Sơ đồ:
Kỳ Đài
Còn gọi là Cột cờ, nằm chính giữa mặt nam của kinh thành Huế thuộc phạm vi pháo đài
Nam Chánh cũng là nơi treo cờ của triều đình. Kỳ Đài được xây dựng vào năm Gia
Long thứ 6 (1807) cùng thời gian xây dựng kinh thành Huế. Đến thời Minh Mạng, Kỳ Ðài
được tu sửa vào các năm 1829, 1831 và 1840. Trong lịch sử, kỳ đài thường là nơi đánh
dấu các sự kiện quan trọng và sự thay đổi thể chế chính quyền ở Huế.
Trường Quốc Tử Giám
Năm 1803 vua Gia Long xây dựng Đốc Học Đường tại địa phận An Ninh Thượng,
huyện Hương Trà, cách kinh thành Huế chừng 5 km về phía Tây, trường nằm
cạnh Văn Miếu, mặt hướng ra sông Hương. Đây được xem là trường quốc học đầu
tiên được xây dựng dưới triều Nguyễn. Đến năm 1908, thời vua Duy Tân, Quốc Tử
Giám được dời vào bên trong Kinh thành, bên ngoài, phía Đông Nam Hoàng thành
(tức vị trí hiện nay).
Điện Long An
Điện được xây dựng vào năm 1845, thời vua Thiệu Trị với tên gọi là Điện Long
An trong cung Bảo Định, phường Tây Lộc (Huế) làm nơi nghỉ của vua sau khi
tiến hành lễ Tịch điền (cày ruộng) mỗi đầu xuân. Đây cũng là nơi vua Thiệu Trị
thường hay lui tới, nghỉ ngơi, đọc sách, làm thơ, ngâm vịnh.
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế
Tại số 3, Lê Trực, Huế. Tòa nhà chính của viện bảo tàng chính là điện Long An xây năm
1845 dưới thời vua Thiệu Trị. Hiện bảo tàng trưng bày hơn 300 hiện vật bằng vàng, sành,
sứ, pháp lam Huế, ngự y và ngự dụng, trang phục của hoàng thất nhà Nguyễn. Bảo tàng Mỹ
thuật Cung đình Huế giúp người tham quan một cái nhìn tổng thể về cuộc sống cung đình
Huế.
Đình Phú Xuân
Đình Phú Xuân được xây dựng nửa đầu thế kỷ XIX ở tổng Phú Xuân, huyện Hương Trà,
tỉnh Thừa Thiên - Huế; nay thuộc phường Tây Lộc, thành phố Huế, cách trung tâm
thành phố 2 km về phía bắc.
Hồ Tịnh Tâm
Hồ Tịnh Tâm là một di tích cảnh quan được kiến tạo dưới triều Nguyễn. Trước đây,
hồ nguyên là vết tích của đoạn sông Kim Long chảy qua Huế. Đầu thời Gia Long,
triều đình cho cải tạo một số đoạn sông và khơi dòng theo hướng khác để tạo
thành Ngự Hà và hồ Ký Tế. Hai bãi nổi trong hồ này được dùng làm nơi xây dựng
kho chứa thuốc súng và diêm tiêu. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triều Nguyễn đã
huy động tới 8000 binh lính tham gia vào việc cải tạo hồ. Năm 1838, vua Minh Mạng
cho di dời hai kho sang phía đông, tái thiết nơi này thành chốn tiêu dao, giải trí và
gọi là hồ Tịnh Tâm. Dưới thời vua Thiệu Trị đây được xem là một trong 20 cảnh đẹp
đất Thần Kinh.
Tàng thư lâu
Tàng thư lâu là được xây dựng năm 1825 trên hồ Học Hải trong kinh thành Huế,
dùng làm nơi lưu các công văn cũ của cơ quan và lục bộ triều đình nhà Nguyễn.
Đây có thể coi là một Tàng Kinh Các của Việt Nam dưới triều Nguyễn lưu trữ
các tài liệu văn bản quý hiếm liên quan đến sinh hoạt của triều đình và biến đổi
của đất nước. Chỉ riêng số địa bạ thời Gia Long và Minh Mạng lưu trữ ở đây đã
lên đến 12.000 tập. Có thể nói Tàng thư lâu rất quan trọng trong việc chứa các
tài liệu và địa bạ, giấy tờ quan trọng lúc bấy giờ.
Viện Cơ Mật - Tam Tòa
Là cơ quan tư vấn của nhà vua gồm bốn vị đại thần từ Tam Phẩm trở lên, là
Đại Học Sĩ của các điện Đông Các, Văn Minh, Võ Hiển và Cần Chánh. Viện
lúc đầu đặt ở nhà Tả Vu. Sau khi kinh đô thất thủ năm 1885 phải dời đi đến
nhà của bộ Lễ, rồi bộ Binh, và cuối cùng là về chùa Giác Hoàng vùng với
toà Giám Sát (của người Pháp) và Trực Phòng các bộ nên gọi là Tam Toà.
Hiện nay Tam Tòa nằm ở địa chỉ 23 Tống Duy Tân, thuộc phường Thuận
Thành, ở góc Đông-Nam bên trong kinh thành Huế, hiện là trụ sở của Trung
tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.
Đàn Xã Tắc
Cửu vị thần công
Cửu vị thần công là tên gọi 9 khẩu thần công được các nghệ nhân
Huế đúc dưới thời vua Gia Long. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn,
khi lên ngôi, vua Gia Long liền cho các nghệ nhân đương thời tập
trung tất cả chiến lợi phẩm là binh khí và vật dụng bằng đồng để
đúc thành 9 khẩu thần công làm vật chứng cho chiến thắng vẻ vang
của mình. Công việc đúc chính thức từ năm 1803 và hoàn thành
vào năm 1804.
Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng
nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành - nơi dành
riêng cho vua và hoàng gia. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành thường được gọi chung là Đại
Nội.
Các di tích trong hoàng thành gồm:
Ngọ Môn
Lầu Ngũ Phụng
Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng thành Huế được xây dựng vào năm Minh
Mạng 14 (1833). Ngọ Môn có nghĩa đen là Cổng giữa trưa hay Cổng xoay về hướng
Ngọ, là cổng lớn nhất trong 4 cổng chính của Hoàng thành Huế. Về mặt từ nguyên học,
"Ngọ Môn" có nghĩa là chiếc cổng xoay mặt về hướng Ngọ, cũng là hướng Nam, theo
Dịch học là hướng dành cho bậc vua Chúa.
Điện Thái Hoà và sân Đại Triều Nghi
Điện Thái Hoà là cung điện nằm trong khu vực Đại Nội của kinh thành Huế. Điện
cùng với sân chầu là địa điểm được dùng cho các buổi triều nghi quan trọng của
triều đình như: lễ Đăng Quang, sinh nhật vua, những buổi đón tiếp sứ thần chính
thức và các buổi đại triều được tổ chức 2 lần vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch hàng
tháng. Trong chế độ phong kiến cung điện này được coi là trung tâm của đất nước.
Điện được xây dựng vào năm 1805 thời vua Gia Long. Năm 1833 khi vua Minh
Mạng quy hoạch lại hệ thống kiến trúc cung đình ởĐại Nội, trong đó có việc cho dời
điện về mé nam và làm lại đồ sộ và lộng lẫy hơn.
Triệu Tổ Miếu
Triệu Tổ miếu còn gọi là Triệu Miếu, được xây dựng năm Gia Long thứ 3 (1804).
Miếu này nằm ở phía bắc của Thái Miếu trong hoàng thành Huế, là miếu
thờ Nguyễn Kim, thân sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng.
Hưng Tổ Miếu
Hưng Tổ Miếu còn gọi là Hưng Miếu là ngôi miếu thờ cha mẹ vua Gia Long
(ông Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn Phúc Côn) và bà Nguyễn Thị Hoàn),
vị trí ở tây nam Hoàng thành Huế|hoàng thành (cách Thế Miếu chừng 50
mét về phía Bắc).
Thế Tổ Miếu
Thế Tổ Miếu thường gọi là Thế Miếu tọa lạc ở góc tây nam bên trong
Hoàng thành Huế, là nơi thờ các vị vua triều Nguyễn. Đây là nơi triều
đình đến cúng tế các vị vua quá cố, nữ giới trong triều (kể cả hoàng
hậu) không được đến tham dự các cuộc lễ này.
Thái Tổ Miếu
Thái Tổ Miếu còn gọi là Thái Miếu là miếu thờ các vị chúa Nguyễn, từ Nguyễn
Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần. Miếu được xây dựng từ năm Gia Long 3 (1804) ở góc
đông nam trong Hoàng thành, đối xứng với Thế Tổ Miếu ở phía tây nam.
Cung Diên Thọ
Cung Diên Thọ tên ban đầu là cung Trường Thọ, các tên khác là Từ Thọ, Gia Thọ, Ninh
Thọ; được bắt đầu xây dựng năm 1803 để làm nơi sinh hoạt của Hoàng Thái
Hậu của triều Nguyễn.
Cung Trường Sanh
Cung Trường Sanh hay Cung Trường Sinh (còn có tên gọi khác là Cung Trường
Ninh), được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ nhất (1821) ở phía Tây Bắc Hoàng
thành với vai trò ban đầu là hoa viên, nơi các vua triều Nguyễn mời mẹ mình đến
thăm thú ngoạn cảnh. Về sau cung được được chuyển thành nơi ăn ở sinh hoạt của
một số bà hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu. Trong thời kỳ rực rỡ nhất, kiến trúc
cảnh quan của Cung Trường Sanh được vua Thiệu Trị xếp vào hàng thứ bảy của
thắng cảnh đất Thần Kinh.
Hiển Lâm Các
Hiển Lâm Các được xây dựng vào năm 1821 và hoàn thành vào năm 1822 thời vua Minh
Mạng nằm trong khu vực miếu thờ trong hoàng thành Huế, cao 17m và là công trình kiến
trúc cao nhất trong Hoàng Thành. Đây được xem là đài kỷ niệm ghi nhớ công tích của các
vua nhà Nguyễn và các quan đại thần có công lớn của triều đại.
Cửu Đỉnh
Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn là chín cái đỉnh bằng đồng đặt ở trước Hiển Lâm Các đối diện
với Thế Miếu, phía tây nam Hoàng hành Huế. Tất cả đều được đúc ở Huế vào cuối năm
1835, hoàn thành vào đầu năm 1837. Mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một vị hoàng
đế của triều Nguyễn, chúng có trọng lượng khác nhau và hình chạm khắc bên ngoài đỉnh
cũng khác nhau. 9 đỉnh đó là: Cao Đỉnh, Nhân Đỉnh, Chương Đỉnh, Anh Đỉnh, Nghị Đỉnh,
Thuần Đỉnh, Tuyên Đỉnh, Dụ Đỉnh, và Huyền Đỉnh.
Điện Phụng Tiên
Điện Phụng Tiên là một ngôi điện nằm ở gần cửa Chương Đức, phía trước Cung Diên
Thọ, cửa tây của Hoàng Thành được vua Gia Long và vua Minh Mạng xây dựng dùng
để thờ cúng các vua triều Nguyễn. Khác với Thế Miếu, điện này tuy cũng thờ các vị vua
và hoàng hậu nhà Nguyễn nhưng nữ giới trong triều được phép đến đây cúng tế. Ngoài
ra, nó còn là nơi lưu trữ nhiều bảo vật của nhiều đời vua nhà Nguyễn. Tháng 2 năm
1947, toàn bộ điện bị đốt cháy, hiện nay chỉ còn lại cửa Tam Quan và vòng tường thành
còn tương đối nguyên vẹn.
Tử cấm thành]
Tử Cấm Thành nguyên gọi là Cung Thành là vòng tường thành thứ 3 của Kinh đô Huế,
giới hạn khu vực làm việc, ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia.
Các di tích trong Tử cấm thành gồm:
Tả Vu và hữu Vu
Tả Vu và Hữu Vu được xây dựng vào đầu thế kỷ 19, và cải tạo vào năm 1899. Tả
Vu là toà nhà dành cho các quan văn, còn Hữu Vu là toà nhà dành cho các quan võ;
đây là nơi các quan chuẩn bị nghi thức trước khi thiết triều, nơi làm việc của cơ mật
viện, nơi tổ chức thi đình và yến tiệc.
Vạc đồng
Tại cố đô Huế hiện còn lưu giữ và trưng bày 15 chiếc vạc đồng là những tác
phẩm nghệ thuật thể hiện trình độ kỹ thuật đúc và mỹ thuật tuyệt vời. Trong số
đó, 11 chiếc được đúc từ thời cácchúa Nguyễn, còn 4 chiếc được đúc vào
thời Minh Mạng.
Điện Kiến Trung
Điện Kiến Trung trong Tử Cấm thành (Huế) được vua Khải Định cho xây vào năm 19211923 cùng thời gian với xây lăng để làm nơi sinh hoạt của vua trong hoàng cung. Sau
này, vua Bảo Đại cho tu sửa lại điện, tân trang các tiện nghi Tây phương và cùng hoàng
hậu Nam Phương dọn về ở tại đây.
Điện Cần Chánh
Điện Cần Chánh trong Tử Cấm thành (Huế), được xây dựng năm Gia Long thứ 3
(1804), sau còn được tu bổ nhiều lần. Điện là nơi vua thiết triều, thường tiếp sứ bộ
ngoại giao, tổ chức yến tiệc của hoàng gia và triều đình của triều Nguyễn, hiện nay
đã trở thành phế tích do bị phá huỷ từ năm 1947.
Thái Bình Lâu
Thái Bình Lâu được vua Khải Định cho xây dựng vào năm 1919, đến năm 1921
thì hoàn thành, là nơi để nhà vua có thể nghĩ ngơi lúc rảnh rỗi, cũng là chỗ để
nhà vua đọc sách, viết văn, làm thơ, thư giản.
Duyệt Thị Đường
Duyệt Thị Đường được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 7 (năm 1826)
nằm bên trong Tử Cấm Thành, là một nhà hát dành cho vua, hoàng thân
quốc thích, các quan đại thần xem biểu diễn các vở tuồng. Đây được xem
là nhà hát cổ nhất của ngành sân khấu Việt Nam. Từ năm 2004, Duyệt Thị
Đường được Trung tâm bảo tàng di tích cố đô Huế khôi phục và đưa vào
hoạt động biểu diên nhã nhạc cung đình Huế phục vụ khách du lịch.
Văn Hóa Huế
Thuận Hóa - Phú Xuân -Huế có một quá trình lịch sử hình thành và phát triển khoảng
gần 7 thế kỷ (tính từ năm 1306). Trong khoảng thời gian khá dài ấy Huế đã tích hợp
được những giá trị vật chất và tinh thần quý báu để tạo nên một truyền thống văn hóa
Huế. Truyền thống ấy vừa mang tính đặc thù - bản địa của một vùng đất, không tách rời
những đặc điểm chung của truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam; trong tiến trình hình
thành văn hóa Huế có sự tác động của văn hóa Đông Sơn do các lớp cư dân từ phía
Bắc mang vào trước thế kỷ 2 và sau thế kỷ 13 hỗn dung với thành phần văn hóa Sa
Huỳnhtạo nên nền văn hóa Việt - Chăm. Trong quá trình phát triển, chuyển biến có ảnh
hưởng của các luồng văn hóa khác các nước trong khu vựcĐông Nam Á, Trung
Quốc, Ấn Độ, phương Tây...
Văn hóa Huế được tạo nên bởi sự đặc sắc về tinh thần, đa dạng về loại hình, phong phú
và độc đáo về nội dung, được thể hiện rất phong phú trên nhiều lĩnh vực như: văn
học, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, phong tục tập quán, lễ hội, lề lối ứng xử, ăn - mặc ở, phong cách giao tiếp, phong cách sống...
Kiến trúc
Kiến trúc ở Huế phong phú và đa dạng: có kiến trúc cung đình và kiến trúc dân gian,
kiến trúc tôn giáo và kiến trúc đền miếu, kiến trúc truyền thống và kiến trúc hiện
đại...Những công trình kiến trúc công phu, đồ sộ nhất chính là Quần thể di tích Cố đô
Huế hay Quần thể di tích Huế. Đó là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ
trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa
bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc
tỉnh Thừa Thiên-Huế, Việt Nam.
Lễ nhạc cung đình
Bắt nguồn từ 8 loại lễ nhạc cung đình thời Lê là giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, cửu
nhật nguyệt giao trùng nhạc, đại triều nhạc, thường triều nhạc, đại yến cửu tấu nhạc, cung
trung nhạc, đến triều Nguyễn lễ nhạc cung đình Việt Nam đã phát triển thành hai loại hình
Đại nhạc và Nhã nhạc (tiểu nhạc) với một hệ thống các bài bản lớn.
Vũ khúc cung đình[
Với trên 15 vở múa lớn, từ múa tế lễ, múa chúc tụng, múa tiếp sứ, múa yến tiệc, múa trình
diễn tích tuồng. Nhiều vở múa có tính hoành tráng, quy mô diễn viên đông, phô diễn được
vẻ đẹp rộn ràng, lấp lánh và kỹ thuật, kỹ xảo của múa hát cung đình Việt Nam thể hiện được
sự phát triển nâng cao múa hát cổ truyền của người Việt.
Ca Huế]
Nghệ thuật tuồng Huế.
Ca Huế là một hệ thống bài bản phong phú gồm khoảng 60 tác phẩm thanh nhạc và khí
nhạc theo hai điệu thức lớn là điệu Bắc, điệu Nam và một hệ thống "hơi" diễn tả nhiều sắc
thái tình cảm đặc trưng. Điệu Bắc gồm những bài ca mang âm điệu tươi tắn, trang trọng.
Điệu Nam là những bài âm điệu buồn, nỉ non, ai oán. Bài bản Ca Huế có cấu trúc chặt chẽ,
nghiêm ngặt, trải qua quá trình phát triển lâu dài đã trở thành nhạc cổ điển hoàn chỉnh,
mang nhiều yếu tố "chuyên nghiệp" bác học về cấu trúc, ca từ và phong cách biểu diễn. Đi
liền với ca Huế là dàn nhạc Huế với bộ ngũ tuyệt Tranh, Tỳ, Nhị, Nguyệt, Tam, xen
với Bầu, Sáo và bộ gõ trống Huế, sanh loan, sanh tiền.
Các Đia Danh
Núi Ngự Bình, gọi ngắn gọn là núi Ngự, trước có tên là Hòn Mô hay Núi Bằng (Bằng Sơn);
là một hòn núi đất cao 103 m ở bờ phảisông Hương (giữa Cồn Hến và Cồn Giã Viên), cách
trung tâm thành phố Huế (thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế, Việt Nam) 4 km về phía Nam [1].
Núi Ngự có dạng hình thang, đỉnh bằng phẳng [2], hai bên có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi
là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn [3].
Bởi núi có hình dạng như thế, nên khi chúa Nguyễn Phúc Trăn (ở ngôi: 1687-1691) dời thủ
phủ Đàng Trong từ làng Kim Long (thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên) về làng Phú
Xuân (chỗ của Kinh thành Huế ngày nay) vào năm 1687, đã dùng núi ấy làm án (chắn
ngang) trước thủ phủ. Về sau, khi chúa Nguyễn Phúc Khoát (ở ngôi: 1738-1765) xây dựng
đô thành Phú Xuân (hoàn tất năm 1739), và vua Gia Long xây dựng Kinh thành Huế (1805)
cũng đặt núi Bằng làm án [4].
Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn viết:
Ở phía đông bắc Hương Thủy, nổi vọt lên ở quãng đất bằng như hình bức bình
phong làm lớp án thứ nhất trước Kinh thành Huế, tục gọi là núi Bằng, đời Gia
Long đặt cho tên hiện nay (Ngự Bình), đỉnh núi bằng phẳng, khắp nơi trồng thông [5].
Sách Đại Nam dư địa chí ước biên của Tổng tài Cao Xuân Dục cũng viết về núi này như
sau:
Núi Ngự Bình, tục gọi là núi Bằng...vuông chằn chặn như bức bình phong, là bức án
trọng yếu bậc nhất phía trước Kinh thành...Núi này là một trong 20 thắng cảnh của
Kinh đô. (Trong) tập thơ ngự chế của vua Thiệu Trị, có (bài) tên: "Bình lĩnh đăng cao"
(Núi Ngự lên cao)[6]
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, thì từ thời Gia Long, tất cả các quan lại
không phân biệt phẩm trật lớn nhỏ, mỗi người đều phải trồng ở Ngự Bình một
cây thông, cho nên trải các đời vua, Ngự Bình trở thành một rừng thông vi vu[4]. Bởi
vẻ đẹp ấy, nên núi được nhiều người đến viếng và làm thơ đề vịnh, trong số đó có
vua Minh Mạng[7] và vua Thiệu Trị [8].
Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình hòa quyện vào nhau tạo nên vẻ sơn thủy hữu
tình của Huế, và đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế từ rất lâu. Vì vậy,
người ta quen gọi Huế là xứ sở của "sông Hương-núi Ngự" [9].
Có nhiều thơ ca nói đến cặp danh thắng này, trong số ấy có câu:
Núi Bạch Mã
Núi Bạch Mã hay Dãy Bạch Mã là một dãy núi đẹp, là ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Thừa
Thiên-Huế và thành phố Đà Nẵng. Dãy núi này nằm trong vườn quốc gia Bạch Mã.
Vị trí[
Núi là một phần của Dãy Trường Sơn chạy cắt ra sát biển. Nằm giữa tỉnh Thừa ThiênHuế và thành phố Đà Nẵng, nơi đây có đèo Hải Vân nổi tiếng nằm cách Huế 60 km về phía
Nam.
Đặc điểm
Núi Bạch Mã có đỉnh cao 1.444 m. Trên đỉnh núi hùng vĩ bốn mùa xanh tươi với thác
nước, suối, rừng,... Núi Bạch Mã còn là nơi quy tụ nhiều loạiđộng vật và thực vật quý hiếm ở
miền nhiệt đới. Bạch Mã nằm cách biển chỉ có 18 km nên hòa với không khí của rừng núi là
chút hương vị của biển.
Lịch sử
Cho đến đầu thế kỷ 20Bạch Mã chỉ là một khu rừng núi hoang sơ, chưa ai khai phá nhưng
đến cuối năm 1925, kế hoạch thành lập và bảo tồn khu vườn quốc gia gần Huế đã làm mọi
người chú ý đến vùng núi này.
Một kỹ sư người Pháp là Girard đã tổ chức khai phá vùng núi này vào năm 1932 nhằm phát
triển du lịch của Bạch Mã. Sự việc này gia tăng số lượng khu nghỉ mát ở trên núi gồm
các biệt thự, khách sạn và kéo theo đó là phát triển giao thông công cộng. Dù vậy các công
trình này chủ yếu phục vụ giới thượng lưu có tiền thời đó cùng các quan chức của Pháp.
Sau khi chiến tranh giữa Pháp và Việt Nam kết thúc vào năm 1954, Bạch Mã bị lãng quên
khiến các ngôi nhà xây trên núi bị thời gian phá dần. Phải đến năm 1960, chính phủ Việt
Nam Cộng hòa quyết định thành lập lại Vườn quốc gia Bạch Mã nhưng chiến tranh tiếp tục
kéo dài liên miên. Khu Bạch Mã được dùng làm căn cứ quân sự của quân đội Mỹ trong
chiến tranh.
Sau năm 1975 khi hòa bình lập lại, chính phủ đã có nhiều dự án phát triển trồng trọt tại khu
này nhưng vẫn thất bại do điều kiện thời tiết. Với sự thành lập chính thức Vườn quốc gia
Bạch Mã của chính phủ Việt Nam, Bạch Mã đã dần dần được bảo tồn và phát triển phục vụ
du lịch.
Kỹ thuật đàn và hát Ca Huế đặc biệt tinh tế nhưng Ca Huế lại mang đậm sắc thái địa
phương, phát sinh từ tiếng nói, giọng nói của người Huế nên gần gũi với Hò Huế, Lý Huế; là
chiếc cầu nối giữa nhạc cung đình và âm nhạc dân gian.
.
Chùa Thiên Mụ
Chùa Thiên Mụ(�天姥)
天姥寺 (Thiên Mụ tự)
Tháp Phước Duyên
Vị trí
Quốc gia
Địa chỉ
Việt Nam
Quần thể di tích cố đô Huế
Thông tin
Khởi lập
1601
Người sáng lập
Nguyễn Hoàng
Chủ đề:Phật giáo
Chùa Thiên Mụ (天姥) hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà
Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía
tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn
Hoàng -vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.
Lịch sử[
Bốn trụ biểu và các bậc thang dẫn lên chùa Thiên Mụ
Trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc
Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm1.
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn
thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở
mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi
vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên
bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại,
ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.
Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục
xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ
linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là
Thiên Mụ Sơn 2.
Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của
dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi,
ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là "Thiên Mụ".
Tên gọi
Dựa theo huyền thoại, đồng thời căn cứ hình dạng Hán tự từng ghi trên bao tài liệu cấu tạo
bằng nhiều chất liệu, đủ khẳng định rằng trong tên Thiên Mụ, ngữ tố "Thiên" có nghĩa là
"trời".
Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối dõi, nhà vua sợ chữ "Thiên"
phạm đến Trời nên cho đổi từ "Thiên Mụ" thành "Linh Mụ" (hay "Bà mụ linh thiêng").
Vấn đề kiêng cữ như đã nêu chỉ diễn tiến từ năm Nhâm Tuất (1862) cho tới năm Kỷ
Tỵ (1869). Sau đó, người dân thoải mái gọi hai tên: chùa Thiên Mụ và chùa Linh Mụ.
Vì rằng từ "Linh" đồng nghĩa với "Thiêng", âm người Huế khi nói "Thiên" nghe tựa "Thiêng"
nên khi người Huế nói "Linh Mụ", "Thiên Mụ" hay "Thiêng Mụ" thì người nghe đều hiểu là
muốn nhắc đến ngôi chùa này.
Một số người còn đặt tên cho chùa là Tiên Mụ (hay "Bà mụ thần tiên"). Cách gọi này không
được giới nghiên cứu chấp nhận.
Kiến trúc
Chính điện
Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên - Nguyễn Hoàng.
Dưới thời chúa Quốc -Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh
của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chúa Quốc
cho đúc một chiếc chuông lớn,nặng tới trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài
minh trên đó. Đến năm 1714, chúa Quốc lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình
kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng
Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa.
Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn,khắc vào bia lớn (cao 2m60,rộng 1m2) nói về việc xây
dựng các công trình kiến trúc ở đây,việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bộ kinh
Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng
Thạch Liêm - người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng
Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp.
Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở
thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã
từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu
tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn.
Năm 1844, nhân dịp mừng lễ "bát thọ" của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia
Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn:
xây thêm một ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương
Nguyện và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua.
Tháp Phước Duyên
Tháp Phước Duyên
Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21 m,
gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ
tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có
thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân
(bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo.Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay khi
gió thổi).
Trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình
Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái cho
xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ
giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và
một nhà để quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu.
Chùa Thiên Mụ được xếp vào 20 thắng cảnh đất Thần Kinh với bài thơ Thiên Mụ chung
thanh do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa.
Thiên Mụ Chung Thanh
Dịch thơ: Tiếng Chuông Thiên Mụ
Cao cương cổ sát trấn điền xuyên
Trên bến gò xưa chùa lập ra
Nguyệt tướng thường viên tự tại thiên
Bên trời tự tại mãi Gương Nga
Bách bát hồng thanh tiêu bách kết
Tiếng ngân trăm tám tan trăm oán
Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên
Thế giới ba ngàn giải nợ ba
Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm
Chuông động giữa trưa miền tối
Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền
Kinh gieo canh sớm đạo tăng gia
Phật tích Thánh công thùy hải vũ
Truyền công Phật Thánh tràn non nước
Thiện nhân tăng quả phổ cai diên.
Nhân quả ươm lành khắp chốn xa
Qua nhiều đợt trùng tu lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như tháp Phước Duyên,
điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm... cùng bia đá, chuông đồng, chùa Thiên Mụ
ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quí giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về nghệ
thuật. Những bức tượng Hộ Pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Tam Thế
Phật... hay những hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu những thời kỳ lịch sử vàng son của
chùa Thiên Mụ.
Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng ngày. Ở
đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam là Đào Tấn được đặt gần chiếc xe ô tô - di
vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối
chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963.
Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng của
chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo giúp
đời.
Hệ Thống Lăng
Lăng Gia Long
Lăng Gia Long còn gọi là Thiên Thọ Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm
1820 mới hoàn tất. Lăng thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Toàn bộ
khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ, trong đó có Đại Thiên Thọ là ngọn núi
lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này.
Lăng Minh Mạng
Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị cho xây dựng từ năm 1840 đến
năm 1843 để chôn cất vua cha Minh Mạng. Lăng nằm trên núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng
Lãng là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách cố
đô Huế 12 km.
Lăng Thiệu Trị
Lăng Thiệu Trị còn gọi là Xương Lăng nằm ở địa phận thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng, thị
xã Hương Thủy. Được vua Tự Đức cho xây dựng vào năm 1847 để chôn cất vua cha Thiệu
Trị. là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng
Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng
ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn.
Lăng Tự Đức
Lăng Tự Đức được chính vua Tự Đức cho xây dựng khi còn tại vị, là một quần thể công
trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc
làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy
Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn
Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên
thành Khiêm Lăng. Lăng có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong
những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.
Lăng Đồng Khánh
Lăng Ðồng Khánh còn gọi là Tư Lăng tọa lạc giữa một vùng quê thuộc làng Cư Sĩ, xã
Dương Xuân ngày trước (nay là thôn Thượng Hai, phường Thủy Xuân, thành phố Huế).
Nguyên trước đây là Ðiện Truy Tư được vua Đồng Khánh xây dựng để thờ cha mình là Kiên
Thái Vương. Khi Ðồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái (1889-1907)
kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên không thể xây cất
lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư đổi làm Ngưng Hy để thờ vua
Ðồng Khánh.
Lăng Dục Đức
Lăng Dục Ðức tên chữ An Lăng tọa lạc tại thôn Tây Nhất, làng An Cựu, xưa thuộc huyện
Hương Thủy, nay thuộc phường An Cựu, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố chưa
đầy 2 km; là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Ðức, Thành Thái và Duy Tân. Dục Đức
lên ngôi năm 1883 được 3 ngày thì bị phế trất và mất, sau này con ông là vua Thành
Thái (lên ngôi năm 1889) cho xây lăng để thờ cha đặt tên là An Lăng. Năm 1954, khi
vua Thành Thái mất, thi hài được đưa về chôn tại địa điểm hiện nay trong khu vực An Lăng
và được thờ ở ngôi điện Long Ân. Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được đưa về an táng
cạnh lăng Thành Thái.
Lăng Khải Định
Lăng Khải Định còn gọi là Ứng Lăng toạ lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên
ngoài kinh thành Huế là lăng mộ của vua Khải Định, vị vua thứ 12 củatriều Nguyễn. Lăng
được xây dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi. Về kiến trúc lăng Khải Định
được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi sự
pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim Cổ lạ thường, với các tác phẩm nghệ thuật ghép tranh
sành sứ độc đáo.
Các cung đình
Cung An Định tọa lạc bên bờ sông An Cựu, xưa thuộc phường Đệ Bát - Thị xã Huế, nay tại
số 97 đường Phan Đình Phùng, Thành phố Huế là cung điện riêng của vua Khải Định từ khi
còn là thái tử đến khi làm vua, sau này được Vĩnh Thuỵ thừa kế và từng sống ở đây sau khi
thoái vị.
Kiến trúc
Tranh tường
Cung An Định quay mặt về hướng nam, phía sông An Cựu. Cung có địa thế bằng phẳng,
tổng diện tích mặt bằng 23.463m2, chung quanh có khuôn viên tường gạch, dày 0,5m, cao
1,8m trên có hàng rào song sắt bao bọc [1]. Khi còn nguyên vẹn cung có khoảng 10 công
trình. Từ trước ra sau là: Bến thuyền, Cổng chính, đình Trung Lập, lầu Khải Tường, nhà hát
Cửu Tư Đài, chuồng thú, Hồ nước... trải qua thời gian và sự tàn phá của chiến tranh, đến
nay cung chỉ còn lại 3 công trình khá nguyên vẹn là Cổng chính, đình Trung Lập và lầu Khải
Tường. Cổng chính làm theo lối tam quan, hai tầng, trang trí bằng sành sứ đắp nổi rất công
phu. Đình Trung Lập, nằm phía trong cửa, kết cấu kiểu đình bát giác, nền cao. Trong đình
nguyên có đặt bức tượng đồng vua Khải Định, tỷ lệ bằng người thật, đúc từ năm 1920.
Tranh tường
Phục chế tranh tường tại Cung An Định dưới sự giúp đỡ của các chuyên gia bảo tồn Đức (thuộc Dự án đào
tạo, bảo tồn và phục chế của Đức - GCREP
Lầu Khải Tường nằm phía sau đình Trung Lập, là công trình kiến trúc chính của cung An
Định. Chữ Khải Tường (nghĩa là nơi khởi phát điềm lành), tên lầu là do vua Khải Định đặt.
Lầu 3 tầng, xây dựng bằng các vật liệu mới theo kiểu lâu đài châu Âu, chiếm diện tích tới
745m2. Lầu được trang trí rất công phu, đặc biệt là phần nội thất của tầng 1 với các bức
tranh tường có giá trị nghệ thuật rất cao.
Lịch sử[
Nguyên tại vị trí này từ năm Thành Thái 14 (1902), Phụng Hóa Công Nguyễn Phúc Bửu Đảo
(tức vua Khải Định sau này) đã lập phủ riêng, đặt tên là phủ An Định. Đến sau khi lên ngôi,
vào năm 1917 Khải Định đã dùng tiền riêng để cải tạo lại theo lối kiến trúc hiện đại. Đầu
năm 1919, công việc xây dựng hoàn tất, cung vẫn giữ nguyên tên gọi. Từ ngày 28/2/1922,
cung An Định trở thành tiềm để của Đông Cung Thái tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại về sau).
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, gia đình cựu hoàng Bảo Đại đã chuyển từ Hoàng cung
qua sống tại cung An Định. Sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tịch thu cung An
Định. Sau năm 1975, bà Từ Cung đã hiến cung An Định cho chính quyền cách mạng [1].
Cung An Định được sử dụng như một khu nhà tập thể cho gia đình các giáo sư Đại học
Huế và bị xuống cấp nghiêm trọng cho đến năm 2001 mới được phục hồi, trùng tu. Đến nay
sáu bức bích họa ở Khải Tường Lâu dưới sự giúp đỡ của CHLB Đức đã được phục hồi theo
phương pháp phục hồi hoàn nguyên và sử dụng các chất bảo quản nhằm ngăn chặn những
tác hại của môi trường, trả lại diện mạo vốn có của nó trong nội điện di tích cung An Định
[2][3]
Sau khi điện Long An (nơi đặt Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế) đóng cửa để thực hiện dự
án trùng tu, toàn bộ hiện vật của bảo tàng đã được đưa đến cung An Định để trưng bày [3].
Thành phố Huế có 27 đơn vị hành chính. Gồm 27 phường:
Phường
Phường
Phường
1. Phường An Cựu
2. Phường An Đông
3. Phường An Hòa
4. Phường An Tây
5. Phường Hương Sơ
6. Phường Kim Long
7. Phường Phú Bình
8. Phường Phú Cát
9. Phường Phú Hậu
10.Phường Phú Hiệp
11.Phường Phú Hòa
12.Phường Phú Hội
13.Phường Phú Nhuận
14.Phường Phú Thuận
15.Phường Phước Vĩnh
16.Phường Phường Đúc 17.Phường Tây Lộc
18.Phường Thuận Hòa
19.Phường Thuận Lộc
20.Phường Thuận Thành 21.Phường Trường An
22.Phường Vĩnh Ninh
23.Phường Vỹ Dạ
25.Phường Hương Long 26.Phường Thủy Biều
24.Phường Xuân Phú
27.Phường Thủy Xuân
.