Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Du lịch Năm cửa Ô Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.4 KB, 47 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, du lịch đang trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời
sống tinh thần của nhiều người, đồng thời các dịch vụ du lịch được coi là
ngành công nghiệp không khói của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Du lịch
là một trong những ngành kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới hiện
nay, góp phần tạo công ăn việc làm, tăng nguồn thu nhập, xóa đói giảm
nghèo, cải thiện cơ sở hạ tầng kĩ thuật, nâng cao các di sản văn hóa, khuyến
khích phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu văn hóa và tăng cường sự hiểu biết
giữa các vùng, các quốc gia, thông qua đó góp phần bảo vệ và giữ gìn hòa
bình thế giới.
Ở Việt Nam, sự phát triển nhanh chóng của du lịch thời gian qua đã
góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nhiều địa
phương. Hoạt động du lịch đã có những đã có những tác động góp phần làm
tăng tính đa dạng sinh học, bảo tồn cảnh quan, thúc đẩy hoạt động bảo vệ di
tích lịch sử, di sản văn hóa, hoạt động ở các làng nghề truyền thống…Đồng
thời góp phần tăng trưởng kinh tế ( chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xuất khẩu tại
chỗ ), tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận cồng đồng dân cư
địa phương, góp phần cải thiện điều kiện về hạ tầng và dịch vụ xã hội cho địa
phương (y tế, thông tin, vui chơi giải trí…) kèm theo các hoạt động phát triển
du lịch.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành du lịch đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội, trong “ Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 ”, ban hành ngày 22/1, Thủ tướng ban hành
Quyết định số 201/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Đảng và Nhà nước đã xác
định: “ Mục tiêu tổng quát đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp với hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật
1



đồng bộ, hiện đại, sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương
hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong
khu vực và thế giới…”
Hà Nội là thủ đô, trung tâm phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa của cả
nước, là thành phố có tiềm năng du lịch to lớn. Kể từ khi địa giới hành chính
của Hà Nội được mở rộng, nhiều điểm di tích lịch sử văn hóa và danh thắng
nổi tiếng và lễ hội lớn nhất Việt Nam hiện nay, nguồn tài nguyên du lịch của
Hà Nội càng trở lên phong phú dồi dào.
Hiện tại Hà Nội có rất nhiều điểm du lịch đang được thành phố tập
trung đầu tư, khai thác phục vụ cho phát triển du lịch. Trong đó phải kể đến
năm cửa ô của Hà Nội xưa và nay. Là quần thể di tích danh thắng nổi tiếng
nhất Hà Nội hiện nay. Hàng năm, du lịch thu hút rất nhiều khách du lịch tới
tham quan đem lại nguồn doanh thu khá lớn, góp phần tạo việc làm cho dân
cư, thay đổi bộ mặt đời sống kinh tế - xã hội của địa phương. Trong tương lai,
năm cửa ô sẽ ngày càng được quan tâm đầu tư phát triển.
Nhận thấy việc nêu bật những giá trị năm cửa ô, chỉ ra thực trạng của
hoạt động du lịch tại đây để từ đó nêu ra những giải pháp, phát triển du lịch là
vô cùng quan trọng cho nên tôi đã quyết định chọn đề tài: “Du lịch Năm cửa
Ô - Hà Nội” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả sẽ làm nêu bật được những giá trị
của năm cửa ô, vị thế của nó trong phát triển du lịch Hà Nội. Đồng thời chỉ ra
những thực trạng của năm cửa ô hiện nay. Trên cơ sở đề xuất những giải pháp
để nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch tại năm cửa ô nhằm góp phần quảng
bá hình ảnh năm cửa ô – một trong những danh thắng đẹp, hấp dẫn bậc nhất
Thăng Long - Hà Nội.

2



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những giá trị văn hóa của năm cửa ô
trở thành điểm hấp dẫn du lịch – một trong những di tích đẹp, hấp dẫn, nổi
tiếng ở Hà Nội hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ không gian, cảnh quan tín
ngưỡng và hoạt động du lịch của năm cửa ô thuộc địa bàn Hà Nội trong
những năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như sau:
+ Phương pháp sưu tầm tư liệu:
Sưu tầm từ các nguồn sách, báo, mạng internet và các báo cáo của ban
quản lý di tích Hà Nội, sở VHTT Du lịch Hà Nội và các tài liệu tham khảo
khác.
+ Phương pháp khảo sát thực tế:
Để hoàn thành đề tài này, tác giả đã nhiều lần thực hiện khảo sát thực tế
năm cửa ô, cụ thể như: phỏng vấn khách du lịch tại ch năm cửa ô, đóng vai
trò là du khách để có những đánh giá nhận định khách quan về thực trạng hoạt
động du lịch năm cửa ô…
+ Phương pháp phân tích tư liệu và tổng hợp kết quả
Từ những tư liệu được cung cấp từ các nguồn trên, tác giả đã đưa ra
những phân tích và tổng hợp để có được những đánh giá chung nhất về thực
trạng hoạt động du lịch từ đó đưa ra những giải pháp phát triển du lịch năm
cửa ô.
+ Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu.
Từ các số liệu được cung cấp và qua những lần thực tế tại năm cửa ô tác
giả đã có sự thống kê, tổng hợp so sánh về thực trạng hoạt động du lịch năm
cửa ô qua các năm.
3



5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài
được chia thành 3 chương chính:
Chương 1: Khái quát về du lịch văn hóa và tiềm năng du lịch
văn hóa ở HÀ Nội
Chương 2: Thực trạng hoạt động du lịch năm cửa ô Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả phát triển du lịch Năm cửa ô

4


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VĂN HÓA VÀ
TIỀM NĂNG DU LỊCH VĂN HÓA Ở HÀ NỘI
1.1. Vai trò và vị trí của Du lịch văn hoá trong sự phát triển của Du lịch
1.1.1. Những nét khái quát về Du lịch văn hoá
Có lẽ hiếm có một quốc gia nào trên thế giới muốn phát triển ngành Du
lịch của mình mà lại không coi trọng du lịch văn hoá? Nhưng không phải bất
cứ quốc gia nào cũng có điều kiện phát triển du lịch văn hoá.
Du lịch văn hoá chỉ phát triển ở những nước có nền văn minh cổ đại nổi
tiếng, có nghệ thuật dân tộc đặc sắc, có những cảnh đẹp làm đắm say lòng
người. Nếu Ai Cập không có kim tự tháp đồ sộ, Hy Lạp không có những đề
tài nguy nga... thì mỗi năm không thể có hàng chục triệu khách đến du lịch ở
nước này.
Có thể hiểu Du lịch văn hoá là một loại du lịch mà mục đích chính là
nâng cao hiểu biết cho cá nhân đáp ứng sự ham hiểu biết. Qua các chuyến đi
đến những vùng đất mới, tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh tế,
chế độ xã hội, cuộc sống và phong tục tập quán của địa phương đất nước đến

du lịch hoặc là kết hợp với những mục đích khác nữa.
Du lịch văn hoá vừa là phương tiện, vừa là mục đích của kinh doanh du
lịch. Du lịch văn hoá nhằm chuyển hoá các giá trị văn hoá. Các giá trị vật chất
cũng như tinh thần cho hoạt động du lịch. Du lịch văn hoá là phương thức hấp
dẫn vì nó giải quyết những nhu cầu về cảm thụ cảnh quan của quốc gia và du
lịch văn hoá thường để dành cho những du khách có trình độ cao trong xã hội.
Du lịch văn hoá được xem là tổng thể của Du lịch - xem đó là một hiện
tượng văn hoá nhằm thu hút khách ở các điểm du lịch phải mang tính văn
hoá. Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà người ta có thể chia du lịch văn hoá
ra nhiều loại.

5


+ Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hoá: Khách đi tìm hiểu các nền văn hoá
là chủ yếu. Mục đích chuyến đi mang tính chất khảo cứu nghiên cứu. Đối
tượng khách chủ yếu là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên.
+ Du lịch tham quan văn hoá: Đây là loại hình du lịch phổ biến nhất du
khách thường kết hợp giữa tham quan. Với nghiên cứu tìm hiểu văn hoá trong
một chuyến đi. Đối tượng tham gia vào loại hình du lịch này rất phong phú,
bên cạnh những khách vừa kết hợp đi để tham quan vừa để nghiên cứu còn có
những khách chỉ để chiêm ngưỡng để biết, để thoả mãn sự tìm hoặc có thể
theo trào lưu... Do vậy trong một chuyến du lịch du khách thường đi đến
nhiều điểm du lịch, trong đó vừa có những điểm du lịch văn hoá, vừa có
những điểm du lịch núi, du lịch biển, du lịch dã ngoại, săn bắn... Đối tượng
khách là những người ưa phiêu lưu mạo hiểm, thích tìm cảm giác mới và chủ
yếu là những người trẻ tuổi.
+ Du lịch kết hợp giữa thăm quan văn hoá với các mục đích khác. Mục
đích chính của khách là trong chuyến đi nhằm thực hiện công tác hoặc nghề
nghiệp nào đó và có kết hợp với tham quan văn hoá. Đối tượng của loại hình

này là những người đi tham dự hội nghị, hội thảo, kỷ niệm những ngày lễ lớn,
các cuộc triển lãm. Loại khách này đòi hỏi trình độ phục vụ hiện đại, phong
phú có chất lượng cao, quy trình phục vụ đồng bộ, chính xác, họ có khả năng
thanh toán cao, nhưng nói chung thời gian dành cho du lịch của họ rất ít. Thể
loại du lịch cụ thể của loại hình du lịch này là du lịch công vụ.
Tuy nhiên, sự phân loại Du lịch văn hoá thành các loại hình trên chỉ là
tương đối. Vì trong một chương trình được kết hợp với nhiều hoạt động khác
nhau.
Du lịch văn hoá là loại hình du lịch tiềm năng và nó ít chịu sự chi phối
của yếu tố thời vụ du lịch (thời tiết, khí hậu) nhưng nó phụ thuộc vào đặc
điểm nhân khẩu học như: giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, tôn
giáo... của du khách.
6


1.1.2. Vị trí và vai trò của du lịch văn hoá với quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước
1.1.2.1. Vị trí của du lịch văn hoá
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội thời kỳ CNH - HĐH hiện nay,
vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là sợi chỉ đỏ trong đường lối văn hoá
của Đảng ta. Bởi vì nói đến văn hoá là nói đến dân tộc Nước Việt Nam ta đã
trải qua hàng nghìn năm sinh tử trong gian truân, vất vả, nhân dân các dân tộc
đã sáng tạo, nâng cao, bảo tồn, chắt chiu để có những công trình kiến trúc,
đền chùa, miếu mạo của các thiên tài kỳ vĩ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm... làm nên diện mạo nền
văn học, nền văn hoá Việt Nam. Từ ngọn bút tháp bên Hồ Gươm hay những
món ăn truyền thống đều là di sản văn hoá dân tộc, đó là những tài sản quốc
gia, cũng là một trong những tiềm năng của du lịch ngày nay. Do vậy mà
chúng ta cần phải giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc đúng như
trong diễn văn khai mạc Thập kỷ Quốc tế phát triển văn hoá 1900-2000 ông

Federico Mayor, Tổng thư ký Unesco đã nói "Cần phải giữ gìn cho được mọi
giá trị văn hoá dân tộc, một cộng đồng người, thậm chí một cá thể là những
điều không thể thay thế được".
Trên thế giới ngày nay đang phát triển nhiều loại hình du lịch như du
lịch hoài cổ, du lịch tìm cái mới, du lịch tìm hiểu phong tục nhưng du lịch
kiểu nào, ở đây, đến nước nghèo hay nước công nghiệp phát triển du lịch bao
giờ cũng gắn liền với văn hoá, với bản sắc của mỗi quốc gia luôn đầy ắp giá
trị. Vì văn hoá là yếu tố tiềm ẩn hoá thân trong hoạt động du lịch và hoạt động
du lịch trước hết là hoạt động nhằm đi tìm các giá trị văn hoá dân tộc và nhân
loại để thưởng thức, khám phá, hưởng thụ và sáng tạo. Ta có thể khẳng định
rằng du lịch không thể tự mình phát triển được nếu không dựa trên một nền
tảng văn hoá và ngược lại nhờ có du lịch mà các dân tộc hiểu biết được những
thành tựu rực rỡ của nền văn hoá nhân loại, tạo ra những điều kiện cần thiết
7


cho sự xích lại gần nhau giữa các nền văn hoá nhằm làm cho các dân tộc ngày
càng hiểu rõ nhau hơn. Nhưng du lịch không chỉ dừng lại ở sự thưởng ngoạn
cảnh đẹp thiên nhiên, ngắm nhìn các công trình văn hoá, tìm hiểu các di tích
lịch sử để cảm thụ mà du lịch còn là một hoạt động khám phá sáng tạo theo
quy luật của cái đẹp.
Du lịch và văn hoá là hai khái niệm khác nhau nhưng lại đồng nhất
trong mỗi khát vọng của mỗi con người. Lịch sử phát triển du lịch từ xưa đến
nay đã cho thấy nhờ du lịch mà con người đã khám phá ra nhiều điều mới mẻ
và đã chuyển hoá khá nhiều giá trị văn hoá thành sản phẩm du lịch hấp dẫn.
Như vậy du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được của con người trong quá
trình hiểu biết để hưởng thụ và sáng tạo. Sự đóng góp cho quá trình tăng
trưởng kinh tế cho sự phát triển nguồn thu từ du lịch có nguyên nhân từ nhu
cầu này - du lịch phát triển không tách rời nhu cầu hiểu biết, khám phá, sáng
tạo. Theo đặc trưng của văn hoá trên cơ sở biết đánh thức các giá trị văn hoá

của dân tộc, biết xem các di sản văn hoá, di tích lịch sử... Sự phát triển của du
lịch ở Hà Nội, cũng như Huế, Quảng Ninh, Quảng Nam - Đà Nẵng... là nhờ
vào tiềm năng vô giá đó.
1.2.2.2. Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá
Nói đến du lịch văn hoá không có nghĩa rằng du lịch là chỗ dựa duy
nhất của sự phát triển văn hoá. Không nhận thức rõ điều này, thì vô tình sự
phát triển chỉ có thể thành công xét về góc độ kinh tế, còn sẽ thất bại về việc
giữ gìn bản sắc dân tộc do sự tiếp xúc với du khách từ khắp năm châu đến
Việt Nam.
Phát triển du lịch văn hoá là một định hướng đúng trong quá trình CNH
- HĐH đất nước. Văn hoá chính là nền tảng, là động lực thúc đẩy sự phát triển
du lịch và du lịch văn hoá. Kinh nghiệm trên thế giới và nước ta cho thấy cần
phải thực hiện đồng thời và đồng bộ như: phải tạo ra một môi trường văn hoá
vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, làm sống lại các giá trị văn
8


hoá truyền thống, giữ vững sự ổn định chính trị và an ninh xã hội, xây dựng
đội ngũ cán bộ, nhân viên làm du lịch tốt... nhằm tạo ra sức hấp dẫn khách
thập phương.
Hoạt động du lịch càng hiện đại hoá thì càng phải làm giàu thêm bản
sắc và truyền thống dân tộc. Nhưng văn hoá phải thật sự là yếu tố nhân bản, là
những giá trị hữu hình và vô hình. Cái gọi là tài sản vô hình đó chính là sự
chuyển hoá các năng lực tinh thần của con người vào hoạt động kinh doanh,
đó chính là văn hoá.
Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá đối với kinh doanh du lịch là hết
sức quan trọng, nó góp phần thúc đẩy cho du lịch vươn lên, tạo đà cho du lịch
ngày một phát triển đem lại hiệu quả to lớn và ổn định cho nền kinh tế. Nó có
hiệu quả là càng tăng giá trị văn hoá - văn minh, bản sắc dân tộc thì hiệu quả
kinh doanh du lịch càng cao. Nhận biết được các vấn đề đó các nhà kinh

doanh du lịch, các nhà quản lý kinh tế phải không những kiểm tra ngăn chặn
những mặt phi văn hoá bằng hệ thống pháp luật mà vấn đề lâu dài và quan
trọng hơn là xây dựng tạo ra để hấp dẫn từ bản sắc, "thuần - phong - mỹ - tục"
dân tộc, bảo tồn nâng cấp các di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc.
1.2. Tiềm năng phát triển du lịch văn hoá ở Hà Nội
1.2.1. Tài nguyên du lịch văn hoá
Việt Nam là đất nước có truyền thống văn hiến. Cuộc đấu tranh trường
kỳ của dân tộc trong lịch sử giữ nước là truyền thống điểm tựa vững chắc cho
du lịch văn hoá. Đất nước với những chiến công hiển hách từ chống giặc
phương Bắc (Đường, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh...). Những kỳ tích
hào hùng qua cuộc kháng chiến chống Pháp (80 năm), Mỹ (21 năm) Việt
Nam đã trở thành "lương tâm thời đại".
Do những chiến công mà mỗi mảnh đất, mỗi con sông, ngọn núi đều
trở thành huyền thoại.

9


Hà Nội ngàn xưa, chiếc nôi hồng lịch sử, trái tim thiêng liêng của đất
nước, mảnh đất "Thăng Long".
Hà Nội là một trong những thành phố đẹp của châu á. Trên thế giới có
nhiều thành phố đẹp, mỗi thành phố có một vẻ đẹp riêng và mang theo mình
những dấu ấn lịch sử khác nhau. Nhưng không phải thành phố nào cũng đẹp,
cũng sang, cũng đồ sộ nguy nga và thu hút lòng người.
Cái đẹp của thành phố khác với cái đẹp của con người hay của thiên
nhiên. Thành phố đẹp cơ bản là do con người tạo ra. Tuy nhiên cùng có
những chỗ giống nhau ở điểm xuất phát do "trời phú" cho nữa, nói theo nghĩa
bóng. Hà Nội cũng đã có một vị trí thuận lợi cảnh sắc thiên nhiên phong phú.
* Hà Nội - đặc điểm về vị trí địa lý, địa thế
Hà Nội nằm ở trung tâm bắc bộ giữa vùng đồng bằng phù sa châu thổ

sông Hồng, nổi tiếng là trù phú với diện tích 920,5 km2. Trong đó nội thành
có diện tích 40 km2, ngoại thành có diện tích 880,5 km2.
Với vị trí địa lý và địa thế tự nhiên của mình, Hà Nội đã sớm có một
vai trò đặc biệt trong sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Từ
một nghìn năm nay Hà Nội đã được ông cha ta chọn làm thủ đô. Trong "chiếu
dời đô" của Lý Công Uẩn viết vào năm Canh Tuất (1010) đã nhận xét về
thành Đại La (Hà Nội ngày nay) như sau: "... Thành Đại La nằm ở trung tâm
của trời đất có các hình thể như hổ phục rồng chầu đúng các vị trí bốn phương
Đông, Tây, Nam, Bắc, trước mặt và sau lưng đều có sự thuận tiện của sông
núi. Đất ấy rộng mà bằng phẳng, cao ráo mà sáng sủa, dân cư không phải cái
nạn tối tăm, ẩm thấp, muôn vật cực kỳ giàu thịnh, đông vui. Xem khắp đất
Việt, đó là chỗ danh thắng, thật là đô hội trọng yếu để bốn phương sum họp
và là đô thành bậc nhất đáng đặt làm kinh sư cho muôn đời...".
Từ đó đến nay Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá xã
hội của cả nước. Đây cũng chính là tiềm năng cho Hà Nội trở thành trung tâm
du lịch hàng đầu của nước ta.
10


* Hà Nội - vị trí đầu mối giao thông quan trọng
Với vị trí trung tâm kinh tế chính trị của cả nước và với vị trí thuận lợi
trung tâm châu thổ Bắc Bộ, Hà Nội đã trở thành trung tâm đầu mối các hệ
thống mạng lưới giao thông: đường bộ, đường sắt, đường không từ Hà Nội
toả đi các miền của đất nước, còn nối tiếp nước ta với các nước láng giềng và
thế giới.
Do đầu mối giao thông quan trọng như vậy, khách du lịch quốc tế có
thể từ tuyến đường không, qua cửa khẩu Nội Bài và dừng chân ở Hà Nội để
lựa chọn các phương tiện giao thông phù hợp với các chương trình hấp dẫn
của chuyến đi.
Trong vòng bán kính xấp xỉ 60-80 km, khách du lịch có thể đến đền

Hùng, Tam Đảo (Vĩnh Phú), Hồ Đại Nải, Ba Vì, các làng quan họ ở Hà Bắc,
Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương), Hoa Lư - Cúc Phương - Nhà thờ đá Ninh
Bình...
- Trong vòng bán kính xấp xỉ 100 km khách có thể đến thăm cảng Hải
Phòng, hải đảo Cát Bà, vịnh Hạ Long nổi tiếng...
Tính đến năm 2000 thủ đô Hà Nội đã có 201 di tích. Mật độ di tích của
Hà Nội thuộc loại cao nhất cả nước (0,24 di tích trên 1 km2). Nhiều quận,
huyện có từ 25 - 50 di tích lịch sử, văn hoá, các danh thắng đã được xếp hạng.
Các di tích lịch sử, văn hoá, danh thắng tiêu biểu ở thủ đô Hà Nội:
- Chùa Một Cột: Một trong những công trình tiêu biểu cho vẻ đặc sắc
của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam. Được dựng năm 1049 chùa có tên là Diên
Hựu, nghĩa là phúc ấm dài lâu. Tương truyền vua Lý Thái Tông nằm mộng
được Phật bà dắt lên trà san ngự toạ quần thần cho là điềm gở, xin vua cho
xây dựng ngôi chùa như bông hoa sen nở trên mặt nước để cho cầu phúc.
Sự độc đáo của kiến trúc chùa một cột là toàn bộ ngôi chùa được đặt
trên một cột đá cao 20 m. ở đây, có sự kết hợp táo bạo của trí tưởng tượng

11


lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng bông sen và những giải pháp hoàn hảo về
kết cấu kiến trúc gỗ.
Khối kiến trúc được phụ trở bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên
sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh tịch.
- Chùa Kim Liên: Chùa Kim Liên (bông sen Vàng) nằm trên một doi
đất bằng phẳng trong lòng Nghi Tàm, xã Quảng An, huyện Từ Liêm - Hà Nội.
Bao quanh đất chùa là gương nước Hồ Tây trong xanh. Có lẽ, do bắt nguồn từ
một cung điện nên phong cách kiến trúc tam quan chùa Kim Liên đượm dáng
vẻ cung đình. Đây là một loại hình kiến trúc gỗ đặc sắc và quý hiếm trong
kiến trúc chùa chiền ở nước ta. Trong chùa có rất nhiều tượng đẹp, nổi tiếng

nhất là pho Quan Âm Thiên phủ ngang hàng với những pho có giá trị nghệ
thuật cao ở nước ta... Chùa Kim Liên được coi là ngôi chùa đẹp nhất Hà Nội.
- Chùa Trấn Quốc: Có thể coi đây là ngôi chùa vào loại cổ nhất nước ta,
vì tương truyền là có từ thời Lý Nam Đế (544-548). Chùa còn giữ được lối
kiến trúc độc đáo khác với nhiều chùa, phía trước là nhà Bắc Đường, rồi đến
nhà Tam Bảo, phía sau mới là hai dãy hành lang thập điện và gác chuông.
Trong chùa có một số tượng đẹp, đáng chú ý là pho tượng Thích Ca nhập niết
bàn bằng gỗ thếp vàng. Chùa cũng có nhiều bia, cổ nhất là tấm bia dựng năm
1639 do trạng nguyên Nguyễn Xuân Chinh soạn, nội dung ghi lại lịch sử xây
dựng chùa.
- Văn Miếu - Quốc Tử Giám: Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070
để làm nơi biểu dương cho Nho giáo. Sáu năm sau (1076) xây nhà Quốc Tử
giám ở kề sát Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các hoàng tử sau mở rộng thu
nhận cả những học trò giỏi trong cả nước. Ngày nay, ở đây được dùng làm
nơi trưng bày chuyên đề về cổ sử của Thủ Đô.
Du khách tới đây không chỉ tiếp xúc với một di tích văn hoá giáo dục
có đủ 900 tuổi mà còn được giới thiệu thêm về lịch sử hình thành của Thăng
Long - Đông Đô - Hà Nội.
12


- Di tích thành cổ Hà Nội: Thăng Long là kinh đô từ năm 1010, vua Lý
Thái Tổ đã xây thành trải qua các đời Trần, Hồ, Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng,
Tây Sơn đều sử dụng thành này. Năm 1803, vua Gia Long nhà Nguyễn cho
lệnh phá thành này, xây thành mới. Do đó, vị trí thành Thăng Long từ đời Lý
(thế kỷ 11) đến đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 19) đến nay chưa thể nói chính xác ở
nơi nào.
Còn thành nhà Nguyễn thì tuy nay không còn nhưng các bản đồ cổ vẫn
còn và có thể nhận ra địa giới. "Địa giới phía Bắc là đường Phan Đình Phùng,
phía Đông là đường Phùng Hưng, phía Tây là đường Hùng Vương bây giờ".

Thành cổ đã bị thực dân Pháp phá huỷ từ năm 1894 đến năm 1897.
Ngày nay chỉ còn lại một di tích đáng kể là thềm điện Kính Thiên.
- Cột cờ Hà Nội: Đây là một trong những công trình kiến trúc ít ỏi
thuộc khu vực thành cổ Hà Nội may mắn thoát khỏi sự phá huỷ do thực dân
Pháp tiến hành trong ba năm 1894-1897.
Đỉnh cột cờ được cấu tạo thành một cái lầu bát giác cao 3m có 8 cửa sổ
tương ứng với 8 cạnh. Giữa lầu là một trụ tròn đường kính 40 cm cao đến
đỉnh lầu là chỗ để cắm cán cờ cao 8m. Như vậy toàn bộ cột cờ bao gồm 3
tầng, đế cao gần 20cm và thân cao khoảng 40cm, là một cao điểm đáng kể ở
nội thành thủ đô Hà Nội.
- Hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn: Đây là một danh thắng nổi tiếng
của Hà Nội. Hồ Gươm ở giữa Hà Nội, nơi đã từng gắn với bao sự kiện lịch sử
trọng đại của dân tộc từ ngàn xưa để lại. Hồ Gươm là niềm tự hào không
những của người Hà Nội mà của cả đồng bào ta. Nói đến Việt Nam thì phải
nói đến Hà Nội mà nói đến Hà Nội hẳn không ai không nhắc đến Hồ Gươm.
Ngày nay cùng với sự đi lên của đất nước, Hồ Gươm dù được nhà nước chú ý
đến nhiều. Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc đã được sửa sang tu bổ,
song không bao giờ Hồ Gươm mất đi nét cổ kính, tâm linh trong lòng người
Hà Nội.
13


Những ngày ở Hà Nội, du khách có thể tới thăm các viện bảo tàng để
tìm hiểu chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Gần trung tâm Hà Nội là Viện Bảo tàng lịch sử. Đi ngược dòng thời
gian, bảo tàng trưng bày những hiện vật quý như cây cọc Bạch Đằng, trống
đồng Ngọc Lũ... tiêu biểu cho quá trình tiến hoá của dân tộc Việt Nam qua
lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước. Bên cạnh Viện Bảo tàng Lịch sử là
viện Bảo tàng Cách mạng, tại đây trưng bày nhiều hiện vật quý, tái hiện lịch
sử đấu tranh hàng trăm năm của nhân dân ta chống kẻ thù xâm lược.

Đặc biệt là Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, được xây dựng xong vào năm
1990. Nơi đây đã trưng bày nhiều hiện vật gắn liền với thân thế và sự nghiệp
hoạt động của Bác Hồ. Hà Nội còn các khu vui chơi, giải trí như công viên,
vườn hoa, vườn bách thú... đều là những nơi hấp dẫn khách du lịch.
Kiến trúc của Hà Nội cũng đặc sắc và rất đa dạng. ở Việt Nam, ngoài
Hội An ra chỉ có Hà Nội là còn giữ được một khu phố cổ.
Nói về độ giới không gian. Khu phố cổ thì có thể coi đó là một hình
tam giác, có đỉnh là phố hàng Than, cạnh phía Đông là đi sông Hồng, cạnh
phía Tây là các phố Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng
Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ. Tại khu phố này, cho tới trước khi người Pháp tới
đều chung một dáng dấp: Các phố chi chít ngang dọc kiểu bàn cờ, phần lớn
mang tên gọi của các mặt hàng sản xuất hay kinh doanh tại nơi đó: Hàng
Đường, Hàng Bạc, Hàng Bồ... Tất cả các ngôi nhà ở hai bên đường đều theo
kiểu "nhà ống". Nhà như một cái ống, bề ngang hẹp, chiều dài sâu, có khi
thông ra một ngõ khác, phố khác. Bố cục thường là như sau: Gian ngoài là
chỗ bán hàng hoặc làm hàng tiếp đó là một khoảng sân lộ thiên để lấy ánh
sáng. Trên sân có bể cạn (trong đó có hòn Nam Bộ, cá vàng để thu gọn thiên
nhiên vào căn nhà). Gian trong mới là nơi ăn ở, và tiếp đó là khu phụ. Đa số
là nhà một tầng, lợp bằng những viên ngói nhỏ nhắn với hai bức tường hồi
vượt cao lên khỏi mái, xây giật cấp như những bậc thang và đầu nóc là hai trụ
14


đất dấu vết đặc trưng. Cũng có một số nhà xây thêm tầng gác nhưng thấp và
không mấy khi trổ cửa sổ nếu có thì rất nhỏ (vì luật lệ cấm dân không được
đứng cao hơn vai kiệu của các vua quan đi trên đường).
Cái hấp dẫn của khu phố ở Hà Nội chính là ở sự tổng thể do con người
xưa đã sắp đặt thành một cơ thể đầy sống động, khăng khít gắn bó, kề tựa
nhau mà tồn tại, sinh sôi...
Bên cạnh các nhà ống, còn phải kể tới những đình chùa, đền miếu rải

rác trong nhiều đường phố. Những công trình này trước hết là nơi thờ tự của
các làng thôn, phường cũ, như đình Nhân Nội, 33 phố Bát Đàn là đình của
làng cùng tên mà nay phố Bát Đàn là một bộ phận, Đình Đông Mông, số 8
Hàng Cân là đình làng Hữu Đông Môn, đền Thuật Mỹ 64 Hàng Quạt, chùa
Huyền Thuyên ở số 4 Hàng Khoai, đền Yên Thuận ở 25 Hàng Than đều lấy
tên làng làm tên đền chùa. Một số công trình tôn giáo tín ngưỡng còn phản
ảnh một số gốc gác của một số bộ phận dân cư Thăng Long vốn là từ nhiều
miền quê Đông Nam, Đoài, Bắc.
Họ ở các tỉnh khác di cư về Thăng Long - Hà Nội làm ăn sinh sống rồi
lập đình đền thờ vọng về quê hương như đình Trúc Lâm 40 Hàng Hành là của
dân các làng Chàm trên Chàm dưới (Hải Hưng) làm nghề giầy da lập nên, hay
như đình Hoa Lộc ở 90 Hàng Đào là của dân phường nhuộm màu ở Đao Loan
(Hải Hưng) dựng ra Đình Tú Đình 2A ngõ Yên Thái là nơi thờ ông tổ nghề
thêu, của dân làng thêu Quất Động (Hà Tây).
Mặt khác, sự tồn tại các đình miếu này còn là bằng chứng của tâm linh
người Hà Nội cũ. Bên cạnh sự hoà đồng với tự nhiên và cộng đồng xã hội,
người Thăng Long Hà Nội còn luôn luôn tìm cách hoà đồng với một thế giới
tâm linh vì cùng với một không gian đô thị vật chất còn tồn tại một không
gian đô thị huyền thoại và thiêng liêng, ở đó có thể giao hoà cùng quá khứ và
tìm được cũng ở đó một nguồn sinh lực tiềm ẩn.

15


Ngày nay, mặc dù qua các biến động lịch sử, qua sự thích ứng với đời
sống xã hội, khu phố cổ có biến động nơi ít, nơi nhiều, song bóng dáng của
thời xưa vẫn còn lưu lại ở dăm căn nhà này, ở vài đoạn phố kia và đặc biệt ở
cái không gian văn hoá vẫn đậm đà màu sắc cổ truyền. Cho nên khu phố cổ
Hà Nội với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn, thanh tú, những con đường hẹp
lòng nhưng ấm áp người đi lại, lại còn cả những không gian cây xanh mướt và

ngọt ngào hương hoa nữa... tất cả làm nên một vẻ đẹp đô thị cổ mà chỉ có
thành phố Hà Nội mới có.
Bên cạnh khu phố cổ là những khu phố kiến trúc theo kiểu Pháp. Khi
Hà Nội rơi vào tay thực dân Pháp năm 1882, người Pháp đã "cấy" vào mảnh
đất này nền kiến trúc và mẫu đô thị của riêng họ. Những hình ảnh thanh nhã
của kiến trúc đô thị Pháp đã góp phần làm giàu di sản kiến trúc Hà Nội và là
điều gây ấn tượng rất nhiều với khách nước ngoài. Giáo sư Brahm Wiesman ở
Trường đại học Tổng hợp Bristich (Canada) đã nói: "Các bạn đang có một Hà
Nội mang dáng dấp Pháp, đó là điều không có ở một thành phố nào khác ở
châu á. Một trong những vấn đề đặt ra cho chính sách phát triển đô thị như Hà
Nội là làm sao có thể duy trì và bảo tồn được các dáng dấp Pháp của nó" (Báo
nhân dân chủ nhật số Xuân 94).
"Khu phố Tây" là tên quen dùng để chỉ bộ phận khu phố ở phía Nam
quận Hoàn Kiếm (từ Hồ Gươm trở xuống phía Nam) và một bộ phận quận Ba
Đình (từ Cửa Nam về phía tây thành phố tới công viên Bách Thảo), và cũng
có một hàm ý phân biệt với "khu phố tả" là các khu phố thuần nhất Việt Nam
mà tiêu biểu là khu phố cổ "36 phố phường". Các khu phố xây dựng vào thời
thuộc Pháp ở Hà Nội được hình thành chủ yếu trong nửa đầu thế kỷ 20, đã
góp phần làm phong phú thêm khung cảnh kiến trúc của thủ đô ta. Với mạng
lưới đường phố kiểu ô cờ, các đại lộ khang trang có đường cho xe, có hè đi
bộ, cây che bóng mát, đèn điện và một số thiết bị kỹ thuật khác (cấp thoát
nước...). Cách xây dựng đô thị theo kiểu châu Âu, với đường phố hoàn chỉnh,
16


nhà cửa ngang hàng thẳng lối... là điều mới mẻ đối với đô thị Việt Nam khi đó
vốn được hình thành từ thời phong kiến, xây dựng tự phát, phố xá nhỏ hẹp,
quanh co.
Kiến trúc cổ điển châu Âu với một số cách tân thích hợp, khéo vận
dụng vào những công trình mới ở những địa điểm phù hợp đã có sức hấp dẫn

đáng kể như trường hợp trung tâm du lịch Bờ Hồ. Trong việc cải tạo và nâng
cấp khách sạn Metropole (1901), các kiến trúc sư đã có ý thức chắt lọc và lưu
giữ nhiều nét kiến trúc tiêu biểu của thời kỳ này là một thí dụ tốt cho việc cải
tạo và nâng cấp các công trình trong khu phố xây dựng thời thuộc Pháp. Cũng
theo tinh thần đó, việc sửa chữa một số công thự và biệt thự cho các nhu cầu
làm việc hoặc nhà ở của nhiều sứ quán, trụ sở của một số ngân hàng ở Bờ Hồ
và trên phố Tràng Thi... đã gây ấn tượng tốt đẹp cho những người yêu mến vẻ
đẹp kiến trúc thanh nhã của khu phố này.
Song, có lẽ Hà Nội là thủ đô duy nhất trên thế giới có được một điều kỳ
diệu, đó là các làng Ngọc Hà, Nghi Tàm, Phương Liên, Thanh Nhàn, Trung
Tự... với dáng dấp của các làng nông thôn vẫn còn đang giữ được nhịp thể
giữa lòng thành phố. Nhà - vườn cây - ao cá trong cấu trúc làng Việt Nam đã
luôn là một đơn vị cân bằng sinh thái cho môi trường sống của con người.
Những đơn vị này liên hệ với nhau thông qua một hệ thống đường nhỏ trên đó
điểm xuyết các công trình công cộng phục vụ cho làng cây đa, miếu thờ, đình
chùa yên tĩnh và sạch sẽ đối lập với cái ồn ào xô bồ của nơi đô thị. Nói theo
cách nói á Đông thì cấu trúc Hà Nội có cả Âm - Dương. Đó là làng và đô thị.
Thêm vào đó, nhiều làng quên Hà Nội vẫn còn giữ được nghề truyền
thống từ xưa như: làng sứ gốm Bát Tràng, làng đúc đồng Ngũ Xá, làng hoa
Ngọc Hà... nếu những làng nghề này tiếp tục được giữ gìn và phát huy thì có
khả năng trở thành tuyến du lịch văn hoá Hà Nội cho du khách. Đây cũng là
tiềm năng độc đáo cần được nghiên cứu khai thác để thu hút khách du lịch.
* Các đối tượng văn hoá dân tộc
17


Các hoạt động văn hoá văn nghệ có ý nghĩa rất lớn đối với du lịch:
Tiềm năng văn hoá văn nghệ của Hà Nội phục vụ cho mục đích du lịch thực
hiện rõ nhất qua hoạt động và sinh hoạt văn hoá dân gian. Địa bàn Hà Nội chủ
yếu là người Kinh sinh sống. Người Kinh có các sinh hoạt văn hoá văn nghệ

dân gian phong phú thể hiện rõ nhất qua các hoạt động lễ hội. Trong những
ngày hội này, du khách sẽ được tiếp xúc với nền văn hoá dân tộc độc đáo của
Việt Nam, sẽ được sống lại những ngày tháng hào hùng của lịch sử dân tộc.
Một nét đặc biệt nữa là đa số các ngày lễ hội của người Kinh đều diễn ra vào
dịp đầu năm mới cho đến hết tháng Giêng. Các lễ hội được biểu hiện thành
lịch dưới đây. Dựa vào đó những người làm công tác du lịch có thể quảng
cáo.
Bên cạnh đó Hà Nội còn có những ưu thế về âm nhạc, các loại nhạc cụ
dân tộc rất phát triển làm phong phú thêm các thể loại sân khấu ở các rạp hát
Hà Nội, du khách sẽ được thưởng thức nghệ thuật chèo. Đây là một loại hình
nghệ thuật có từ lâu đời, và chỉ có riêng ở Việt Nam không chỉ người dân Việt
Nam mà có rất nhiều khách quốc tế đều yêu thích nghệ thuật chèo. Ngoài ra
với việc duy trì và phát triển hát chầu văn đã gây hứng thú cho rất nhiều
người trong và ngoài nước. Đặc biệt trong các thể loại nghệ thuật thì múa rối
nước là một thành công lớn mang tính cách dân tộc rõ nét. Với các kịch bản
gắn liền với quá trình lịch sử dân tộc, cuộc sống, sản xuất đời thường làm cho
du khách hiểu thêm về đất nước và con người Việt Nam.
Hà Nội là thủ đô lâu đời, đất "ngàn năm văn vật" trung tâm văn hoá xã
hội của Việt Nam, sự hội tụ văn hoá qua cuộc sống, lại được chắt lọc phát huy
và nâng cao tạo ra một phong cảnh văn hoá riêng của người "Tràng An". Một
nếp sống văn hoá thanh lịch rất hấp dẫn khách quốc tế và luôn là niềm tự hào
của người Hà Nội.
"Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An"
18


Người Hà Nội đã tạo ra một mối sinh hoạt văn hoá thân thiện, cởi mở,
lịch sử, giỏi làm, sành ăn, sành mặc...
Các quán ăn ở Hà Nội luôn sẵn sàng phục vụ khách du lịch với đủ các

món ăn đặc sản Tây, Tàu, Việt với phong vị rất Hà Nội, kể cả những món ăn
cổ truyền, gạo Tám, rau húng Láng, cá rô Đầm Sét, cá chép Hồ Tây, chim
sâm cầm, chả cá Lã Vọng...
Việc nấu ăn của người Hà Nội đã trở thành nghệ thuật tiêu biểu cho cả
nước. Văn hoá ẩm thực với những món ăn nổi tiếng đã đi vào lòng người như
phở, không ở đâu có được.
Năm cửa ô Hà Nội đã và đang tiếp tục mở rộng. Những con đường lớn
mở ra nhiều ngả..., sân bay quốc tế Nội Bài (Hà Nội) đang sẵn sàng đón tiếp
bạn bè năm châu, bốn biển, hạ cố thăm một vùng đất đầy huyền thoại.
1.2.2. Nguồn lao động
Một điều khẳng định rằng: Chính lực lượng cán bộ và nhân viên là yếu
tố quyết định đối với mọi sự thành công hay thất bại của các hoạt động kinh
doanh nói chung và du lịch nói riêng. Đây là yếu tố đảm bảo sự phát triển
nhanh và bền vững cho ngành du lịch.
Tổng số lao động trực tiếp kinh doanh du lịch của Hà Nội đến tháng 9
năm 2000 là 24000 người trong đó số người đã qua đào tạo là >3000 người, tỷ
lệ được đào tạo 14% bình quân 1 lao động tạo ra được mức doanh thu
năm...... là..... triệu đồng số lao động bình quân một phòng khách sạn là 1,65
và 1 phòng nhà khách là 1,32.
Số lượng lao động trong các đại lý và công ty du lịch chưa có con số
thống kê đầy đủ song về trình độ lao động hầu như không có nghiệp vụ
chuyên môn về du lịch, chủ yếu tốt nghiệp từ các trường đại học, các chuyên
ngành khác ngoài du lịch. Vì vậy đã gặp một số hạn chế như sau:
- Thông tin quảng cáo thu hút khách chưa tốt.

19


- Chưa liên kết tận dụng hết cơ sở vật chất kỹ thuật trên địa bàn thủ đô
dẫn tới tình trạng nơi thừa, nơi thiếu.

- Chưa tổ chức được các chuyến du lịch hấp dẫn.
Đối với đội ngũ cán bộ quản lý của các khách sạn, nhà khách thì hầu
hết giám đốc đã có trình độ Đại học, có nghiệp vụ quản lý kinh tế. Một số đã
được đào tạo qua lớp giám đốc khách sạn. Tuy nhiên số cán bộ quản lý được
đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về du lịch chưa nhiều mà phần lớn là trái
ngành.
Do đó, để đáp ứng yếu tố đổi mới trong kinh doanh cần phải nhanh
chóng đào tạo lại và đổi mới đội ngũ cán bộ nhân viên ngành du lịch. Có thể
nói Hà Nội đang thiếu một đội ngũ cán bộ quản lý có kiến thức kinh tế đối
ngoại, biết làm ăn có hiệu quả thiếu một đội ngũ chuyên gia đầu đàn giỏi kỹ
thuật, nghiệp vụ về du lịch và khách sạn, thạo ngoại ngữ.

20


Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH NĂM CỬA Ô
2.1. Giới thiệu khái quát về năm cửa ô Hà Nội
Hà Nội vui sao
Những cửa đầu ô
Tíu tít gánh gồng
Đây ô chợ Dừa, kia ô Cầu Dền
Làn áo xanh nâu Hà Nội tươi thắm...
Các cửa ô Hà Nội đã được nêu trong nhiều tác phẩm văn thơ, âm nhạc.
Lời ca bất hủ trên đây trong bài ca Người Hà Nội của nhạc sĩ Nguyễn Đình
Thi đã làm xao xuyến hàng triệu con tim khi nhắc tới tên các cửa ô của Hà
Nội
Cửa ô chính là lối ra vào thành, có vọng gác, chốt chặn để kiểm soát,
thu thuế, bảo vệ cuộc sống trong thành. Vốn là các cửa qua thân toà thành đất
bao bọc kinh đô Thăng Long xưa, mang những cái tên quen thuộc như: Ô Yên

Phụ, Ô Quan Chưởng, Ô Đông Mác, Ô Cầu Dền, Ô Cầu Giấy, Ô Chợ Dừa, Ô
Thạch Khối, Ô Quán Thánh...
Phần lớn các cửa ô đều thông ra sông Hồng và sông Tô Lịch: ở phía tây
có 2 cửa, phía nam có 3 cửa, ra sông Hồng có 11 cửa. Lý do là thời đó đường
giao thông nối Thăng Long với các vùng khác chủ yếu là đường sông, dọc
sông Hồng có nhiều bến, phố xá đông đúc, nhiều hiệu buôn lớn của người
Việt và người nước ngoài tập trung buôn bán.
2.1.1. Cửa ô Thăng Long - Hà Nội xưa…
Thời Nguyễn theo một số sách cũ để lại có đến 16 cửa ô được xây dựng
vào đời Lê Hiển Tông (1740 - 1786), vào khoảng năm 1749, phần lớn đều
được xây bằng gạch rất chắc chắn và không đóng một nơi nhất định mà mỗi
thời đều có khác nhau, tuỳ tình hình đắp luỹ bố phòng. Các cửa ô có tên gọi

21


là: Yên Hoa, Yên Tĩnh, Thạch Khối, Phúc Lâm, Đông Hà, Trừng Thanh, Mỹ
Lộc, Đông Yên, Tây Luông, Nhân Hoà, Thịnh Lãng, Yên Ninh, Kim Hoa,
Thịnh Quang, Thanh Bảo, ... Các cửa ô không đóng một nơi nhất định mà mỗi
thời đều có khác nhau, tuỳ tình hình đắp luỹ bố phòng
Theo nhà sử học Biệt Lam Trần Huy Bá trích bản đồ Hà Nội nǎm Minh
Mạng 12 (1831) thì Hà Nội có 16 cửa ô, đặt tên theo làng theo tổng. Mỗi cửa
ô thời ấy có lẽ là một chiếc cổng ngày mở đêm đóng bởi mỗi phường như một
làng, khép kín, có cây có rào, có tuần đinh canh phòng để ngǎn ngừa đạo
chích và dè chừng hoả hoạn.
Sách Bắc thành dư địa chí soạn hồi đầu thế kỷ XIX cho biết Hà Nội có
21 cửa ô. Đến năm 1831, khi hai ông Lê Đức Lộc và Nguyễn Công Tiến dựng
bản đồ Toà thành Hà Nội, đã ghi lại vị trí và tên 16 cửa ô: ô Yên Hoa nay là
ngã ba đê Yên Phụ - đường Thanh Niên, ô Yên Tĩnh nay là ngã ba đê Yên
Phụ - Cửa Bắc, ô Thạch Khối nay là đầu dốc Hàng Than, ô Phúc Lâm nay là

đầu phố Hàng Đậu, ô Thanh Hà nay là ô Quan Chưởng, ô Trừng Thanh nay ở
vào khoảng mé phải nhà tắm công cộng Chợ Gạo cũ, ô Mỹ Lộc nay là ngã ba
đường Trần Quang Khải - Hàng Mắm, ô Đông An nay là ngã ba Trần Quang
Khải - Hàng Thùng, ô Tây Luông nay là Nhà hát Thành phố, ô Nhân Hoà nay
là ngã ba Trần Quang Khải - Trần Hưng Đạo, ô Thanh Lãng nay là ô Đống
Mác, ô Yên Ninh nay là ngã tư phố Huế - Đại Cồ Việt (tức ô Cầu Dền), ô
Kim Hoa ở ngã tư quốc lộ 1 - Đại Cồ Việt (tức ô Đồng Lầm), ô Thịnh Quang
nay là ngã tư Hàng Bột - Khâm Thiên (tức ô Chợ Dừa), ô Thanh Bảo nay là
bến ô tô Kim Mã, ô Thuỵ Chương nay là khoảng vườn hoa Tây Hồ ở đầu
đường Hoàng Hoa Thám.
Tuy nhiên, năm 1866 cửa ô Hà Nội chỉ còn 15. (Bản đồ Tỉnh thành Hà
Nội vẽ năm 1866 đời Tự Đức thì chỉ còn 15 cửa ô). Mất cửa ô Nhân Hoà. Và
nhiều cửa ô mang tên mới: Yên Hoa thành Yên Phụ, Yên Tĩnh thành Yên
Định, Thạch Khối thành Nghĩa Lập, Phúc Lâm thành Tiền Trung, Tây Luông
22


thành Trường Long, Thanh Lãng thành Lãng Yên, Yên Ninh thành Thịnh
Yên, Kim Hoa thành Kim Liên, Thịnh Quang thành Thịnh Hào.
Khoảng mười lăm năm tiếp theo, cũng vẫn 15 cửa ô, nhưng Yên Định
đã đổi ra Yên Ninh, Đông Hà thành Thanh Hà, Trường Long thành Cựu Lâu.
Điều đáng chú ý là phần lớn các cửa ô đều thông ra sông Hồng: ở phía tây có
2 cửa, phía nam có 3 cửa, ra sông Hông có 11 cửa. Đó là vì các cửa ô chính là
các cửa của tòa thành đất bao bọc quanh kinh thành Thăng Long. Ra vào kinh
thành tất phải qua cửa ô. Ban đêm, tại các cửa ô đều có tuần phiên canh gác,
kiểm soát sự ra vào kinh thành. Song thời đó đường giao thông nối Thăng
Long với bốn phương chủ yếu là đường sông, cho nên dọc sông Hồng có
nhiều bến, phố xá đông đúc, nhiều hiệu buôn lớn của người Việt và người
nước ngoài tập trung ở đây. Vì vậy, phải mở nhiều cửa ô để đi lại được dễ
dàng. Hai cửa ô Thanh Hà và Trừng Thanh rất gần nhau vì thời xưa cửa sông

Tô Lịch nằm giữa hai ô này. Cho nên tuy gần thế mà là xa cách- cách sông
cách đò
2.1.2. Cửa ô Thăng Long - Hà Nội nay
2.1.2.1. Ô Chợ Dừa
Từ thế kỷ XX trở đi, người Hà Nội đã không còn nhiều người biết đến
những cửa ô đã mai một vào thời gian, chìm đi trong quá khứ. Những Tây
Luông (sau Nhà hát Lớn) Thuỵ Chương (đầu Quán Thánh-Thuỵ Khuê) Đông
Yên (Hàng Cau-Hàng Bè) Mỹ Lộc (đầu Hàng Bạc) Trừng Thanh (Hàng
Mắm) Phúc Lâm (Hàng Đậu) Thạch Khối (Hàng Than) Yên Tỉnh (dốc Hàng
Than) Nhân Hoà (Hàn Thuyên).... rồi chỉ còn mang máng như những hoài
niệm đẹp, đó là những cửa ô Yên Phụ, Đồng Lầm, Chợ Dừa, Cầu Dền, Đống
Mác, Cầu Giấy...
Dưới đây là 16 cửa ô Thăng Long - Hà Nội
Tên chữ

Tên nôm

Địa điểm hiện nay

23

Đổi tên


Ngã ba đê Yên Phụ -

Yên Hoa

đường Thanh Niên
Ngã ba đê Yên Phụ -


Yên Tĩnh

Cửa Bắc

Thạch Khối

Phúc Lâm
Đông Hà môn

Đầu dốc Hàng Than
ô Hàng Đậu
ô

Quan

Chưởng

Đầu phố Hàng Đậu

đổi

Sau

thành Yên Phụ
Sau
Yên

thành


Định,

rồi

Yên Ninh
Sau

thành

Nghĩa Lập
Sau

thành

Tiền Trung

Phố ô Quan Chưởng
Khoảng mé phải nhà

Trừng Thanh

tắm công cộng Chợ
Gạo cũ
Ngã ba đường Trần

Mỹ Lộc

Quang Khải - Hàng
Mắm
Ngã ba Trần Quang


Đông An

Khải - Hàng Thùng
Sau
Nhà hát Lớn Hà Nội

Tây Luông

thành

Trường Long, rồi
Cựu Lâu

Ngã ba Trần Quang
Khải - Trần Hưng

Nhân Hoà

Đạo
Thanh Lãng

ô Đống Mác

Sau

không

Sau


thành

còn

Lãng Yên

24


Yên Ninh

ô Cầu Dền

Kim Hoa

ô Đồng Lầm

Thịnh Quang

ô Chợ Dừa

Thanh Bảo

Ngã tư phố Huế - Đại
Cồ Việt

thành

Thịnh Yên


Ngã tư đường Giải
Phóng - Đại Cồ Việt
Ngã tư Hàng Bột Khâm Thiên

Kim Liên
Thịnh Hào

Bến ô tô Kim Mã
Khoảng

Thuỵ Chương

sau

vườn

hoa

Tây Hồ ở đầu đường
Hoàng Hoa Thám

2.1.2.2. Ô Quan Chưởng
Ngay cạnh chợ Đồng Xuân, một cửa ô duy nhất còn lại cái cổng ba cửa
như cổng thành, có vọng lầu, bằng gạch vồ nâu đỏ, có cả tấm bia đá của Tổng
đốc Hoàng Diệu cho dựng nǎm 1882 cấm ngặt binh lính quan nha không được
sách nhiễu người dân qua lại đây vào thành. Cổng ô được xây dựng nǎm
1749, hơn hai trǎm nǎm rồi, là chứng nhân của lịch sử và tấm bia đá kia trǎm
nǎm chưa mòn.
Theo sách Đường phố Hà Nội của Nguyễn Vinh Phúc và Trần Huy Bá
viết: "Cửa Ô Quan Chưởng có thể có từ thời Lê, vào năm Cảnh Hưng thứ 10

(1749) đã đắp thành đất bao quanh kinh đô Thăng Long, có mở một số cửa
ô. Về tên gọi, có thuyết cho rằng vào cuối đời Lê, có một viên quan Chưởng
ấn về hưu, lập dinh cơ ở cạnh ô, do đó mà thành tên. Có thuyết lại cho rằng
vào đời Nguyễn, có một chức quan Chưởng cơ kiểm soát ô này, phàm thuyền
bè ghé các bến quanh đây đều phải trình giấy ở viên quan ấy. Vì vậy mà thành
tên. Có thuyết giải thích là hồi giặc Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ nhất (1873),

25


×