sự vật nào, hiện tượng nào cũng có mối liên hệ; ở đâu (về không gian)
cũng có mối liên hệ; lúc nào (về thời gian) cũng có mối liên hệ.
3). Tính đa dạng, phong phú. Sự vật khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các
mối liên hệ khác nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận
Nếu các mối liên hệ có tính khách quan, tính phổ biến thì trong hoạt động của mình, con người
phải tôn trọng quan điểm toàn diện, đồng thời phải chống quan điểm phiến diện, một chiều.
Nếu các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú thì trong hoạt động của mình, con người phải tôn
trọng quan điểm lịch sử – cụ thể, đồng thời phải chống tư tưởng chung chung, đại khái.
Nguyên lý về sự phát triển:
6
“Vận động” là khái niệm chỉ mọi sự biến đổi; đây là sự biến đổi chưa xác định chiều hướng.
“Phát triển” là quá trình vận động theo hướng từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ chưa hoàn thiện
cho đến hoàn thiện.
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát: Mọi sự vật không ngừng vận động
trong khuynh hướng chung là phát triển. Nguồn gốc của sự vận động và phát triển là mâu thuẫn của sự
vật; cách thức của sự vận động và phát triển là lượng của sự vật đổi dẫn đến chất của sự vật đổi và ngược
lại; khuynh hướng của sự vận động và phát triển diễn ra quanh co, phức tạp được thể hiện bằng đường
xoáy ốc đi lên; đây là quá trình phủ định của phủ định mà hết mỗi một chu kỳ sự vật lặp lại dường như cái
ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Phát triển có 3 tính chất cơ bản :
1). Tính khách quan.
2). Tính phổ biến.
3). Tính đa dạng, phong phú.
Ý nghĩa phương pháp luận
Nếu phát triển có tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng phong phú thì trong cuộc sống, con
người phải tôn trọng quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi: Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức đối tượng đó ở
trạng thái động nằm trong khuynh hướng chung là phát triển; phải tìm ra nguồn gốc, cách thức, khuynh
hướng cụ thể của sự phát triển đó; đồng thời phải chống lại tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
2.4. Những yêu cầu có tính nguyên tắc mà phép biện chứng duy vật đòi hỏi.
2.4.1. Nguyên tắc toàn diện
Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức nó với tư cách là một chỉnh thể với tất cả
những yếu tố cấu thành và những mối liên hệ của nó; phải chống tư tưởng phiến diện, một chiều, chiết
trung, ngụy biện.
Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp cận khoa học, cho
phép tính đến mọi khả năng của sự vận động, phát triển có thể có của sự vật, hiện tượng trong một chỉnh
thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối liên hệ của chúng.
Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi, để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần xem xét nó
trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu
của con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh một số mối liên hệ nào
đó của sự vật, hiện tượng phù hợp với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức của con người về sự
vật, hiện tượng mang tính chất tương đối, không đầy đủ trọn vẹn. Nắm được điều đó sẽ tránh tuyệt đối
hóa những tri thức đã có về sự vật, hiện tượng và tránh coi những tri thức đã có là tri thức bất biến, tuyệt
đối cuối cùng về sự vật, hiện tượng mà không bổ sung phát triển. Bởi vậy, khi xem xét toàn diện tất cả các
mặt của những mối quan hệ của sự vật, hiện tượng phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ
đó.
Logic của quá trình hình thành quan điểm toàn diện trong nhận thức, xem xét sự vật, hiện tượng sẽ
phải trải qua nhiều giai đoạn, cơ bản là đi từ quan niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức mỗi mặt,
mỗi mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật,
hiện tượng đó và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức bản chất xuar sự
vật, hiện tượng.
Trong thực tiễn, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp,
các phương tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các mặt, mối liên hệ tương ứng của các sự vật, hiện
tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực
lượng giải quyết.
2.4.2. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức nó trong những môi trường cụ thể, điều kiện cụ
thể, không gian – thời gian cụ thể, những mối liên hệ cụ thể cũng như vị trí, vai trò cụ thể của nó; đồng
thời phải chống thái độ hời hợt, tư tưởng qua loa, đại khái.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó;
biết phân tích mỗi tính hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong
các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử - cụ thể.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không chỉ yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, nhận
thức những sự thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay tế cho
nhau, mà còn yêu cầu chỉ ra được cái quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật,
7
hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng mới thông qua
sự phủ định…
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ cụ
thể của chúng. Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể là cần thấy các mối liên hệ,
sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi
thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng; tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng
không cụ thể. Mặt khác cũng cần đề phòng khuynh hướng tuyệt đối hóa tính cụ thể, không thấy sự vật,
hiện tượng trong cả quá trình vận động, biến đổi.
Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển cụ thể
của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể.
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể, áp dụng cho những
sự vật, hiện tượng cụ thể đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể mà không nên áp
dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật, hiện tượng nào, trong bất cứ điều kiện, hoàn
cảnh, quan hệ nào.
2.4.3. Nguyên tắc phát triển
Khi nhận thức một đối tượng nào đó phải nhận thức nó trong trạng thái vận động, nằm trong
khuynh hướng chung là phát triển; phải tìm ra nguồn gốc, cách thức, khuynh hướng của sự vận động và
phát triển ấy; đồng thời phải ủng hộ cái mới – cái phù hợp với quy luật của phát triển và chống tư tưởng
bảo thủ, trì trệ.
Người ta phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó trong trạng thái vận động,
biến đổi, chuyển hóa để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy
được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ những biến đổi
của sự vật, hiện tượng, khái quát những hình thức biểu hiện của sự biến đổi đó để tìm ra khuynh hướng
biến đổi chính của nó.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nước giai đoạn, từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển
lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải có sự phân tích cụ thể để tìm ra
những hình thức tác động phù hợp hoặc thúc đẩy, hoặc hạn chế sự phát triển đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn phải nhạy cảm với
cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới phát triển thay
thế cái cũ; phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ…
3.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
1.2. KHÁI NIỆM “THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN”
Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là lý luận và thực tiễn phải gắn bó hữu cơ với nhau; trong đó,
thực tiễn phải có lý luận dẫn đường, còn lý luận phải lấy thực tiễn làm cơ sở, làm động lực, là mục đích
và là nơi kiểm tra mình đúng hay sai.
3.2. THỰC TIỄN VÀ NHỮNG HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA THỰC TIỄN
3.2.1. Khái niệm “thực tiễn”
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo hiện
thực.
Đề cập đến thực tiễn người ta đề cập đến hoạt động vật chất. HĐVC là hoạt động con người sử
dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất nhằm cải tạo chúng theo
nhu cầu của mình. Con người sử dụng các phương tiện để tác động vào đối tượng theo những hình thức và mức độ khác
nhau tùy thuộc vào mục đích của con người. Kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn là những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu
vật chất và nhu cầu tinh thần của cá nhân và cộng đồng.
HDVC là hoạt động mang tính LS – XH: Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau con người tiến hành
những hoạt động này khác nhau; Xã hội quy định mục đích, lực lượng, công cụ, v.v. của hoạt động.
Mỗi hoạt động của con người diễn ra trong một giai đoạn nhất định nào đó. Nó có quá trình hình thành, phát triển và
kết thúc hoặc chuyển hóa sang giai đoạn khác; không có hoạt động thực tiễn nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hoạt động thực
tiễn chịu sự chi phối của mỗi giai đoạn lịch sử cả về đối tượng, phương tiện cũng như mục đích hoạt động.
Hoạt động thực tiễn mặc dầu phải thông qua từng cá thể, từng nhóm người, nhưng hoạt động của từng cá thể, từng
nhóm người lại không thể tách rời các quan hệ xã hội. xã hội quy định mục đích, đối tượng, phương tiện và lực lượng trong
hoạt động thực tiễn. Do đó, hoạt động thực tiễn của con người mang tính xã hội sâu sắc, được thực hiện trong cộng đồng, vì
cộng đồng, do cộng đồng.
Mục đích của các hoạt động thực tiễn là cải tạo xã hội, giới tự nhiên và chính bản thân con người
cho phù hợp với quá trình phát triển.
8
3.2.2. Những hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn rất đa dạng nhưng được biểu hiện dưới 3 hình thức cơ bản: hoạt động SX VC, hoạt động
chính trị - XH và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động trực tiếp tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên nhằm tạo
ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của con người trực tiếp tác động vào xã hội, cải biến các
quan hệ xã hội theo hướng tiến bộ.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động của các nhà khoa học tác động làm cải biến những
đối tượng nhất định, trong một điều kiện nhất định, theo một mục đích nghiên cứu nhất định.
3.2.3. Mối quan hệ giữa các hình thức của thực tiễn
Các hình thức hoạt động thực tiễn tuy có sự khác nhau tương đối nhưng chúng thống nhất, có chung
chủ thể hoạt động, cùng mục đích; chúng hỗ trợ, ảnh hưởng lẫn nhau. Hoạt động sản xuất vật chất không thể
không hoạt động trong cộng đồng xã hội, không thẻ không có vai trò của thực nghiệm khoa học. Mặc dù hoạt động chính trị xã hội trực tiếp đến những vấn đề của đời sống chính trị - tinh thần, nhưng kết quả hoạt động của lĩnh vực này lại tác động
tích cực đến sự phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, cũng như những vấn đề có tính quy luật mà hoạt động thực
nghiệm khoa học đang quan tâm. Cũng nhu vậy, hoạt động thực nghiệm khoa học không thể không lấy mục đích phục vụ kinh
tế - xã hội.
Trong các hình thức của hoạt động thực tiễn thì hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản
nhất. Các hoạt động thực tiễn khác suy cho đến cùng đều phục vụ cho hoạt động sản xuất vật chất. Hoạt
động sản xuất vật chất tác động sâu sắc, toàn diện đến các hoạt động khác, nó là hoạt động trung tâm, chủ
yếu của con người.
3.3. Lý luận và cấp độ của lý luận trong quá trình nhận thức
3.3.1. Khái niệm “lý luận”
Lý luận là hệ thống tri thức phản ánh những mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng.
3.3.2. Quá trình hình thành lý luận trong hoạt động nhận thức
Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người. Quá trình nhận thức đem lại cho con
người hai cấp độ của tri thức: tri thức kinh nghiệm (kinh nghiệm), tri thức lý luận (lý luận).
KN là kết quả của quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật, hiện tượng. Mặt tích
cực của tri thức kinh nghiệm là có thể hình thành ở tất cả mọi người một cách tự nhiên trong cuộc sống và
đem lại cho con người hiệu quả cao khi điều kiện không đổi. Mặt hạn chế của tri thức kinh nghiệm là loại
tri thức nông cạn chỉ phản ánh được cái bề ngoài mà chưa đi vào bản chất của đối tượng. Tri thức kinh
nghiệm sẽ rất ít tác dụng hay không còn tác dụng khi điều kiện thay đổi. Ví dụ: một người cả đời ở trên vùng
cao trồng trọt trên mảnh đất của mình có kinh nghiệm về các loại cây trồng ở vùng cao nhưng khi người đó xuống miền ven
biển thì những kinh nghiệm ở vùng cao về các loại cây trồng không còn áp dụng được cho những loại cây trồng ở vùng đất
ngập mặn ven biển.
Ở cấp độ cao hơn, tri thức lý luận hình thành một cách tự giác bằng những hoạt động tích cực. LL là
hệ thống tri thức được rút ra từ quá trình tổng kết, đúc kết KN; của quá trình học tập, nghiên cứu nghiêm
túc trên nền tảng của một vốn kiến thức nhất định, một năng lực tư duy nhất định. LL đem lại tri thức về
nội dung, bản chất; về những quy luật chi phối quá trình hình thành phát sinh, phát triển của đối tượng; vì
vậy, nó đem lại hiệu quả cho hoạt động của con người ngay cả khi điều kiện đã hoàn toàn thay đổi.
Nhưng bản thân lý luận cũng có những hạn chế, giữa lý luận và hiện thực bao giờ cũng có khoảng cách,
bởi lý luận là cái khái quát hóa, cái chung nên không thể trùng lặp với cái cụ thể nào. Lý luận chuyên
ngành thì gần với hiện thực hơn vì đối tượng nghiên cứu sát với thực tế, lý luận ngành thì xa hiện thực
hơn, còn lý luận chung nhất (triết học) xa hiện thực nhất. Khi vừa ra đời tự bản thân lý luận chứa đựng hai
khả năng có thể đúng hoặc không đúng, bởi lý luận do con người nhận thức khái quát hóa, mà con người
trong quá trình nhận thức thì bị ảnh hưởng bởi trình độ tri thức, nhận thức của mỗi người.
3.4. VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI LÝ LUẬN
Với tư cách là toàn bộ những hoạt động vật chất mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải
tạo hiện thực thì thực tiễn có vai trò rất to lớn đối với kết quả nhận thức của con người, đặc biệt ở cấp độ
cao là lý luận.
Thực tiễn là cơ sở của LL nói riêng, của nhận thức nói chung. Thực tiễn là nền tảng, mà trên nền
tảng ấy nhận thức được thực hiện, lý luận ra đời. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công
cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố, các điều
kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Quá trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để bổ
sung và điều chỉnh những lý luận đã được khái quát.
Thực tiễn là động lực của LL nói riêng, của nhận thức nói chung. Chính quá trình sản xuất ra của
cải vật chất, quá trình hoạt động chính trị - xã hội, thực nghiệm khoa học đã thúc đẩy nhận thức phát
9
triển. Quá trình hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận
thức phải tìm tòi giải quyết. Thông qua đó, lý luận được bổ sung, mở rộng. Khi con người giải quyết được
vấn đề thì nhận thức, lý luận của con người được nâng lên một bậc.
Là mục đích của LL nói riêng, của nhận thức nói chung. Suy cho đến cùng toàn bộ quá trình học
tập, nghiên cứu, nhận thức… của con người phải làm cho cuộc sống giàu có hơn, đời sống tinh thần
phong phú hơn và quan hệ giữa người với người tốt đẹp hơn. Tự thân lý luận không thể tạo nên những
sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động thực tiễn.
Là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện
thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Tự bản thân lý luận khi mới ra đời chứa đựng hai khả
năng đúng hoặc không đúng. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Thông qua
thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại; những kết luận
chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại.
3.5. VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN ĐỐI VỚI THỰC TIỄN
Vì lý luận đem lại tri thức về nội dung, bản chất của đối tượng; về những quy luật chi phối quá trình
hình thành phát sinh, phát triển của đối tượng và đem lại hiệu quả cho hoạt động của con người ngay cả
khi điều kiện đã hoàn toàn thay đổi nên lý luận đóng vai trò định hướng, dẫn đường cho các hoạt động
của thực tiễn.
Lý luận là loại tri thức hệ thống, nó cho con người hiểu được nội dung, bản chất vấn đề, quy luật
vận động. Nên lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biên pháp
thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo
được những rủi ro có thể xảy ra, hoạt động. Như vậy, lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiệu
quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con người. Mặt khác, lý
luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh
vô cùng to lớn của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và xã hội.
Vai trò định hướng, dẫn đường của lý luận thể hiện:
Lý luận:
- Định hướng mục tiêu;
- Xác định chiến lược, sách lược, đường lối, chủ trương, chính sách;
- Xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện;
- Dự báo (thành quả, hậu quả, rủi ro, v.v.) để con người chuẩn bị ứng phó;
3.6. Kết luận
Trong cuộc sống, con người muốn đạt kết quả tối ưu thì cần phải thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, vì chúng bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con người và thề giới khách quan. Con người luôn tác động
tích cực vào thế giới khách quan, tự nhiên xh, cải biến thế giới bằng thực tiễn. Trong quá trình đó, sự phát
triển nhận thức của con người và sự biến đổi thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Vì thế chúng qui
định sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động của cá nhân và cộng đồng.
+ Nếu LL tách khỏi TT: khi đó LL sẽ không có sơ sở, không có động lực, không có mục đích,
không có chuẩn để kiểm tra đúng, sai. Và lúc đó, lý luận chỉ là lý luận suông. Bác nói: “Dù xem được
hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng
sách”.
+ TT tách khỏi LL thì đó là TT mù quáng, vì khi đó không hiểu được bản chất của công việc mình
đang làm.
+ TT thống nhất với TT: khi đó, trong quá trình tiến hành những công việc, con người sẽ hiểu được
bản chất công việc mình đang làm, có thể định hướng, vạch ra được những sách lược cho tương lai phát
triển hơn, tốt đẹp hơn.
Nghiên cứu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nhận thức rõ vai trò của lý luận, vai
trò của thực tiễn cho thấy:
- Hoạt động lý luận phải bám sát thực tiễn, phản ánh những nhu cầu của thực tiễn và phải góp
phần giải quyết những nhu cầu đó; đồng thời phải luôn tổng kết, đúc kết thực tiễn để bản thân lý
luận ngày thêm phong phú, sâu sắc.
- Thực tiễn phải lấy lý luận dẫn đường, phải vận dụng lý luận cho phù hợp với từng hoạt động cụ
thể, từng bối cảnh cụ thể.
- Phải chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Để khắc phục bệnh kinh nghiệm, một mặt bám
sát thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung và vận dụng lý luận cho phù
hợp với thực tiễn. Mặt khác phải hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng XHCN, kinh tế thị
trường đòi hỏi mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, thường xuyên theo sát thị trường
để ứng phó, chủ động trong kinh doanh. Còn để khắc phục bệnh giáo điều hiệu quả, cần quán
10
triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa LL và TT. LL phải luôn luôn gắn liền với TT, vận dụng
sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra trong thực tiễn, không ngừng phát triển cùng thực tiễn.
4.
Nội dung cơ bản của lý luận Hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa của lý luận này đối với
sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay.
1.2. Nội dung cơ bản của lý luận Hình thái kinh tế - xã hội
Trước khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ra đời, hầu như tất cả các nhà kinh điển quan niệm
rằng sự hưng thịnh hay suy tàn của một quốc gia, dân tộc do ý muôn đảng, giai cấp hay cá nhân cầm
quyền. Tức là người ta thiên nói về vai trò, trách nhiệm của nhà nước, chính đảng, lãnh tụ. Đến thời của
Marx khi nghiên cứu về xã hội, Marx xuất phát từ cuộc sống của con người hiện thực. Marx nhận thấy,
trong tất cả các hoạt động của con người, hoạt động sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định. Xuất phát từ
hoạt động này, Marx phân tích các mối quan hệ giữa các lĩnh vực trong đời sống và phát hiện ra những
quy luật chi phối sự vận động và phát triển của xã hội. Từ đó, Ông khái quát nên học thuyết Hình thái
kinh tế – xã hội.
Hình thái kinh tế – xã hội là phạm trù dùng để chỉ một xã hội trọn vẹn trong từng giai đoạn lịch sử
cụ thể; có những quan hệ sản xuất bị trình độ của lực lượng sản xuất quy định, những quan hệ sản xuất
này tạo nên kết cấu kinh tế (cơ sở hạ tầng) của xã hội và trên nó được xây dựng nên một kiến trúc thượng
tầng.
Loài người đã trải qua bao nhiêu giai đoạn lịch sử cụ thể thì loài người cũng đã trải qua bấy hiều
hình thái kinh tế xã hội, cụ thể là 4 hình thái kinh tế xã hội : công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, tư bản chủ nghĩa. Khi con người từ hình thái kinh tế xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế xã hội
khác là đánh dấu sự phát triển của xã hội loài người. Nếu con người tìm được nguyên nhân, động lực làm
cho hình thái kinh tế xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế xã hội khác là con người đã tìm ra được
nguyên nhân, động lực của sự phát triển của xã hội loài người.
Xã hội có cấu trúc phức tạp song được khái quát thành 3 lĩnh vực cơ bản : quan hệ sản xuất (Những
QHSX này tạo nên kết cấu kinh tế hay cơ sở hạ tầng của xã hội), lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng
tầng. Trong đó, LLSX & QHSX cấu thành phương thức sản xuất. Mỗi mặt của hình thái kinh tế xã hội có
vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau và thống nhất với nhau. Do đó, cấu trúc để xây dựng nên hình thái
kinh tế xã hội là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng và các mối quan hệ của
chúng.
Để tìm hiểu về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ta tìm hiểu thông qua phương thức
sản xuất. Phương thức sản xuất chính là cách thức sản xuất ra của cải vật chất của con người
trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định trong tất cả các
mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, kinh tế. Mỗi XH được đặc trưng bằng một
PTSX nhất định. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định
sự phát triển của xã hội loài người.
Bất kỳ một PTSX nào cũng gồm LLSX và QHSX.
LLSX là toàn bộ các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất; nó biểu hiện mối quan hệ giữa người
với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất. Để tiến hành sản xuất phải có con người cho nên yếu tố thứ
nhất của sản xuất là con người. Con người này là con người tham gia vào quá trình sản xuất - người lao
động. Người lao động phải nằm trong một độ tuổi nhất định, có sức khỏe và kinh nghiệm nhất định. Yếu
tố thứ hai của sản xuất là tự nhiên như đất đai sông ngòi…, nhưng không phải toàn bộ giới tự nhiên tham
gia vào quá trình sản xuất mà chỉ một phần của giới tự nhiên tham gia. Phần của giới tự nhiên tham gia
vào quá trình sản xuất người ta gọi là tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất lại được chia thành: tư liệu lao
động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động được chia thành công cụ lao động và phương tiện lao động.
Công cụ lao động là những vật trung gian để truyền tải sức của người lao động vào những vật khác trong
quá trình lao động. Còn những vật nhận sự tác động của công cụ lao động được gọi là đối tượng lao động.
Phương tiện lao động là tất cả những vật hỗ trợ con người trong quá trình sản xuất về mặt chuyên chở,
bảo quản như kho tàng, cầu, đường, bến bãi…. Tất cả các yếu tố của lực lượng sản xuất đều có quan hệ
với nhau. Trong các yếu tố cấu thành LLSX thì người lao động giữ vai trò quyết định vì người lao động là
chủ thể của các yếu tố còn lại. Còn công cụ lao động là yếu tố cực kỳ quan trọng vì CCLĐ quyết định
năng suất lao động và biểu hiện khả năng chinh phục giới tự nhiên của con người. Nhìn một cách tổng
quát thì LLSX là thường xuyên biến đổi theo chiều hướng phát triển nên nó là yếu tố động, mang tính
cách mạng. Trong quá trình lao động con người muốn bỏ ra ít sức lực, của cải nhưng lại muốn sản phẩm
thu về được nhưng. Cho nên để giải quyết mâu thuẫn này thì người lao động không ngừng cải tiến công
11
cụ lao động. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất.
Trong thực tế, một xã hội phát triển thì phải được thể hiện qua sự phát triển trình độ của lực lượng sản
xuất, để phát triển trình độ của lực lượng sản xuất thì phải phát triển trình độ của người lao động, phát
triển công cụ lao động và phương tiện lao động.
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất thể hiện ở ba
quan hệ cơ bản: quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ trong quản lý, phân công lao động, quan hệ
trong phân phối sản phẩm. Các quan hệ của QHSX có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó quan hệ
sở hữu TLSX giữ vai trò quyết định đối với 2 quan hệ còn lại. Người nào nắm tư liệu sản xuất thì người
đó có quyền quản lý, phân công lao động và phân phối sản phẩm. Nhìn chung, các yếu tố tạo nên quan hệ
sản xuất ít thay đổi; nó là yếu tố tĩnh, mang tính bảo thủ.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện qua quy luật “QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX”. Trình độ của LLSX được xét ở: sức khỏe và trí tuệ của người lao
động; hàm lượng khoa học trong CCLĐ & PTLĐ; tính chất hợp lý trong khai thác ĐTLĐ. Là yếu tố
động, mang tính cách mạng, trình độ của LLSX thường xuyên phát triển; song, khi nó phát triển đến một
mức độ nhất định thì QHSX phải thay đổi cho phù hợp với trình độ mới của LLSX. Khi đó, PTSX mới ra
đời. Trong toàn bộ quá trình này, nếu QHSX phù hợp với trình độ của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy LLSX
phát triển, SX phát triển, XH phát triển; nếu không, nó sẽ kìm hãm toàn bộ sự phát triển ấy. Trình độ
của LLSX quyết định QHSX, thể hiện ở chỗ: trình độ của LLSX như thế nào thì QHSX phải như thế vậy,
tức là nó phải tương ứng với trình độ của LLSX; trình độ của LLSX thường xuyên phát triển; khi nó phát
triển đến một mức độ nhất định thì QHSX phải thay đổi theo cho phù hợp với trình độ mới của LLSX.
Đến lượt mình, QHSX tác động trở lại LLSX: nếu QHSX phù hợp với trình độ của LLSX nó sẽ thúc đẩy
LLSX phát triển, SX phát triển; nếu QHSX không phù hợp với trình độ của LLSX nó sẽ kìm hãm sự phát
triển của LLSX, kìm hãm SX.
Trên cơ sở toàn bộ những liên hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên cơ cấu kinh tế
xã hội, hay còn gọi là cơ sở hạ tầng, từ đó dựng nên kiến trúc thượng tầng.
CSHT là toàn bộ những QHSX tạo nên kết cấu kinh tế của xã hội. Toàn bộ những QHSX đó gồm:
quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống. Quan hệ sản xuất
thống trị là quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất đương thời, của xã hội đương thời, nó giữ vai trò
thống trị, thể hiện ở chỗ quan hệ sản xuất thống trị nào thì chế đô chính trị của xã hội sẽ thế ấy. Quan hệ
sản xuất tàn dư là quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất cũ còn tồn đọng lại. Quan hệ sản xuất mẫm
mống là quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất tương lai.
KTTT là hệ tư tưởng của XH và những thiết chế tương ứng với hệ tư tưởng đó. Hệ tư tưởng được
thể hiện qua các học thuyết (học thuyết về chính trị, pháp quyền, tôn giáo, khoa học…), hệ thống các
quan điểm,v.v. Thiết chế tương ứng với hệ tư tưởng là các tổ chức và các công cụ vật chất mà các tổ chức
ấy sử dụng để thực hiện hệ tư tưởng. Ví dụ: thiết chế tương ứng với chính trị và pháp quyền là nhà nước,
nhà nước thực chất là những tổ chức người đang sử dụng các phương tiện như vô tuyến truyền hình, công
sở, tòa án… để quản lý công dân của mình; thiết chế tương ứng với tôn giáo là các giáo hội, giáo hội sử
dụng các phương tiện như nhà nhờ, chùa chiền, kinh kệ… để truyền bá giáo lý tôn giáo mình; thiết chế
tương ứng với khoa học là các trung tâm, viện nghiên cứu…. sử dụng các phương tiện máy móc, máy
tính… phục vụ quá trình nghiên cứu của mình. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, vai trò của các yếu
tố trong KTTT được thể hiện khác nhau. Ví dụ: trong giai đoạn hiện nay, vai trò của nhà nước và khoa
học rất mạnh, và càng ngày vai trò của khoa học càng mạnh. Tuy nhiên, trong lịch sử thời Trung cổ ở Tây
Âu kéo dài khoảng 1500 năm, khoa học trở thành nô lệ của thần học, bàn tay của giáo hội có thể che lấp
mặt trời.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng có mối liên hệ biện
chứng cho nhau. Biện chứng giữa CSHT và KTTT thể hiện qua quy luật “Cơ sở hạ tầng phù hợp với kiến
trúc thượng tầng”: CSHT sinh ra KTTT tương ứng và quyết định tính chất của KTTT; song, KTTT có thể
tác động trở lại CSHT với tư cách là động lực thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển kinh tế, thúc đẩy hay
kìm hãm sự phát triển của xã hội. CSHT quyết định KTTT, thể hiện ở chỗ: mỗi CSHT sinh ra một KTTT
tương ứng và quyết định tính chất của KTTT; khi CSHT thay đổi KTTT cũng phải thay đổi theo. Đến lượt
mình, KTTT tác động trở lại CSHT, thể hiện ở chỗ: KTTT luôn củng cố, bảo vệ CSHT đã sinh ra nó;
KTTT thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế thông qua tác động của nó đến các QHSX cấu thành
CSHT.
Tóm lại, mỗi Hình thái KT-XH là một XH trọn vẹn, có cấu trúc phức tạp song 3 yếu tố cơ bản là
LLSX, QHSX và KTTT. LLSX là yếu tố thường xuyên phát triển, khi nó phát triển đến một mức độ nhất
định thì QHSX phải thay đổi theo. QHSX thay đổi làm CSHT thay đổi, CSHT thay đổi dẫn đến sự thay
12
đổi của KTTT. Đến đây, tất cả các yếu tố tạo nên một Hình thái KT-XH đã thay đổi, Hình thái KT-XH
này chuyển sang một Hình thái KT-XH khác cao hơn, XH này chuyển sang một XH khác phát triển hơn.
1.3. Ý nghĩa của lý luận này đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay
Học thuyết Hình thái KT-XH cho thấy:
Xã hội là một chỉnh thể có cấu trúc phức tạp, các lĩnh vực của xã hội có vị trí, vai trò khác nhau
song có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã
hội; phương thức sản xuất giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ đời sống xã hội.
Sự phát triển của các Hình thái KT-XH (cũng là sự phát triển của XH) là quá trình lịch sử – tự
nhiên; tức là sự phát triển này không tuân theo ý muốn chủ quan của con người mà tuân theo những quy
luật khách quan, trong đó, trước hết và quan trọng nhất là quy luật về lục lượng sản xuất – quan hệ sản
xuất, quy luật về cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã
hội chẳng những diễn ra theo con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những
điều kiện nhất định, một hoặc một số hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, Đảng ta khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội
trên tất cả các lĩnh vực là rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.”
Vận dụng học thuyết vào hoạt động nhận thức và thực tiễn
- Về nhận thức
Muốn rút ra những kết luận về đời sống xã hội không được xuất phát từ ý tưởng chủ quan của
mình mà phải xuất phát từ hiện thực khách quan, phải tìm nguồn gốc sâu xa của các hiện tượng xã hội từ
quá trình sản xuất vật chất, từ đời sống chất.
- Về thực tiễn
+ Để cải tạo xã hội phải tiến hành cải tạo đồng bộ cả LLSX, QHSX và KTTT.
+ Để xã hội phát triển, trước hết phải đầu tư vào sự phát triển của LLSX, trong đó quan trọng
nhất là đầu tư vào sự phát triển của người lao động, công cụ lao động; phải từng bước hoàn thiện các quan
hệ của QHSX và hoàn thiện các yếu tố cấu thành KTTT
Đối với nước ta hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cuộc cách mạng về lực lượng
sản xuất. chúng ta xác định sự thành công hay không của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam được thể hiện trước hết qua sự thành công hay không của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về quan hệ sản xuất, chúng ta đang tiến hành những hoạt động để hoàn thiện những quan hệ sản xuất,
bằng cách hoàn thiện các thành phần kinh tế, hoàn thiện các hoạt động của các thành phần kinh tế.
Đảng ta khẳng định: “ phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”.
Phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta, Đảng ra chủ trương sử dụng “nhiều hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế”. Đồng thời, “thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa”.
Về kiến trúc thượng tầng, chúng ta đang hoàn thiện kiến trúc thượng tầng. Về phương diện hệ tư
tưởng, chúng ta chọn hệ tư tưởng khoa học, cách mạng và nhân văn làm chủ thuyết. Đó là chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với thiết chế tương ứng, chúng ta đang xây dựng Đảng trong sạch
vững mạnh, để xứng đáng là Đảng cầm quyền và thực hiện được nhiệm vụ cầm quyền. Đồng thời, chúng
ta đang chuẩn hóa đội ngũ viên chức, công chức.
Như vậy, hiện nay chúng ta đang tập trung cải tạo đồng bộ cả LLSX, QHSX và KTTT.
5.
Quan điểm của triết học mác – xít về bản chất của con người và sự vận dụng nó đối với
việc phát huy vai trò nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay.
1.2. Quan điểm của triết học mác – xít về bản chất của con người
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như sinh học, tâm lý học, y
học, triết học. Tuy cùng nghiên cứu về con người nhưng giữa triết học và các ngành khoa học khác có sự
khác nhau. Trong khi các khoa học khác chỉ lấy một phần cơ thể, một quá trình, một hoạt động… nào đó
13
của con người làm đối tượng nghiên cứu thì triết học nghiên cứu con người với tư cách là chỉnh thể. Ngôn
ngữ học nghiên cứu tiếng nói và chữ viết, tâm lý học nghiên cứu hoạt động thần kinh cao cấp. Do lấy một
phần nào đó của con người làm đối tượng nghiên cứu nên kết luận của các khoa học khác là những kết
luận rất cụ thể, còn triết học nghiên cứu con người với tư cách là một chỉnh thể nên các kết luận của triết
học là chung nhất. Điểm khác nhau thứ hai, khi lấy một phần nào đó của con người để nghiên cứu thì các
khoa học khác trực tiếp nghiên cứu vào phần mình chọn làm đối tượng, còn triết học khi nghiên cứu con
người bao giờ cũng đi theo một mạch nhất định, hướng nhất định, bắt đầu từ việc trả lời cho câu hỏi “Con
người là gì?”, đến chỗ truy tìm bản chất của con người và cuối cùng định hướng giải phóng con người.
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tự của khoa học tự
nhiên, triết học Mác khẳng định con người là thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và các yếu tố xã
hội – là thực thể sinh vật – xã hội. Con người tồn tại trước hết với tư cách là thực thể sinh vật, vì con
người dù phát triển đến đâu cũng là một động vật. Con người có bản tính tự nhiên của con người, có bản
chất tự nhiên của con người. Bản chất tự nhiên của con người thể hiện rất đa dạng, một trong những bản
chất thể hiện rõ nét nhất bản chất tự nhiên của con người là những nhu cầu mang tính bản năng của con
người: đói muốn ăn, đau thì kêu, khát muốn uống nước, sợ chết…. Nhưng con người khác với động vật vì
con người là một thực thể xã hội. Là thực thể xã hội vì chính những hoạt động xã hội làm cho con người
trở thành con người theo đúng nghĩa, và quan trọng nhất là hoạt động lao động sản xuất. lao động đã làm
cho hai chi trước của giống động vật co lên trở thành hai tay, làm cho dáng đi cong của giống động vật trở
thành dáng đi thẳng, làm cho toàn bộ vòm miệng co lại, trong lao động và đồng thời với quá trình lao
động những thành viên thấy cần phải trao đổi với nhau thì những âm thanh thô sơ đầu tiên ra đời nhưng là
đầu mối của cả một hệ thống ngôn ngữ sau này. Là một thành viên của xã hội, con người không bao giờ
tách khỏi cộng đồng xã hội. Con người có mối liên hệ với xã hội thông qua vô vàn hình thức theo chiều
dọc của thời gian, chiều rộng của không gian. Là thực thể xã hội, con người có bản chất xã hội. Bản chất
xã hội của con người thể hiện phong phú, đa dạng, nhưng một trong những thể hiện rõ nét nhất là trong
khi thực hiện những nhu cầu có tính bản năng thì con người luôn chú ý để đáp ứng nhu cầu của cộng
đồng, của xã hội. Động vật đói thì ăn bất kì cái gì, bất cứ nới đâu và khi nào nhưng con người đói chưa
chắc đã ăn; trước cái chết con vật sợ và tìm mọi cách để thoát chết, con người cũng sợ nhưng có lúc con
người dám đón nhận cái chết, bởi con người ý thức được rằng cộng đồng, xã hội cần sự hy sinh của mình.
Thực thể sinh vật và thực thể xã hội ở chủ nghĩa không tách khỏi nhau, trong đó thực thể sinh vật là tiền
đề mà trên cái tiền đề đó thực thể xã hội tồn tại và phát triển.
Con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử với tư cách là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài
của tự nhiên mà con người còn là chủ thể của lịch sử.
Con người có lịch sử và động vật cũng có lịch sử. Song lịch sử của con người và lịch sử của động
vật khác hẳn nhau. Lịch sử của động vật “chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần
của chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong
chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và
không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ
này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu;…”.
Con người làm ra lịch sử, song không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều
kiện mình có quyền tự lựa chọn mà là trong những điều kiện có sẵn do quá khứ để lại. với những điều
kiện ấy, mỗi người, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong những hoàn cảnh
mới; một mặt tiếp tục các hoạt động mới của mình để biến đổi hoàn cảnh cũ. Xét mối quan hệ giữa các
thế hệ và hoàn cảnh sống của con người thì “bản than xã hội sản xuất ra con người như thế nào thì nó
cũng sản xuất ra xã hội như thế”.
Trong khi khẳng định: “con người là thực thể sinh vật – xã hội” và là chủ thể của lịch sử, Mác đồng
thời khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Mác cho rằng, “bản chất của con người không phải là cái gì đó trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Khi đề cập đến
tính hiện thực thì Mác cho rằng xem xét bản chất của con người là phải xem xét bản chất của con người
hiện thực, không có con người chung chung, trừu tượng. Con người hiện thực là những con người cụ thể,
sống trong những hoàn cảnh cụ thể, trong những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa… cụ thể, trong các
mối quan hệ cụ thể.
Khi đề cập đến bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, Mác cho rằng, tất cả các
quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất con người. Những quan hệ này không kết hợp với
nhau theo phép cộng mà chúng là tổng hòa, nghĩa là chúng có vị trí, vai trò khác nhau nhưng chúng
không tách rời nhau, mà tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau.
14
Có nhiều cách tiếp cần để tìm hiểu về tổng hòa những mối quan hệ xã hội, ở đây ta xét một số cách
tiếp cận cơ bản.
Nếu tiếp cận theo góc độ khái quát nhất thì tất cả các quan hệ xã hội này có thể chia thành hai loại:
quan hệ được và quan hệ tinh thần. Giữa hai loại quan hệ này thì suy cho đến cùng, các quan hệ vật chất
giữ vai trò quyết định.
Nếu xét theo thời gian thì đó là những quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại và quan hệ tương lai, trong
đó suy cho đến cùng thì những quan hệ hiện tại giữ vai trò quyết định. Các quan hệ quá khứ là cái đã qua,
nhưng nó không mất đi mà tồn đọng trong mỗi con người và thể hiện vai trò của nó trong quá trình hình
thành nên bản chất của con người. Các quan hệ tương lai chưa xảy ra nhưng mầm mống, tiền đề của nó
đang ở hiện tại và nó cũng góp phần hình thành bản chất con người.
Nếu xét theo các loại quan hệ xã hội, thì con người có bao nhiêu quan hệ xã hội (quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống, quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo đức… ) thì bấy
nhiêu quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất con người. Trong các quan hệ này suy cho
đến cùng thì quan hệ kinh tế giữ vai trò quyết định, trong quan hệ kinh tế thì quan hệ sở hữu tư liệu sản
xuất là quan trọng hơn cả; còn quan hệ huyết thống giữ vai trò rất quan trọng.
Khi các quan hệ xã hội, đặc biệt là các quan hệ vật chất, thay đổi thì sớm hay muộn bản chất của
con người cũng thay đổi.
Như vậy, bản chất của con người không phải được sinh ra mà được sinh thành, nó hình thành và
thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của các quan hệ xã hội, trong đó trước hết và quan trọng nhất là
các quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế.
Từ chỗ hiểu rõ bản chất của con người triết học Macxit đã đề ra định hướng giải phóng con người,
tức là tạo những điều kiện để con người phát huy tối ưu khả năng của mình. Triết học Mác – Lênin quan
niệm rằng con người ai cũng có năng lực, nhưng có người năng lực đó được biểu hiện ra ngoài, họ trở
thành nhân vật này, nhân vật kia, còn có người có năng lực nhưng năng lực ấy không được bộc lộ ra bên
ngoài. Nhận định về quá trình giải phóng con người Mác nói: giải phóng con người là quá trình làm cho
Raphael trong mỗi con người được tự do phát triển. Nhưng tại sao con người lại không thể bộc lộ hết khả
năng của mình? Theo triết học Mác – Lênin, cái quyết định năng lực của con người được bộc lộ hay
không chính là các quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội hoặc mở đường cho con người phát triển hoặc bịt
chặt không cho con người phát triển. Trong tất cả các quan hệ ấy thì suy cho đến cùng quan hệ giữ vai trò
quyết định là các quan hệ kinh tế. Trong các quan hệ kinh tế thì suy cho đến cùng quan hệ sở hữu tư liệu
sản xuất giữ vai trò quyết định. Từ những điều này, triết học Mác – Lênin định hướng: suy cho đến cùng
giải phòng con người là phải từng bước xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Vì chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất trực tiếp sản sinh ra hiện tượng người bóc lột người, dẫn đến hiện tượng con người bị tha
hóa, lao động bị tha hóa. Điều này có nghĩa là lực lượng thực hiện nó chính là những người bị tước đoạt tư liệu sản xuất
– những người vô sản. Sức mạnh giải phòng của họ không phải là sức mạnh của những cá nhân đơn độc mà như C.Mác chỉ
rõ, chỉ khi nào họ nhận thức được và tổ chức được “những lực lượng của bản thân” thành những lực lượng xã hội – cũng
chính là những lực lượng chính trị - thì giải phòng con người mới thực hiện được. Giải phóng xã hội khỏi sở hữu tư nhân, khỏi
sự nô dịch trở thành hình thức chính trị của sự giải phóng giai cấp vô sản, song ở đây không chỉ là sự giải phóng cho họ vì sự
giải phóng của họ bao hàm sự giải phóng toàn nhân loại”.
1.3. Vận dụng đối với việc phát huy vai trò nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay
Đối với nước ta hiện nay, chúng ta đang thực hiện chiến lược phát huy vai trò của nhân tố con
người. Phát huy vai trò nhân tố con người chỉ là một khâu của quá trình giải phóng con người. Để phát
huy vai trò của nhân tố con người, Đảng và nhà nước đã và đang tập trung đầu tư vào những lĩnh vực chủ
yếu nhất của xã hội như:
Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày
càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Đây là vận dụng trong những quy luật nền tảng xây dựng con người mới là: Xây dựng con người
phải thông qua cơ chế lao động. Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa không chỉ tạo công ăn việc làm cho mọi người mà còn thông qua cơ chế thị trường với những đòn
bẩy kinh tế để kích thích năng lực lao động làm việc cho mình và cho xã hội.
Trên lĩnh vực chính trị, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao tính tích cực chính trị của nhân dân, tạo điều kiện
để nhân dân tham gia nhiều hơn vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trên lĩnh vực xã hội, giải phóng con người khỏi sự thao túng của các quan hệ ch cũ đã lỗi thời, kế
thừa các truyền thống tốt đẹp, xây dựng hệ thống những chuẩn mực quan hệ mới.
15
Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo – khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo –khoa học, công nghệ
được coi là “quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, “là nền
tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Trên lĩnh vực văn hóa: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được coi vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động của văn hóa nhằm xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lức sáng
tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, quan hệ hài hào trong gia đình,
cộng đồng và xã hội”.
Có thể nói xây dựng con người đang được người Việt Nam thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Những lĩnh vực khác nhau có những trọng tâm khác nhau nhưng đều hỗ trợ nhau để hình
thành cuộc sống mới với những con người mới.
16