Tín ngưỡng dân gian Thờ Mẫu
3. Tín ngưỡng dân gian thờ Mẫu
Trong đời sống tâm linh của người Việt Nam đã từng tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau. Người Việt có tục thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Phật, thờ các thần linh, thờ các
anh hùng có công với nước, với dân... Đặc biệt thờ Mẫu (Mẹ).
Thờ Mẫu có nguồn gốc của tục thờ thần thời cổ đại, thờ các nữ thần núi, rừng, sông, nước. Sau này
Mẫu được thờ ở các đền, phủ. Mẫu luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất. Thờ Mẫu có nguồn gốc ở
miền Bắc. Vào đến miền Nam, "đạo" này đã hoà nhập "Mẫu"với các nữ thần trong tín ngưỡng địa
phương: Thánh Mẫu Thiên Y A Na (Huế), Thánh Mẫu Linh Sơn (Tây Ninh)
Trong thực tế việc thờ cúng của "Đạo" Mẫu có sự hội nhập các hình thức của nhiều tôn giáo khác.
Ngày nay, tín ngưỡng dân gian được coi trọng nên nhiều đền, phủ đã và đang được phục hồi và hoạt
động sôi nổi.
Đây là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (thường gọi là các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu
là một phần quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của Việt Nam. Đạo
Mẫu được thờ tại các đền, phủ. Ở miền Bắc Việt Nam, hầu hết các chùa cũng có bàn thờ Mẫu (Tiền
Phật, hậu Mẫu
3.1 Lịch sử và phát triển
Nguồn gốc lịch sử của đạo Mẫu không được ghi lại rõ ràng trong sách vở. Có người cho rằng nó có
nguồn gốc từ thời tiền sử, khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên, các thần linh này được kết
hợp lại trong khái niệm Thánh Mẫu hay Nữ thần Mẹ. Theo thời gian, khái niệm Thánh Mẫu được
mở rộng để bao hàm cả các nữ anh hùng trong dân gian - những người phụ nữ có thật nổi lên trong
lịch sử với vai trò người bảo hộ hoặc trị bệnh. Những nhân vật lịch sử này được kính trọng, tôn thờ,
và cuối cùng được thần thánh hóa để thành một trong các hiện thân của Thánh Mẫu.
Sự phát triển của đạo Mẫu được phân chia thành các giai đoạn:
- Thờ các nữ thần thiên nhiên riêng biệt. Các nữ thần này là các tinh thần thiên nhiên và không có
đặc điểm của con người, đặc biệt là đặc điểm của người mẹ.
- Thờ các Thánh Mẫu. Các nữ thần này đã có đặc điểm của người mẹ. Ví dụ Mẹ Âu Cơ, mẹ của dân
tộc Việt.
- Thờ Thánh Mẫu tam phủ-tứ phủ. 3 hay 4 "Phủ" ở đây không phải là số đơn vị xây dựng như "đền",
"phủ", mà là 3 hay 4 thành tố của vũ trụ: Trời (Thiên phủ), Đất (Địa phủ), Nước (Thủy phủ), Núi
rừng (Nhạc phủ).
3.2 Nghi lễ thờ cúng
Các vị thần trong đạo Mẫu phản ánh các phẩm chất của một người Mẹ vừa thần thánh lại vừa con
người. Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi chết, nó quan tâm đến cuộc sống hiện tại và
câu hỏi làm thế nào để người ta có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian.
Điều đó thể hiện trong các cầu nguyện và kinh lễ. Các bài kinh lễ là các bài hát về nhiều điều mà
người ta mong muốn trong cuộc sống hàng ngày: thời tiết tốt cho mùa màng, sức khỏe cho mọi
người, hạnh phúc, tiền tài, v.v.. Nội dung của các bài kinh lễ đơn giản và dễ hiểu, điều này rất khác
so với nội dung kinh lễ các tôn giáo khác như Phật giáo hay Kitô giáo.
Đạo Mẫu có các nghi lễ tổ chức theo Âm lịch với các tín đồ và nhiều người đi lễ tham gia. Các nghi
thức hành lễ không được đào tạo chính thức mà chủ yếu được truyền khẩu từ đời này qua đời khác.
Nghi lễ phổ biến nhất là lên đồng (hay còn gọi là hầu bóng). Trong nghi lễ này, người ta tin rằng
linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào người lên đồng, linh hồn này được vời đến để nghe lời cầu
nguyện của người đi lễ. Trong các nghi lễ, phụ nữ thường đóng vai trò chính, người lên đồng cũng
thường là phụ nữ (bà đồng), đôi khi mới do nam giới đảm nhận (ông đồng).
Các giá đồng (các điệu múa linh thiêng) là một phần quan trọng của nghi lễ. Có 72 giá đồng, bao
gồm giá các quan lớn, giá các cậu, giá chầu bà, giá các cô,... Trong buổi lễ, các giá đồng được biểu
diễn cùng với hát văn (hay chầu văn). Hát văn là một thể loại hát nói (vừa hát vừa nói). Hát văn do
người đồng biểu diễn cùng với dàn nhạc cung văn. Người ta nói rằng, chầu văn tạo nên một khung
cảnh và âm nhạc tâm linh để giúp cho người đồng nhập vào vai mới và gắn kết với những con người
và nơi chốn ở bên ngoài thế giới địa phương của họ.
Đạo Mẫu có hai dịp lễ hội quan trọng: "Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ", kỷ niệm ngày mất
của Đức thánh Trần (Cha) và Liễu Hạnh Công chúa (Mẹ). Ngoài ra, người đi lễ có thể đến các phủ
đền vào các ngày mùng Một hoặc ngày Rằm (âm lịch) hàng tháng, dâng đồ cúng lễ để tạ ơn và cầu
khấn.
3.3 Các vị thần của đạo Mẫu
Trong các đền thờ của Đạo Mẫu có nhiều vị thần được sắp xếp theo các thứ bậc. Đầu tiên là Ngọc
Hoàng. Đây là vị thần tối cao và được đặt ở vị trí danh dự, nhưng lại ít được thờ cúng. Vị thần cao
nhất của Đạo Mẫu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Các vị khác được đặt tại các ban thờ tam phủ hoặc tứ
phủ, Ngũ Vị Thánh Bà , Tứ Phủ Chầu Bà , Ngũ Vị Hoàng Tử Thượng Thiên , Lục Phủ Tôn Ông ,
Thập Vị Triều Hoàng hay Thập Vị Thủy Tế , Thập Nhị Triều Cô, Thập Nhị Triều Cậu, Quan Ngũ
Hổ, và Ông Lốt .
Giải thích về sự có mặt của cả nam thần lẫn nữ thần trong các vị thần của Đạo Mẫu, các nhà nghiên
cứu đã đưa ra giả thuyết rằng: Do xã hội Việt Nam cổ xưa theo chế độ mẫu hệ, nên phụ nữ có vị thế
quan trọng trong xã hội. Tuy nhiên, người phụ nữ chỉ có được quyền lực khi họ đã kết hôn. Do đó,
nam giới cũng được xem là có vai trò quan trọng trong cuộc sống, và họ cũng được thờ cúng.
* Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Thánh Mẫu Liễu Hạnh được cho là công chúa của Ngọc Hoàng Thượng đế, do lỡ tay làm vỡ chén
ngọc mà bị đày xuống trần làm con gái nhà họ Lê (ở nơi ngày nay thuộc tỉnh Nam Định) vào năm
1557. Dưới trần, bà có cuộc sống ngắn ngủi, lấy chồng và sinh con năm 18 tuổi và chết năm 21 tuổi.
Do bà yêu cuộc sống trần tục nên Ngọc Hoàng cho bà tái sinh lần nữa. Trong kiếp mới, bà du ngoạn
khắp đất nước, thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên, gặp gỡ nhiều người. Bà thực hiện nhiều phép
mầu, giúp dân chống quân xâm lược. Bà trở thành một lãnh tụ của nhân dân và thậm chí bà còn
tranh đấu với vua chúa. Do đức hạnh của bà, nhân dân đã lập đền thờ bà (Đền Sòng- tỉnh Thanh
Hóa). Bà đã được thánh hóa và trở thành một vị Thánh Mẫu quan trọng nhất và một hình ảnh mẫu
mực cho phụ nữ Việt Nam.
Cho dù cuộc đời của bà được giải nghĩa theo cách nào, Liễu Hạnh đã trở thành biểu tượng cho sức
mạnh của phụ nữ. Bà tách mình ra khỏi Khổng giáo với quan niệm trọng nam khinh nữ. Bà nhấn
mạnh vào hạnh phúc, quyền tự do đi lại và độc lập tư tưởng. Vừa được kính sợ vừa được yêu mến,
các nguyên tắc của bà về trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt cũng đã gửi một thông điệp về
sự bảo vệ và hy vọng vào công bằng xã hội cho nhân dân trong thời loạn lạc của các thế kỷ 17-19.
Vừa là thần tiên vừa là người (con gái, vợ, mẹ), Liễu Hạnh chia sẻ vui buồn với những người trần
tục. Bà được coi là vị thần cảm thông và độ lượng nhất. Bà trở thành một trong các vị thần của Đạo
Mẫu và nhanh chóng được nâng lên vị trí quan trọng nhất, cai trị các vị thần ở dưới và thế giới con
người.
Như nhiều dân tộc khác ở vùng Đông Nam Á, người Việt nguyên sơ theo chế độ mẫu hệ, vì vậy có
tục thờ Mẹ. Mẹ Việt Nam - đó là người mẹ của gia đình, người mẹ của sông nước, người mẹ của núi
rừng, người mẹ của đất đai, mẹ của dân tộc Việt Nam. Hầu như ngôi chùa nào cũng dành một ban
thờ Mẫu. Dường như ai cũng thấy thiêng liêng, gần gũi và ấm lòng mỗi khi thắp một nén hương lên
bàn thờ Mẫu khi về dự hội lễ Mẹ ở Phủ Giầy - Nam Định. Từ thời Hùng Vương người Bắc Việt thờ
công chúa Mỵ Nương, bà được coi là “Bà mẹ của cây lúa nước”, thờ nữ thần Man Nương, đó là vị
nữ thần ngự trị các già lam như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Người miền Trung thờ
nữ thần Đầm, Ao, Hồ. Người Chăm thờ nữ thần Thiên Yana.
Ngoài ra, người Việt còn thờ cúng các vị anh hùng liệt nữ khác như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyệt
Nga, Dương Thái Hậu, Ỷ Lan Nguyên Phi, bà Chúa Kho, bà Chúa Đất...
Riêng Thánh mẫu Liễu Hạnh là vị nữ thánh trẻ nhất về niên đại nhưng lại được nhân dân ta xếp vào
hàng “Tứ bất tử” trong lĩnh vực thần quyền của nước ta. Bà ngự trị phương Nam, được sánh ngang
cùng Phù Đổng Thiên Vương ở phương Bắc, Tản Viên Sơn thánh phương Tây và Chử Đồng Tử
Tiên Dung ở phương Đông của đất nước, bốn hướng Nam, Bắc, Tây, Đông thiêng liêng của trời đất.
Đây là sự chọn lọc rất hệ trọng của người xưa. Tục thờ mẫu Liễu Hạnh dù chỉ mới có từ năm 1434,
hình tượng của bà được các nhà Nho thế kỷ XV dựng lên đến nay chỉ khoảng 570 năm vẫn mang
đậm tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt. Tục lệ thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh hay còn gọi Tam
Tòa Thánh Mẫu tuy mờ mờ ảo ảo vẫn mang hương sắc về một sử thi văn hóa rất huyền diệu của dân
tộc ta.
Có học giả cho rằng Thánh mẫu Liễu Hạnh chính là hóa thân của Thiên Yana (Po Nagar) của người
Chăm. Sau khi trở thành Hậu Thổ Nguyên Quân lại Việt hóa cao hơn nữa để đi vào các điện thờ. Vị
nữ thần này được thờ ngay ở Thăng Long, trong một ngôi đền vốn là nơi thờ tự một vị tổ sư của đạo
Giáo (Theo Tang thương Ngẫu Lục). Đó là đình Ứng Thiên - Yên Lãng xưa. Nay thuộc phường
Láng Hạ - quận Đống Đa - Hà Nội. Ngôi đền này rất có uy thế. Liễu Hạnh được xếp vào hàng
Thượng đẳng Thần theo lệnh của chúa Trịnh từ năm 1767 trước khi Tây Sơn nổi dậy 10 năm.
Người Việt ở đàng Trong vốn đã thoát khỏi sự ràng buộc của Nho giáo liền tiếp thu tín ngưỡng
mang tính tự nhiên và phồn thực của cư dân bản địa. Thánh mẫu Po Nagar của người Chăm đã đồng
hóa với người Việt. Ngài được Việt hóa với tên gọi mới là Thiên Yana, và tên gọi khác là Bà Chúa
Ngọc. Tại Nha Trang có ngôi đền tên là “Chùa Ngọc Tháp”, tại Huế cũng có rất nhiều đền thờ Thiên
Yana. Trung tâm quyền lực của chúa Nguyễn dường như đắm chìm trong không khí tinh thần Thánh
mẫu. Chùa Thiên Mụ được xây vào năm 1601 tại Huế, là nơi mà 5 năm trước đó một vị nữ thần áo
đỏ quần lam hiện lên tuyên bố “Thời đại của chúa Nguyễn chính thức trị vì phương Nam”. Thiên
Mụ nói ở đây không ai khác chính là bà chúa phương Nam - Thiên Yana - vị nữ thần Chăm vĩ đại và
bất diệt.
Đền thờ Thiên Yana được xây trên đồi Ngọc Trản (còn gọi là điện Hòn Chén) cách thành phố Huế
6km về phía Tây Nam. Điều đó chứng tỏ giữa người Chăm và người Việt có những tác động về văn
hóa và tín ngưỡng hỗ tương cho nhau đã có từ rất xa xưa trong quá khứ, nó tồn tại và sống động
vĩnh hằng mà ta còn thấy dấu tích ở tháp Bà (Nha Trang). Ngôi đền được xây từ năm 591 bởi một vị
vua huyền thoại là Vicitrasagara. Đền Po Nagar là một trung tâm tôn giáo rất được trọng thị, đó là
nơi bắt mạch được nhịp đập trái tim Chămpa cổ đại - một tín ngưỡng rất cổ xưa trước khi họ được
Ấn Độ hóa. Trong bài kinh xưng tụng Po Yan Ino Nagar nói rằng: Vị nữ thần này được sinh ra từ
mây trên bầu trời và giọt nước ở nơi biển cả, được vật thể hóa dưới dạng một khúc gỗ trầm hương
trôi nổi lênh đênh nay đây mai đó trên mặt biển. Nữ thần là người sáng tạo nên đất đai, gỗ trầm
hương và lúa gạo, là vị thần của cỏ cây. Po Nagar được người Chăm nhân cách hóa như là vị thần
của đất mẹ. Po Nagar được người Việt đổi thành Thiên Yana. Sức sống và niềm tin cuồng nhiệt đối
với bà tiếp tục lan tỏa khiến bà nhanh chóng hóa thân vào một Thánh mẫu mới đó là công chúa Liễu
Hạnh. Truyền thuyết nói rằng, bà giáng sinh vào một gia đình quan lại quý phái họ Lê ở Phủ Giầy xã Kim Thái - huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định (xưa là xã Yên Thái, huyện Thiên Bản thuộc phủ
Kiến Bình). Đây là mảnh đất linh dị với nhiều huyền tích kỳ lạ, cũng là miền đất sơn thủy hữu tình
có sông Ba Sắt, núi An Thái, núi Ngăm, núi Báng... tạo nên một quang cảnh đẹp, chứa nhiều chứng
tích thời cổ đại, miền quê lâu đời mà người Việt đã cư trú từ 7.000 năm nay, có văn hóa, tín ngưỡng
nguyên thủy, thờ cúng tổ tiên, ông bà, rất coi trọng chữ hiếu, uống nước nhớ nguồn. Đạo Tứ mẫu
thờ mẫu Liễu Hạnh, đó là vị Thánh mẫu đầy uy lực, có lòng từ bi, luôn nêu cao tấm gương “Hiếu
trinh”, bà dạy con người biết yêu thương, kính trọng cha mẹ, biết đối xử tốt với họ hàng, làng xóm,
coi hôn nhân là một đạo lý... Tấm gương đó thể hiện qua những lần giáng sinh của bà.
Theo truyền thuyết, lần thứ nhất bà giáng sinh ở Quảng Nạp, Ý Yên - Nam Định, làm con nhà họ
Phạm, nêu cao tấm gương về một người con gái hiếu thảo, không lấy chồng để phụng dưỡng cha
mẹ, hết hạn về trời.
Giáng sinh lần thứ hai ở Vân Cát - Vụ Bản - Nam Định, làm con gia đình quan lại họ Lê vào năm
1557 là Lê Thái Công sau làm dâu Trần Công, kết duyên cùng chàng Trần Đào Lang. Nàng nêu cao
gương sáng về một người vợ hiền, dâu thảo, yêu thương con cái, giữ gìn đức hòa thuận, giữ trọn đạo
nghĩa vợ chồng, “Dĩ thuận vi chính, thiếp chi đạo dã” (Đạo làm vợ lấy thuận hòa làm chính). Bà là
người yêu quê hương đất nước, hay giúp đỡ người nghèo khổ, chăm lo tu sửa đình chùa, danh lam
thắng cảnh để tô đẹp cho non sông đất nước, luôn âm phù cho đất nước đánh giặc trừ nạn ngoại
xâm.
Lần giáng sinh thứ ba vào năm 1578, bà trở lại trần thế, đầu thai làm Thánh mẫu Liễu Hạnh, cùng 2
vị nữ tì là Quế Hoa công chúa (là cháu Mẫu mặc áo trắng) và Thụy Hoa công chúa mặc áo xanh (là
em dâu Mẫu) hạ trần xuống vùng núi đồi Đèo Ngang (Ninh Bình - Thanh Hóa), lần này bà là bà mẹ
Tiên tài năng, tao nhã, vô cùng xinh đẹp, am hiểu nghệ thuật, biết đủ cả cầm, kỳ, thi, họa, một vị
Thánh mẫu có tâm hồn nghệ sĩ, một nhà thơ có tài năng thực sự, nhân hậu, coi trọng lẽ phải, luôn
đấu tranh cho chính nghĩa, ghét những thói hư tật xấu, chống lại những lễ giáo bất công, lạc hậu của
Nho giáo vốn coi thường, khinh miệt phụ nữ. Đó là vị Thánh mẫu rất mẫu mực, tròn đầy trong đời
sống gia đình và xã hội. Bà đại diện cho tinh hoa cốt cách của người phụ nữ Việt Nam, cho tinh thần
bất tử của dân tộc Việt. Vì vậy bà tồn tại vĩnh hằng trong tâm thức dân gian.
3.4 Người phụ nữ trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt
Cội nguồn dân tộc ta được bắt đầu bằng sự tích mẹ Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, đẻ ra trăm con.
Dân tộc Việt gồm nhiều dân tộc anh em có nguồn gốc từ đó. Mẹ Âu Cơ như một biểu tượng bất tử
về cội nguồn đời sống vật chất và tinh thần của sự hình thành người Việt trên mảnh đất này.
Tâm thức của người Việt Nam luôn luôn hiện diện hình ảnh người phụ nữ. Tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt thật sự là một hiện tượng đặc biệt trong đời sống tinh thần, tâm linh... Bên cạnh tín
ngưỡng này, người Việt chúng ta còn có tục thờ Nữ Thần. Tục thờ này vốn có ngọn nguồn lịch sử,
đã phản ánh truyền thống coi trọng các bà mẹ, phản ánh vị trí cao cả của phụ nữ nước ta trong chế
độ phụ quyền của gia đình Việt Nam đã xác lập từ lâu.
Chân dung các Mẫu, các vị Nữ Thần được ngưỡng mộ thờ cúng đều mang dáng dấp của một nữ
nhân vật nổi tiếng trong lịch sử đất nước như Bà Trưng, Bà Triệu... Trải suốt mấy ngàn năm lịch sử,
dân gian Việt Nam đã sản sinh ra những vị thần linh thuần gốc Việt, trong số ấy có bốn vị được tôn
là Tứ Bất Tử, trong đó có một gương mặt Nữ Thần - Nữ Thần Liễu Hạnh. Tứ Bất Tử tiêu biểu cho
những tấm gương sáng chói của một dân tộc khẳng định sự tồn tại của mình. Họ gắn liền với sự
trường tồn, bất tử của dân tộc. Đó là Thần Tản Viên, cậu bé làng Gióng, Chử Đồng Tử và công chúa
Liễu Hạnh. Tương truyền, Liễu Hạnh là công chúa của Ngọc Hoàng, thác sinh vào nhà họ Lê từ thời
Thiên Hựu (1557). Theo luật trời, tiên xuống trần phải có thời hạn, nhưng Liễu Hạnh đã không chịu
theo. Nàng nhất quyết đòi được sống cuộc sống trần gian. Nàng chu du khắp nơi, đàm đạo với văn
nhân, kết hôn với danh sĩ, giúp dân trừ nạn. Liễu Hạnh là biểu tượng cho sức sống giải phóng, ý
thức tự do và lòng nhân đạo của phụ nữ. Chất Việt trong bà rất rõ. Đó là tâm hồn nhân văn sâu lắng,
biểu hiện ở sức sống quật cường và tâm hồn nghệ sĩ. Liễu Hạnh được tôn vinh là Thánh Mẫu. Vì
những lẽ đó, phụ nữ Việt Nam tự hào với Bà Trưng, Bà Triệu nhưng với Liễu Hạnh, họ thấy gần gũi
hơn.
Trong tâm thức sâu xa của dân Việt, cả nước là đại gia đình chung huyết thống. Gia đình nào cũng
có người chủ là mẹ chứ không phải ông cha. Luân lý phụ quyền là của Nho giáo chứ không phải của
dân Việt. Mẹ sinh ra con cái, nuôi dưỡng rèn luyện, chăm sóc con. Không phải chỉ sinh vật mà ngay
cả vật vô tri cũng có mẹ như mẹ Đất, mẹ Núi, mẹ Nước, mẹ Lúa... Chính những người mẹ này đã
đem lại sự yên ổn, thanh bình, yêu thương cho mọi người.
Người phụ nữ, vì vậy, đã có một vị trí đặc biệt trong đời sống tâm linh của người Việt. Và đến tận
ngày nay, tục thờ Nữ Thần, tục thờ Mẫu vẫn còn sống động. Đó là các bà Mẫu thuộc Tam phủ, Tứ
phủ trên cơ sở thờ các nhiên thần (thần biểu trưng cho lực lượng tự nhiên), Mẫu Liễu Hạnh (cõi
nhân gian) ở thế kỷ XVI...
Ngoài ra, Hội chùa Dâu mở hằng năm tại Trung tâm Phật giáo đầu tiên ở nước ta hồi thế kỷ thứ III,
IV... ở 5 làng huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc còn thờ các vị Thần Nữ: Pháp Vân (vị thần chủ trì
Mây), Pháp Vũ (vị thần chủ Mưa), Pháp Lôi (vị thần chủ Sét), Pháp Điện (vị thần chủ Chớp) tục gọi
là Tứ Pháp. Các vị thần ấy chủ trì những lực lượng tự nhiên mà cư dân nông nghiệp cổ rất sùng bái,
vì có liên quan đến việc cung cấp nước cho nghề trồng lúa nước.
Có thể nói, người phụ nữ Việt Nam đã có mặt và đóng vai trò quan trọng trong tiến trình văn hóa
của dân tộc Việt... Hiện nay, chủ trương về việc trao tặng danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng"
của Nhà nước ta chính là tiếp nối với tiến trình văn hóa tốt đẹp của dân tộc đối với người phụ nữ