Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Làm đường vào đồng văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 75 trang )

Làm đường vào Đồng Văn :Trường chinh vào trong
lòng đá
Ký sự dài kỳ của Đỗ Hoàng Duy Nguyên
Vài dòng với cao nguyên cao nhất Việt Nam
(VieTimes) -... Đường Hạnh Phúc là con đường có lịch sử phá đá thủ
công nhất, khủng khiếp nhất, đi qua biển đá tai mèo, đá phiến dữ dằn nhất Việt
Nam. Một Vạn lý trường thành của Việt Nam.

“Cung đường hình chữ em-mờ ngược (W) nổi tiếng trắc trở và… đẹp
mắt của cao nguyên Đồng Văn”.
Trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, có một vùng chính thức (hiếm hoi)
được “tôn xưng” là cao nguyên đá, với nhiều kỷ lục về nhan sắc núi rừng và… sự
khắc nghiệt của đá. Đó là vùng cao núi đá phía Bắc tỉnh Hà Giang, gọi theo đúng
tên khoa học của nó là cao nguyên Đồng Văn. Đây là nơi có mỏm tột Bắc (chữ
của nhà văn Nguyễn Tuân) Lũng Cú vòi vọi, nơi bắt đầu nét vẽ bản đồ tổ quốc.
Lâu nay nhiều người cứ lầm tưởng cao nguyên Đồng Văn chỉ gồm có
một mình địa giới hành chính huyện Đồng Văn bây giờ, nhưng thực ra, đó là cụm
từ chỉ vùng đất mênh mông núi đá gồm hầu như toàn bộ cả 4 huyện Quản Bạ -

1


Yên Minh - Đồng Văn - Mèo Vạc. Cao nguyên Đồng Văn là cao nguyên cao nhất
của toàn bộ đất nước Việt Nam, khoảng 1.600m so với mực nước biển (xin lưu ý,
Phanxipang cao 3.143m của dãy Hoàng Liên Sơn chỉ là đỉnh núi cao nhất Đông
Dương - chứ không phải với tư cách là một cao nguyên).
Sở hữu vùng cao nguyên có độ cao đệ nhất xứ sở, ngành du lịch thương
mại Hà Giang đã khá bài bản trong việc tổ chức các tua tuyến cho khách tự mình
lập kỷ lục: du thám mỏm đất tột Bắc ở bản Séo Lủng của người Lô Lô ở Lũng
Cú; tự hào đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng rộng 54m2 (tượng trưng cho đầy đủ các
dân tộc anh em trên đất Việt) bay trên mỏm đất “nơi bắt đầu nét vẽ bản đồ tổ


quốc”; thăm chợ tình Khâu Vai (Mèo Vạc), xa xôi, nguyên sơ nhất Việt Nam;
thăm di tích “nhà Vương” của những thủ lĩnh kiệt suất người Mông - như cha con
Vương Chí Sình (người từng được mệnh danh là “vua Mèo” với đội quân “hươu
nai” và đoàn ngựa thồ buôn thuốc phiện nổi tiếng) với những kỳ quan, và cả
những góc khuất ưu tư của lịch sử, của cái thời “đóng cổng trời nổi phỉ”, của con
đường “tận trung báo quốc/ bất thụ nô lệ” (chữ Hồ Chủ tịch tặng Vương Chí
Sình)...
Thế giới này, có lẽ, duy nhất người Hà Giang dám treo biển Cổng Trời
với tư cách một kỳ quan phục vụ du lịch. Cổng trời thường là một đỉnh núi cao
nhất trong khu vực, khi người ta đi qua đỉnh núi đó, đến nơi cao nhất, gặp một
hẻm núi vếch lên nền trời, nếu dừng lại, nhìn thẳng, cảm giác bạn bước một bước
nữa lên đến.. vùng đất của Giàng (trời). Nhìn qua hẻm núi, thấy mây gió vờn
nhau, luồng ánh sáng, luồng mây trắng hắt vào mặt ta như hình một họng pháo
lớn.
Các tỉnh miền núi cao thường có cụm từ cổng trời này, song không ở đâu
cổng trời trở thành thương hiệu như ở cao nguyên Đồng Văn. Cụm từ Đóng
Cổng Trời đã thành điển tích kể về một trang sử bi tráng, khi những phần tử lầm
lạc đóng cổng trời, đứng ở trên cao dùng súng hoả mai và lăn đá hộc chiến đấu
“một người địch được trăm người” chống lại cách mạng, hồi năm 1959.
Hồi người Pháp tấn công lên chiếm đóng cao nguyên Đồng Văn, chúng
cũng bị các chiến binh người Mông đóng cổng trời án ngữ trước biển đá vùng
Cán Tỷ, Quản Bạ khiến giặc Tây phải chơi hèn, lập kế vòng sang tận Cao Bằng
2


đánh tập hậu. Thế nên, đi dọc con đường Hạnh Phúc xuyên cao nguyên Đồng
Văn, bây giờ, bạn có thể gặp rất nhiều cái cổng trời.
Cách thị xã Hà Giang 43km là cổng trời Quản Bạ, thơ, nhạc mà người
Hà Giang ai cũng thuộc có đoạn gọi cổng trời Quản Bạ là “Vó ngựa biên cương
lộng gió ngàn”, rằng “Đứng trên Cổng trời Quản Bạ/Tưởng mình cưỡi gió ngắm

trần gian”.

“Là cao nguyên cao nhất Việt Nam, Đồng Văn trở thành nơi duy nhất
trên địa cầu dám treo biển “Cổng trời Quản Bạ” (Quan Ba heavens gate) để
phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước! Các thông số ghi trên tấm biển
Cổng trời quyến rũ như một trang thông tin… cổ suý cho ngành công nghiệp
không khói…”.
Nay, cổng trời được cắm biển đầy kiêu hãnh, nguyên văn chữ trắng viết
trên tấm biển sắt tây màu xanh khổng lồ như sau: “Cổng trời Quản Bạ/ Quan Ba
heavens gate (chữ heavens, tiếng Anh, hình như dịch là Thiên Đàng, người Mông
không quan niệm về Thiên Đàng, còn người Tây lại không có khái niệm Cổng
Trời). - Nơi đây có cổng làm bằng gỗ nghiến dày 150cm, làm vào năm 1939. Có
thể ra đóng vào mở. Đường Hạnh Phúc - Hà Giang qua đây từ năm 1962. Là
cửa ngõ đầu tiên lên Cao nguyên Đồng Văn. Độ cao trung bình so với mặt biển
1.500m, nhiệt độ trung bình 16 - 17 độ C. (Đứng trên cổng trời) Có thể quan sát
3


cánh đồng Quản Bạ, Cán Tỷ, Bát Đại Sơn... (Nơi đây) Để lại nhiều chiến công
trong quá trình dựng nước và giữ nước”.
Cao nguyên Đồng Văn quyến rũ tới mức, nó là điểm đến đắt khách và
phóng túng đệ nhất Việt Nam, mà tôi nghĩ, đã có quá nhiều thước phim, tấm ảnh,
trang sách báo kinh điển viết về “miền đá” thách thức và bí ẩn này, song ngần ấy
vẫn là chưa đủ.
Cái chưa đủ lớn nhất có lẽ là việc các nghệ sỹ của chúng ta luôn lãng
mạn hoá sự đói nghèo, khắc nghiệt của đá. Thí dụ rất thời sự là ống kính của các
nhà làm phim Chuyện của Pao chẳng hạn, họ đã tụng ca đá và cuộc sống của
Đồng Văn... như trong tiểu thuyết diễm tình. Tới mức, mỗi khi nghĩ đến cao
nguyên đá người ta chỉ nghĩ đến vẻ đẹp thuần khiết núi rừng.
Có nhiều người vội vã đi qua miên man bất tận đá của cao nguyên Đồng

Văn rồi cứ viết chữ, chụp ảnh, quay phim bừa phứa những cảm nhận thấy cây mà
chẳng thấy rừng của mình. Có một cao nguyên Đồng Văn tưởng tượng trong
không ít “tác phẩm” của những chàng nàng nghệ sỹ “thấy vui cũng vỗ tay vào”
kiểu ấy. Chúng ta sẽ bàn điều này vào một dịp khác).
Trở lại với cao nguyên Đồng Văn, có lẽ kỷ lục của tất cả các kỷ lục nằm
chính ở độ cao nhất Việt Nam của nó. Và, đá. Đây là vầng trán bằng đá tảng kỳ
vĩ, vòi vọi, chất ngất, dài miên man nhất Việt Nam (có lẽ vẫn phải nói thêm một
vài chữ “nhất” nữa). Đây là biểu tượng của đá, là khúc ca bi tráng của đá. Sự tụng
ca sức quyến rũ của đá. Có một nền văn hoá của những người kiêu hùng sống
trên đá. Bước chân của họ thật vạm vỡ, như cơ bắp của con báo hoang, như sải
cánh của chàng đại bàng núi.
Chỉ tính riêng con đường chạy dọc từ đầu đến cuối cao nguyên Đồng
Văn (tính trên lãnh thổ tỉnh Hà Giang) đã dài gần 200 km! Nhà xếp bằng đá hộc,
đá tảng, ruộng kè đá. Bà con cứ nhặt đá ra khỏi một vùng khoảnh sao cho ít đất
thẻo hiện ra, rồi dùng chính cái đá đó xếp viền thành tường rào, thế là được nhà
nước cho dăm ba triệu mà... canh tác.
Sống trên sự khắc nghiệt của đá, đến lúc chết, bà con cũng nằm dưới đá,
mộ kè xếp đá. Cao nguyên Đồng Văn là xứ sở của những dòng sông ngầm, sông
4


luồn sông lủi trong đá, thỉnh thoảng sông lại phun nước nhỏ ra ở một kẽ núi xa
xôi. Nước Việt Nam, vì thế không ở đâu thiếu nước sinh hoạt như vùng Mèo Vạc
của cao nguyên Đồng Văn. Câu chuyện nóng nhất ở đây, khiến các nhà khoa học,
đến giờ phút này vẫn đau đầu cãi cọ nhau, đó là khoan tìm nguồn nước cho bà
con sống được làm người.
Trong thời kỳ tạo sơn cách đây hàng triệu triệu năm, khoa học đã chứng
minh, mặt đất khi ấy còn mềm mụp, đá ở dưới lòng đất đã đội húc cho vỡ bửa lớp
đất phủ lên bề mặt mình, đá ào lên chờm nghịch lên bề mặt phía trên. Có một
mãnh lực khó hiểu của Tạo hoá, đá già đã tràn chất ngất lên trên (thay vì nằm

dưới). Nên cao nguyên Đồng Văn là nơi thống trị của đá.
Đá tai mèo xám ngoét, đá tãi ném chộn rộn, đá xám cả bầu trời biên ải.
Núi quá cao, dòng sông lại như nhát kiếm dữ tợn, với một mãnh lực khủng khiếp
xẻ đôi các đỉnh vòm của cao nguyên mà chảy tít dưới khe sâu. Sông Nho Quế là
một ví dụ. Sông như sợi chão nhỏ, nước trắng như bông ở xa xôi dưới đáy vực
nghìn mét, tới mức ta không còn nghĩ rằng nước sông vẫn đang chảy nữa. Những
hẻm núi từ Mã Pí Lèng trông xuống sông chất ngất. Mã Pí Lèng, theo tiếng quan
hoả tức là núi gồ lên như sống mũi con ngựa, núi cao tới mức con ngựa khoẻ của
chàng kỵ sĩ người Mông đi qua cũng phải gục ngã, ngất xỉu vì kiệt sức.
Với tất cả những chú giải khí hơi dài dòng kể trên, người viết bài này
muốn nói một vấn đề: đến tận năm 1959 (tức là khoảng 5 năm sau khi người
Pháp bị đánh bật khỏi Điện Biên Phủ và rút khỏi nước ta), cao nguyên Đồng Văn
vẫn chưa có đường để bánh xe có thể lăn vào.
Đường, từ trăm nghìn năm qua, ở cao nguyên này (trước năm 1963) chỉ
là đường mòn để cho người ta đi bộ, hoặc đi bằng ngựa thồ. Những kiếp cuốc bộ,
những bước chân ngựa Mèo trệu trạo, trồi thụt, nhục nhằn trên đá. Vùng đất
mênh mông, rợn ngợp chỉ có đá, đá và đá ấy chìm khuất trong mây, trong mông
muội, thiệt thòi. Và cả trong bí ẩn, với ít nhiều lầm lạc. Có lẽ, bấy giờ, năm 1959,
khi quyết định mở đường, người ta cũng không hiểu miền đá rộng và khắc nghiệt
đến rợn người Đồng Văn khủng khiếp tới mức nào. Chỉ biết rằng, không mở
đường thì không có cách nào đánh thức được cao nguyên đá.

5


Trung ương quyết định mở đường vào Đồng Văn - Mèo Vạc, suốt 6 năm
trời, hơn hai triệu công lao động của thanh niên xung phong 6 tỉnh của Việt Nam
đã mở được 160km đường từ thị xã Hà Giang vào Mèo Vạc. Xin nhắc lại là: hơn
hai triệu ngày công, với lưu lượng ngày nào cũng có cả nghìn thanh niên (chưa kể
dân công nghĩa vụ) đổ máu, đổ mồ hôi, lao động thủ công phá đá mở đường

trong 6 năm ròng để có được con đường 160km xuyên qua biển đá mênh mông.
Con đường ấy, Trung ương đặt tên là Đường Hạnh Phúc, thật ý nghĩa.
Có cả một nghĩa trang ở huyện Yên Minh hiện nay, dành để tưởng nhớ những
chàng trai cô gái đến từ 8 tỉnh của Việt Nam đã ngã xuống cho con đường Hạnh
Phúc được ra đời.
Tiếp đến là con đường Quyết Thắng dẫn từ Yên Minh ngược thẳng Mèo
Vạc rồi vòng qua Đồng Văn cũng chồng chất khó khăn như đường Hạnh Phúc.
Bây giờ, chúng ta có hai con đường lịch sử: gồm đường Hạnh Phúc (nối Hà
Giang - Yên Minh - Đồng Văn - Mèo Vạc) và đường Quyết Thắng (nối Yên
Minh - Mèo Vạc); hai con đường chạy thành hình vòng thúng (gần tròn) như đôi
tay bà mụ xâu chuỗi từng bản làng, nâng bước, vực cao nguyên Đồng Văn thức
dậy từ hoang sơ, cam khó, tận khổ.
Trước khi kết thúc lời “dẫn chuyện” dài dòng này, tôi xin nói về vài chữ
nhất nữa: đường Hạnh Phúc là con đường có lịch sử phá đá thủ công nhất, khủng
khiếp nhất, đi qua biển đá tai mèo, đá phiến dữ dằn nhất Việt Nam. Một Vạn lý
trường thành của Việt Nam.
Con đường ra đời, lần đầu tiên 8 vạn bà con sống trong biển đá ngờm
ngợp của cao nguyên Đồng Văn được trông thấy cái... ôtô. Đó là một đại công
trường mà lịch sử nước nhà không nên quên lãng như chúng ta đã đối xử với nó
trong gần nửa thế kỷ qua.
(Lưu ý, đường QL6 từ Hoà Bình lên Điện Biên Phủ khoảng 400km được
phá đá phát tuyến suốt gần 20 năm, hoàn thành năm 1941 - nên có thời gọi là
Đường 41 - do viên Công sứ Pháp Sanhpulốp làm tổng chỉ huy thi công - nên có
thời gọi là đường Sanhpulốp. Đó cũng là một con đường mà lịch sử phải đau đẻ
khốc liệt lắm mà ngày nay loài người mới có được, song so với đường Hạnh

6


Phúc thì QL6 đã mở trên nhiều miền đất bằng phẳng, với cơ bản là cao nguyên

núi đất, lại do thực dân bắt phu phen làm dưới sự thúc bách dã man của sự xâm
lăng, của súng ống và doi cặc bò đánh thẳng tay. Đó là một câu chuyện khác
hẳn).
11 tháng treo mình trên vách đá để làm được một khúc đường dốc

“Tấm bia ghi nhớ sự kiện thanh niên xung phong 16 dân tộc thuộc nhiều
tỉnh thành của Việt Nam phải 11 tháng treo mình trên vách đá để mở đường vào
Mèo Vạc. Bia đặt trên đỉnh đèo Mã Pí Lèng huyền thoại”.
Bây giờ, trên đỉnh Mã Pí Lèng có một tấm bia đá (lại là đá) tưởng nhớ
cuộc chiến khốc liệt với đá này, như sau: “Nhân dân vùng núi tiến kịp vùng xuôi.
Trung ương Đảng khi về Việt Bắc quyết định mở đường Hà Giang - Đồng Văn Mèo Vạc. Ngày khởi công 10/9/1959; ngày hoàn thành 10/3/1965. Thành phần
mở đường gồm bà con của 16 dân tộc thuộc các tỉnh Cao Bắc Lạng - Hà Tuyên
Thái - Nam Định - Hải Dương. Riêng dốc Mã Pì Lèng, công nhân đã treo mình
11 tháng để mở đường”.

7


Những dòng chữ khiêm tốn, giản dị, mờ tỏ trong mây mù ở cái nơi mà
nhìn sông Nho Quế chỉ bé như sợi chão vắt ngang các triền thung lũng xanh như
có như không ấy chỉ là lát cắt tí tẹo của một cuộc trường chinh dài dằng dặc của
tuổi trẻ Việt Nam chiến thắng sự khốc liệt của đá.
2. 11 tháng treo mình trên vách đá và một khúc đường dốc
(VieTimes) - Cả quãng Đồng Văn - Mèo Vạc hai mươi bốn cây số
đường núi đá này phải làm mất một năm rưỡi, nhưng riêng chỗ dốc Mã Pí Lèng,
(chiết tự ra là) Xống - mũi - ngựa này thì phải tốn mất mười một tháng treo mình
trên vách đá để đục mìn, bổ đá khắc đá ra mà cấn mặt đường vào vách đá đứng
thành vại...

“Đường Hạnh Phúc Đồng Văn - Hà Giang hiện nay đã thênh thang

chạy qua những vách đá cao và rất nhiều ngọn núi ủ trong mây mù.

8


Nhưng, cách đây gần nửa thế kỷ, lịch sử đã ghi tạc: có khi, để tiến lên
được 1km đường khảm giữa cao nguyên đá, hàng nghìn thanh niên xung phong
đã phải “chiến đấu” với đá tai mèo suốt cả mười mấy mùa trăng. Và ngày nay,
chúng ta đã phải có một nghĩa trang riêng để tưởng nhớ những người đã ngã
xuống cho con đường Hạnh Phúc được khai sinh…”
Bây giờ, trên đỉnh Mã Pí Lèng có một tấm bia đá (lại là đá) tưởng nhớ
cuộc chiến khốc liệt với đá này, như sau: “Nhân dân vùng núi tiến kịp vùng xuôi.
Trung ương Đảng khi về Việt Bắc quyết định mở đường Hà Giang - Đồng Văn Mèo Vạc. Ngày khởi công 10/09/1959; ngày hoàn thành 10/03/1965. Thành phần
mở đường gồm bà con của 16 dân tộc thuộc các tỉnh Cao Bắc Lạng - Hà Tuyên
Thái - Nam Định - Hải Dương. Riêng dốc Mã Pì Lèng, công nhân đã treo mình
11 tháng để mở đường”.
Những dòng chữ khiêm tốn, giản dị, mờ tỏ trong mây mù ở cái nơi mà
nhìn sông Nho Quế chỉ bé như sợi chão vắt ngang các triền thung lũng xanh như
có như không ấy đã chứa trong nó một phần thân phận của hàng triệu ngày công
lao động của nhiều nghìn người trẻ trong vài nghìn ngày xả thân lao động và hy
sinh…
Hàng nghìn người đã cống hiến thời tuổi trẻ hào hùng nhất của mình cho
đại công trường đường Hạnh Phúc (còn gọi là Đường Thanh niên Việt Bắc) sẽ
mãi mãi không thể quên cái ngày 10/09/1959, khi mà cuộc trường chinh vĩ đại
vào trong lòng đá được nổ súng lệnh.
Phải mất ít nhất 7 tháng trời để người ta có thể chuẩn bị đủ nhân, tài, vật,
lực, bà con 16 dân tộc tỉnh Hà Giang và nhiều tỉnh bạn mới có được sự khởi đầu
nan kia. Dụng cụ chỉ là búa, xà beng, cuốc xẻng và sức trẻ xả thân xây dựng cuộc
sống mới, hầu như không có sự trợ giúp gì của máy móc. Cả công trường hàng
nghìn người trẻ “đập đá vá trời” suốt đêm ngày, mà chỉ có hai cái xe ôtô tải cũ

mèm chạy ì ì như công nông và chục con ngựa thồ tiếp phẩm đi lại như con thoi.
Thứ duy nhất tiếp sức cho những “ông bà Nữ Oa” xông vào phá đá kia,
đó là kíp mìn, thuốc nổ. Dùng xà beng, khoan đục đá, nhét thuốc nổ vào, đá bửa
ra, đập đá làm đường. Cứ như thế, 6 năm ròng, hơn 1.000 thanh niên xung phong

9


lúc nào cũng đủ lưu lượng trên biển đá, cộng thêm hơn 1.000 dân công nghĩa vụ
nai lưng ra đập đá nữa, con đường Hạnh Phúc có bề mặt rộng 4,5m cho ôtô đi, cứ
nhích từng xăngtimét một chiến thắng sự lạnh lùng khắc nghiệt khó tưởng tượng
của cao nguyên đá Đồng Văn.
Hôm khởi công, ông Trịnh Văn Đảm, 74 tuổi, nay là Phó ban liên lạc
thanh niên xung phong tỉnh Hà Giang, người trực tiếp thi công công trình còn
nhớ rất rõ: khởi công từ km số 1 (tại thị xã Hà Giang hiện nay) đến km số 10,
nhằm ngày 10/09/1959, có Bí thư tỉnh uỷ Hà Giang Nguyễn Văn Xã và Chủ tịch
Uỷ ban hành chính (nay là ủy ban nhân dân) tỉnh Dương Mạc Thạch đến dự rất
long trọng. Các đồng chí cùng 1.200 thanh niên xung phong tỉnh Hà Giang bổ
nhát cuốc đầu tiên phát lệnh khởi công mở đường Hạnh Phúc.
Sau 1 năm khởi công, gian khó trong các chặng đường đánh đá (đặc biệt
là các trận địa đá nằm cách thị xã Hà Giang khoảng 20km) gian nan quá sức
tưởng tượng, được sự quan tâm đặc biệt của lãnh đạo Khu tự trị Việt Bắc (bấy
giờ Hà Giang là một tỉnh nằm trong sự quản lý của Khu), số lượng thanh niên
xung phong có mặt tại công trường đã lên tới con số 1.039 người (!), cộng thêm
lực lượng quan trọng nữa là lực lượng công nhân nghĩa vụ thường xuyên có
khoảng 1.000 - 1.200 người. Sức người đến từ các tỉnh bạn như Tuyên Quang,
Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, giai đoạn sau cả những người trẻ
đến từ Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hải Dương...
Xin hãy tưởng tượng, hơn 2.000 người hồ hởi dùng cái sức cơ bắp nhỏ
bé của mình “gãi” ngày đêm vào khối đá cao cả nghìn mét, dài rộng mỗi bề hàng

trăm cây số ấy. Đường Hạnh Phúc mở đến đâu, hệ thống đường về các xã (từ trục
đường Hạnh Phúc), hệ thống trường học, trạm xá, hệ thống điện chiếu sáng cũng
đã manh nha hình thành hòng đưa miền đá hoang sơ này tiến dần kịp miền xuôi.
Một khúc tráng ca của sức người. Một trang sử đá hào hùng.
Nhiều nhà văn nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Chế Lan
Viên, Tố Hữu... đã lên với đại công trường mở đường Hạnh Phúc trên cao
nguyên Đồng Văn và xúc cảm về sức người, sự khốc liệt của đá.

10


Trong bài ký “Mỏm Lũng Cú tột Bắc” (đề gửi nhà văn Đoàn Giỏi), ông
Nguyễn Tuân viết: “Núi Hà Giang hùng vĩ nhiều cổng trời, ngựa Hà Giang thon
vó và mượt mã... Tôi tới Hà Giang nhiều lần, và mỗi lần tới là lại được đi trên
những khúc đường, những con đường mới mở. Hình như lúc nào Hà Giang cũng
nắn đường, nối đường, mở đường. Mở đến đâu, khánh thành ngay, thông xe
ngay, dù chỉ là từng cung một (...). Trên đường vào Mèo Vạc, tôi dừng xe ở dốc
Mã Pí Lèng, đúng chân tấm bia đá ghi công những người mở đường. Cả quãng
Đồng Văn - Mèo Vạc hai mươi bốn cây số đường núi đá này phải làm mất một
năm rưỡi, nhưng riêng chỗ dốc Mã Pí Lèng, (chiết tự ra là) Xống - mũi - ngựa
này thì phải tốn mất mười một tháng treo mình trên vách đá để đục mìn, bổ đá
khắc đá ra mà cấn mặt đường vào vách đá đứng thành vại.
Ba năm trước, cũng vào tiết thu tôi đứng ở mép vực Mã- pí- lèng nhìn
dòng sông Nho Quế như thế này. Hồi ấy, phá đá để khai đường, ầm ầm cây lao
xuống vực, ầm ầm đá lao xuống dòng sông tít tắp dưới kia, có hòn đá to bằng cái
tủ áo nhưng chỉ lộn nhào vài chục vòng là tan vụn ra thành khói. Và ầm ầm vang
dậy những cuộc cuốc mìn, nhưng tan hết khói mìn, tan hết bụi đá, thì chỉ thấy tắc
đường (...). Đến đây là cùng đường, trước mặt chỉ có đá. Phải gọt đá đi mà tiến
vào phía trước. Phải đục đá mà tiến tới. Trong trận đánh nhau này họ là nam nữ
trai tráng gồm mười sáu dân tộc và quê hương thuộc tám tỉnh trên miên Bắc...”

(Trích Tuyển tập Nguyễn Tuân, nhà xuất bản Hội Nhà văn).

11


“(Lần lượt từ trái qua) Ông Minh, ông Thuỳ, ông Đảm và ông Sùng Đại
Dùng - những người trực tiếp tham gia phá đá mở đường tại đại công trường
đường Hạnh Phúc Hà Giang - Đồng Văn kể chuyện với phóng viên Vietimes.
Ông Dùng, vốn là người phụ trách công tác Đoàn Thanh niên trong cả đại công
trường, sau này là Chủ tịch đầu tiên của huyện Mèo Vạc, làm đến Chủ tịch mặt
trận tổ quốc tỉnh Hà Giang (nay đã về hưu)”.
Ông Nguyễn Mạnh Thuỳ và khoảng 70 cựu thanh niên xung phong mở
đường Hạnh Phúc đang sống ở thị xã Hà Giang hiện nay còn nhớ rất rõ những
ngày mồ hôi và máu họ đã đổ trên cung đường phá đá này. Ông Minh, người trực
tiếp mở đường vượt Mã Pí Lèng bây giờ vẫn khoẻ, vẫn mũ phớt hào hoa kể
chuyện yêng hùng treo mình trên vách đá khoét lỗ nhét mìn.

12


Ông Minh được gặp nhà văn Nguyễn Tuân tại công trường, rồi rất thần
tượng ông nhà văn khụng khiệng ấy, để đến nỗi, bây giờ ông nhiễm luôn cả cái sở
thích quanh năm đội mũ phớt của “bác Tuân mũi to”. Ông Đảm, ông Thuỳ, ông
Minh cùng chùng lòng xuống khi nhắc đến sự hy sinh của đồng đội khi đánh đá
vượt Mã Pí Lèng. Danh sách những người nằm lại với đá Đồng Văn trong quá
trình mở đường, ông Đảm nắm rất chi tiết. Song, người mà họ nhớ nhất là ông
Đào Ngọc Phẩm.
Anh Phẩm người Thái Nguyên, đã có vợ và hai con, hy sinh khi đang
cùng Đội cơ dũng (đội những người cơ động, khoẻ mạnh, dũng cảm, cảm tử) thi
công khúc phá đá nguy hiểm nhất của dốc Mã Pí Lèng.

Bấy giờ anh Phẩm đang là đối tượng cảm tình Đảng (có rất nhiều người
được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng với lễ kết nạp ngay tại công
trường). Đó cũng là thời điểm mà công trình đường Hạnh Phúc sang Mèo Vạc đi
vào giai đoạn sắp hoàn thành. “Công nghệ” của chúng ta bấy giờ đã cao! Bằng
chứng là Trung ương cấp cho Đội cơ dũng một cái máy khoan (duy nhất một cái),
có thể khoan được lỗ trên vách đá nhét thuốc nổ vào (thay vì khoan tay toàn bộ
như mấy năm trước, kể từ khi thi công, năm 1959).
Đội cơ dũng đã có một sáng kiến tuyệt vời, họ dùng toàn bộ choòng (xà
beng 8 cạnh) - trước đây dùng để khoan lỗ nhét thuốc nổ - cắm dọc vách đá xám
cao hàng trăm mét Xống-mũi-ngựa. Rồi anh em dùng dây buộc vào các cái cọc
(xà beng) cắm chi chít ven vách đá cao cả nghìn mét so với... mặt sông Nho Quế
rồi cảm tử đu người trên các sợi dây đó mà dùng máy khoan khoan đá.
Khoan lỗ xong, họ lại đu mình trên các sợi dây vắt dọc hàng cọc xà beng
trên vách đá mà tìm chỗ nấp nú. Tìm chỗ an toàn, bắt đầu khai hoả nổ mìn. Đá
rơi như trời long đất lở. Cứ thế, họ tiến từng bước dọc khối đá to như... quả đất
của Mã Pí Lèng, nhích từng xăngtimét vào phía Mèo Vạc.
Phá đá vất vả quá, anh em còn sáng tạo ra cách dựng bờ kè giật cấp
(nhằm tạo ra những mặt đường rộng 4,5m, kiên cố cho ôtô đi). Trong xây dựng,
mép đường phía mép vực sâu gọi là tả luy âm (vì ngã xuống đó dễ đến với cõi âm
hơn cả?), mép đường phía vách đá gồm cả khối núi còn lại gọi là tả luy dương.

13


Việc treo mình 11 (là 335 ngày!) tháng vượt Mã Pí Lèng quá sức vất vả,
anh em bảo nhau để đỡ tốn sức, đỡ tốn mìn, cho thợ đá lành nghề dùng các phiến
đá lớn kê các bờ kè lớn thòi ra phía mép vực để đường được rộng hơn. Đường
qua dốc Xống-mũi-ngựa bấy giờ rộng 4,5m. Đỡ tốn sức, tốn mìn phá đá phía tả
luy dương. Vì bốn bề là đá, cho nên việc kè giật cấp (mặt đường rộng hơn về phía
mép vực so với phần cốt đường) rất là an toàn.

Hôm ấy, đánh đá đến khu vực phải phá bỏ cây gỗ nghiến mọc trên vách
đá cao, cây to tới 3 người ôm, ai cũng xuýt xoa tiếc của trời đất nguyên sơ. Làm
xong, mọi người chuẩn bị nghỉ trong một vách đá lớn thì có hai bố con người đàn
ông Mông đi qua. Vách đá quá cao, hòn đá lớn nó lăn như cơn lốc. Anh Phẩm lao
ra đẩy hai bố con người thanh niên Mông tấp vào vách đá. Một hòn đá to bằng
cái thúng bất ngờ ập tới, nó nện thẳng vào đầu anh Phẩm. Hất anh bay xuống
vực. Thi thể anh mắc ở mép đá cách chỗ mặt đường vừa vỡ đá khoảng 900m sâu.
Đồng đội, trực tiếp là ông Minh, ông Thuỳ phải khoan lỗ, đóng cọc xà
beng dọc mép đá, rồi trườn như con mối dách xuống chỗ thi thể dập nát của anh
Phẩm. Dây chão to bằng cổ tay được buộc vào người ông Minh. Nhìn xuống
dòng Nho Quế nhờ nhờ trắng, bé tẹo chảy trong sương mù, ai nấy chóng mặt.
Nhưng nghĩa tử là nghĩa tận. Khi ông Minh trườn dọc vách đá dựng trời
như “người dơi”, sờ được vào xác anh Phẩm thì xác đã đông máu lại rồi. Đá đè,
lại thêm lúc rơi, đầu anh Phẩm cắm xuống vách đá tai mèo. Xương sọ vỡ nát, sờ
vào da đầu chỉ thấy lạo xạo như cái túi đựng sỏi.
Trong đêm tối bịt bùng, anh em ngồi nhìn thi thể người đồng đội xấu số,
nghe tiếng nai tác trong rừng nghiến (loại gỗ vào hàng tứ thiết mọc trên núi đá)
mà ai nấy rùng mình. Ông Đình là C trưởng quản lý đội của anh Phẩm, ông Vũ
Đắc Điểm, bấy giờ là chỉ huy công trường đã có mặt, quan tài được mang đến tận
nơi (khu vực Pả Vi), người ta mai táng anh Phẩm gần một gốc đa.
Được gặp Tố Hữu, Nguyễn Tuân, lại được xem đoạn phim đen trắng
người ta quay mình đang đội mũ đánh choòng (dùng xà beng khoan lỗ nhồi mìn)
vào năm 1966-1967, có thể nói, ông Minh trở về từ công trường với tâm trạng

14


của một người thanh thản được cống hiến cho miền Bắc núi đá gian khó của Hà
Giang đi lên.
Là người Hải Dương xung phong lên đại công trường, rồi ăn đời ở kiếp

với Hà Giang, đã quen với núi rừng và chứng kiến nhiều cảnh thảm khốc, song,
ông Minh đến tận giờ phút này vẫn bị ám ảnh bởi cái chết của người đồng đội
Đào Ngọc Phẩm. Nhìn thấy máu là cái cảnh cheo leo vách đá Mã Pí Lèng buộc
mình vào dây thừng, buộc thi thể rập nát của đồng đội vào dây thừng rồi ra hiệu
cho người ta kéo lên giữa trời và đá lại hiện về. Vợ ông Minh được hạ lệnh cấm
nấu món thịt gì mà nhừ mềm quá.
“Nghĩ đến một món ăn mềm mụp là tôi lại buồn nôn, lại buốt lòng nghĩ
đến người đồng đội xấu số đã chết ở Pả Vi năm xưa” - ông Minh nói rồi câm lặng
nhìn ra sông Lô đục nhờ đầy lau lách giữa thị xã Hà Giang thời mới.
Với những thanh niên xung phong như ông Minh, cái thuở hào hùng phá
đá làm đường vào Mèo Vạc kia đã thực sự làm thay đổi đời họ và sẽ hoài niệm ấy
sẽ còn theo họ đến suốt cả một đời. Ông Hoàng Văn Hộ nhớ mãi ngày mình cứu
sống ông Ngô Minh Hoà, người ở Gia Lộc, Cao Lộc, Lạng Sơn. Sắp nghỉ rồi,
trông thấy hòn đá “ngon ăn” quá, đá to bằng gian nhà nằm lẻu bểu bên mép vực.
Ông Hoà bảo, để tao “ăn” (đẩy xuống vực mở đường) nốt hòn này cho
nó gọn, rồi đi ăn trưa nhân thể. Ông Hộ can ngăn vì thấy mép vực quá sâu mà
hòn đá thì chông chênh, cái “biển đá” ấy nó có thể kéo những con người nhỏ bé!
Nhưng ông Hoà (bấy giờ ngoài 20 tuổi) vẫn quyết tâm “ăn” hòn đá kia.
Ông dùng một cái xà beng, đu người lên bẩy. Cho tôi một điểm tựa, tôi
sẽ nâng cả trái đất lên, kiếm cái tay đòn (xà beng) dài một chút. Để an toàn, ông
buộc dây vào ngang lưng mình, một đầu buộc vào cái gốc gỗ nghiến cây to bên lề
đường. Ai dè! Hòn đá văng đi, cái xà beng bật lên như cái cật tre, vút bay xuống
ngàn mét vực sâu, biến mất đến… tận bây giờ.
Viên đá lăn như một mảnh của “Ngũ hành sơn” trong Tây Du Ký. Ông
Hoà bay theo, dây an toàn giữ ông lại với gốc cây nghiến, nhưng gốc cây cũng bị
núi lở làm cho sắp bị kéo xuống vực. Tất cả diễn ra trong tích tắc, như một cú trời
long đất lở Ông Hoà cố bám dây leo lên, vừa lúc ông Hộ kịp ra cứu.
15



Vừa cắt dây an toàn thì cây nghiến như bị Thạch Sanh đánh gốc, dần
dần, từ từ lăn xuống hẻm núi. Mãi sau này, ông Hộ và ông Hoà gặp nhau vẫn
thấy sự kinh hãi trong cú bạt núi “kinh thiên động địa” ấy. Ông Hoà thường đùa,
lẽ ra tôi đã chết hôm ấy rồi, giờ thì khó chết lắm đấy. Vậy mà, tuổi già đã kéo ông
Hoà đi về thiên cổ cách đây chưa lâu.
Ông Nguyễn Văn Đức đang hào hứng với việc kè đá tiến dần cho đường
ôtô vào đến khu vực nhà của Vương Chí Sình thì bỗng dưng bị khối đá bứng đi.
Ông lao sang bên kia mép vực, đầu gối húc vào mép đá cao, thủng cả cái quần
kaki mới diện. May sao, trong tích tắc, trời cho ông bám được một rễ cây ở bên
kia mép vực. Và ông leo lên, rễ cây vẫn không bị… đứt.

“Bộ trưởng Bộ Giao thông lúc bấy giờ, ông Phan Trọng Tuệ (áo trắng,
đang cười, đứng thứ 9 từ trái sang) tại lễ thông xe đường Hạnh Phúc Hà Giang Đồng Văn. Ảnh chụp tại Đồng Văn. Ông Đảm áo đen, thứ hai từ trái sang. Ảnh
do ông Đảm cung cấp”.
Thật ra thì, xét kỹ, trong hàng vạn lượt thanh niên xung phong, thanh
niên nghĩa vụ làm đường Hạnh Phúc trong suốt 5 năm trời kia, công tác an toàn
lao động đã được thực hiện xuất sắc. Sự hy sinh tính mạng như kể là vô cùng
16


thảm khốc, vô cùng đau xót, nhưnng cũng là ở mức… không nhiều. Sức cống
hiến và con đường tiến từng xăng ti mét vào Đồng Văn - Mèo Vạc của nhiều
nghìn lượt người trẻ mới là kỳ vĩ. Mới là ngoài sức tưởng tượng.
Có câu chuyện rất thật mà nhiều cựu thanh niên xung phong làm đường
Thanh niên Việt Bắc cùng kể với tôi, rằng: chính những người tối mặt tối mũi
chiến đấu với biển đá, trong suốt 5 năm ròng kia, họ cũng không có lúc nào
ngẩng mặt lên cổng trời để thấy những gì mình vượt quá nó vĩ đại tới mức nào.
Mãi sau này, ngồi ôtô, ở tuổi cổ lai hy, vượt cổng trời Quản Bạ, rẽ mây
mù Mã Pí Lèng, anh chị em mới cùng thót tim: độ ấy mình hăng thật! Tuổi thanh
niên như chim tung bay thật! Nếu ai đã sống trong những ngày, tại công trường

có tổ chức cả triển lãm về tấm gương khi tổ quốc cần, sẵn sàng tự chặt tay mình
ngoài trận tuyến La Văn Cầu; tấm gương đội đất rụng trụi cả tóc mây của nữ anh
hùng thuỷ lợi Trần Thị Vách; triển lãm về phong trào cờ Ba Nhất, gió Đại Phong,
sóng Duyên Hải… thì mới cảm nhận được cái tráng chí xả thân của người trẻ trên
công trường làm đường Hạnh Phúc lúc bấy giờ.
Sự chờ đợi của tám vạn đồng bào Đồng Văn - Mèo Vạc, ở phía sau mấy
cái cổng trời; những người chưa hề biết đến bánh xe tròn từ cuộc sống văn minh
kia mới là lời hiệu triệu thiêng liêng nhất. Tổ quốc nơi địa đầu đang đang gọi
người trẻ xông lên tuyến đầu để được cống hiến. Tuổi trẻ, bao giờ cũng là như
thế.
3. Hạnh Phúc của những trang sử đá (Phần 1)
Thứ hai, 4/6/2007, 15:46 GMT+7
(VieTimes) - Sáu năm trời ròng rã, tính ra, ít nhất có tới hai triệu ngày
công các chàng trai cô gái quằn quại đánh nhau với đá. Và họ đã chiến thắng đá.
Hơn tám vạn đồng bào sống sau mấy cái cổng trời đã lần đầu tiên được thấy cảnh
ôtô lăn bánh vào quê hương mình. Liệu có niềm kiêu hãnh nào hơn thế, hỡi
những phu đường thiện nguyện tuổi đôi mươi?
Có nhiều người đã ngã xuống khi con đường chưa được hoàn thành,
nhưng dọc đường làm đường ôtô chinh phục cao nguyên Đồng Văn, từng khúc
núi được phá đá, anh em đã gọt đá tạo những tấm bia tạc tên đơn vị thi công, tạc
17


tên quê quán anh em “phu đường”, đồng thời ghi rõ ngày khởi công ngày khánh
thành cung đường khảm giữa đá. Đã có hàng trăm trang sử đá như thế.
Cũng có nhiều người đang buồn da diết vì cái nỗi đường rải nhựa ngày
mới này, công nghệ làm đường thời mới của thế kỷ 21 đã nhẫn tâm xoá hết
những dấu tích của con đường xưa, kể cả những tấm bia đá tạc. Một thái độ
không phải tí nào với xương máu và mồ hôi của cha anh.
Có người lại uất ức vì thế hệ cán bộ tỉnh bây giờ thậm chí không cho các

cựu Thanh niên xung phong nghèo một chuyến ôtô thăm lại chiến trường xưa.
Hàng trăm người ở nhiều tỉnh, đề đạt mãi, xin xỏ mãi vẫn chưa một lần có kinh
phí để được họp mặt anh em, để được trở lại Quản Bạ - Yên Minh - Đồng Văn Mèo Vạc mà họ đã oai dũng cống hiến một thời; để sống lại một lần nữa cái thời
hào hùng “chân đi nát đá dạ còn ngẩn ngơ” ấy - trước khi về với ông bà tổ tiên.
Nhiều người đã ở tuổi gần đất xa trời. Vẫn chưa được coi là cựu Thanh
niên xung phong, chưa được nhận kỷ niệm chương Thanh niên xung phong. Có
người, khi ban liên lạc cố công làm hồ sơ để vinh dự được nhận kỷ niệm chương,
đồng đội chưa kịp làm lễ trao thì “cụ” đã tịch. Mỗi lần gặp lại đồng đội từng “vào
sinh ra tử” với đá sáu năm trên cao nguyên đá, họ đều ngậm ngùi khóc. Tuy
nhiên, dẫu dỗi hờn, tủi tủi một chút, những người cầm xà beng thực hiện cuộc
trường chinh lớn nhất lịch sử dân tộc vào trong lòng cao nguyên đá vẫn hiểu
rằng: không có ai quên lãng cái thuở phá đá mở đường ấy cả. Cái gì thuộc về lịch
sử thì lịch sử tự khắc biết giữ gìn và tôn vinh.
Đó là một kỳ tích, mà đời người ta không phải ai cũng may mắn được
tham gia, để thấy mình đã sống không vô nghĩa, đã biết tình nguyện cống hiến vì
những đồng bào chịu nhiều thiệt thòi sau rất nhiều dãy núi đá. Quan trọng hơn, là
họ đã trưởng thành từ trong gian nan của biển đá.
Phần 1: Đá mọc trên đầu người thì Việt Minh mới mở được đường vào
Đồng Văn!

18


Đường Hạnh Phúc năm 2007, vẫn chon von thách thức trong hun hút
mây mù, người Mông vẫn còn nghèo, đi chân đất hái cỏ ven đường nhựa. Nhưng,
nhớ cái ngày phỉ nó thách “đá mọc trên đầu người” thì Việt Minh mới mở được
đường qua cổng trời thì sự thức dậy của cao nguyên Đồng Văn quả là một kỳ
tích. Như một giấc mơ.
Theo cuốn Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang, tập 2 (1955-1975, xuất bản
năm 2000 thì: “Ngày 14 tháng 12 năm 1959, chúng (phỉ) đánh chiếm Lũng Phìn

(...) bắt và mổ bụng hai cán bộ thương nghiệp, bắn chết hai người dân địa
phương.
Ngày 20 tháng 12 năm 1959, Phàn Chỉn Sài chỉ huy một toán quân đánh
vào Na Khê, sau đó xuống Bạch Đích bắt hai cán bộ huyện treo lên cành cây làm
bia cho bọn phỉ tập bắn”. (Sđd, trang 141).
Con đường Hạnh Phúc - Đồng Văn - Mèo Vạc được mở bắt đầu từ năm
1959 đến năm 1965 mới xong, giữa lúc thi công thì có sự kiện buồn: nổi phỉ.
Những phần tử lầm lạc của thời ấy đã đóng cổng trời, mổ bụng cán bộ,
giết nhiều người. Thậm chí anh em nằm lán còn không dám thắp đèn măng-xông
sợ phỉ nó lăn đá sát hại.
Thêm nữa, người Pháp, vẫn được xem là con ma xó chăm chắm lo khai
thác cái vựa thuốc phiện nổi tiếng trên toàn cõi Đông Dương của cao nguyên
19


Đồng Văn (với sản lượng 25 tấn/năm, lớn nhất trong các “vựa” ở Việt Nam),
nhưng, họ vẫn chưa bao giờ làm được một khúc đường ôtô vào Đồng Văn - Mèo
Vạc.

Các nữ TNXP lao động tại công trường Đồng Văn - Hà Giang với hình
thức “giải phóng đôi vai”, dùng băng ca vận chuyển đất đá. Ảnh chụp
ngày17/7/1960 (tư liệu)
Chỉ có đường mòn, đường của ngựa thồ. Điều đó đủ để chúng ta hiểu nổi
gian nan khi mở đường Hạnh Phúc. Và sự trắc trở trong giao thông là nguyên
nhân chủ yếu khiến vùng đất mênh mông đá này chìm trong mông muội suốt một
thời gian dài.
Còn nhớ, khi con đường rậm rịch được mở, những phần tử chống đối
(phỉ) tung tin nghi ngờ: bao giờ đá mọc trên đầu người thì Việt Minh mới mở
được đường vào Đồng Văn. Bao giờ con dê đực nó biết đẻ, bao giờ ngôi mộ
người làm đường biến thành cỏ dại thì đường mới vượt qua được Mã Pí Lèng.

Ông Sùng Đại Dùng, nay là Phó Chủ tịch mặt trận tổ quốc tỉnh Hà
Giang, nguyên là người phụ trách toàn bộ Đoàn viên trong toàn bộ lực lượng
Thanh niên xung phong ở đường Hạnh Phúc nhớ lại: nhà tôi giờ vẫn ở đầu cầu
Gạc Đì này, đường khởi công từ cổng nhà tôi mà ngược mãi về phía Bắc, vào
tận Mèo Vạc. Độ ấy, khởi công tháng 9 năm 1959, vừa thi công được 9km đầu
20


tiên thì nổi phỉ. Phỉ nó vận động nhiều bà con thôi không tham gia làm đường
nữa, cầm súng bắn lại người cách mạng. Phức tạp quá, trên mới điều nhiều thanh
niên xung phong quay sang sửa sân bay để (dự định sẽ) nhảy dù xuống Lao Và
Chải tiễu phỉ. Ta bắn moóc-chie vào đám phỉ ở chỗ cổng trời Cán Tỷ, phỉ nó bỏ
chạy, nhiều tên thịêt mạng. Xong đâu đấy, tỉnh mới có chỉ thị, giao cho tôi đi
tuyển và đón thanh niên các tỉnh lên giúp Hà Giang làm đường Hạnh Phúc,
“chinh phục” cao nguyên Đồng Văn.
Khổ sở nhất là vách đá chỗ từ cây số 17-20 của đường Hạnh Phúc, toàn
bộ là khoan tay, mất mấy tháng trời mới vượt qua được vài cây số này. Còn đoạn
Mã Pí Lèng, phải khiêng nước từ dưới vực sâu lên, đổ vào lỗ khoan tay, treo
mình trên vách đá, anh em khoan kẽo kẹt từng xăngtimét đá một. Người ta tính
ra, nhiều đoạn, mất đến hơn 20.000 ngày công cho một cây số đường vỡ đá, xếp
đá, kè đá (không rải chất liệu gì lên trên) để ôtô ì ì đi được. Lại có người buồn
bã thống kê, có khi, hai mùa trăng qua đi, mà con đường Hạnh Phúc bị đá tảng
án ngữ, chỉ tiến lên được có một khúc chưa đầy trăm mét.
Rõ ràng, từ xưa đến nay, ngay cả bố con “vua Mèo” Vương Chính Đức,
Vương Chí Sình thuốc phiện mênh mông, tiền bạc và quyền lực đổ núi nghiêng
trời trên cõi Đồng Văn, họ cũng có dám làm đường đâu. Họ phải cho lính dõng
và phu phen khiêng võng khiêng cáng rồi cưỡi ngựa ba ngày ròng mới vượt
đường hẻm núi đi từ Sà Phìn ra đến ngoài thị xã cơ mà.
Khi Vương Chí Sình là đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng
hoà (năm 1946) rồi, Bác Hồ mời ông ta về Hà Nội họp hẳn hoi, ông ta cũng vẫn

phải tuyển tráng đinh được trời sinh có từng đụn thịt đệm dưới gan bàn chân (như
chân mèo, chân báo) để khênh ông ta từ Sà Phìn (Đồng Văn) ra thị xã Hà Giang
(từ đó có ôtô đón) cơ mà. Phải đi mất ba ngày đường ròng rã.
Vậy mà cái đường mòn ấy, người Pháp và người các thổ ty người địa
phương vẫn phải giao cho chức sắc ở từng xã, từng bản phụ trách “duy tu bảo
dưỡng” cực kỳ nghiêm khắc (để một hòn đá lăn ra đường quan là chức sắc địa
phương dính đòn quan trên) thì ngựa và người đi bộ mới đi được đấy.

21


Như thế thì làm gì có ai tin được là: người cán bộ miền xuôi “bạch diện
thư sinh” của “Chính phủ Cụ Hồ” có thể làm đường ôtô vào Đồng Văn được?!
Song, thực tế thì con đường, dù gian khó vẫn lùi lũi từng ngày từng giờ
chiến thắng sự thống trị của cao nguyên đá. Cao nguyên như bé nhỏ dần sau mỗi
khúc đường thông xe, và một tấm đá của cao nguyên lại được những anh thợ trẻ
người Ninh Bình, Nam Định đẽo gọt thành một tấm bình phong có khắc chữ
“Km... Đường Hạnh Phúc Hà Giang - Đồng Văn. Lực lượng thanh niên tỉnh X.
thi công.... Khởi công ngày...; hoàn thành ngày...”.

Ngoài việc dũng cảm phá đá tiến từng xăngtimét vào cao nguyên đá
khắc nghiệt, anh chị em rất tích cực tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống tại các
lán công trường thiếu thốn, khắc nghiệt (ảnh chụp năm 1960)
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm. Đường rồi cũng tiến vào đến tận
“dinh vua Mèo” (di tích nhà Vương hiện nay).
Khi ông Vương Chí Sình chết, khoảng năm 1962 gì đó, ôtô đã có thể đưa
thi hài của ông vào đến tận xã Phố Cáo rồi cơ mà. Từ đó, người ta chỉ khênh một
thôi đường nữa là về đến nơi an táng (thay vì đi bộ ba ngày như trước kia).
Bấy giờ, ông Đại Dùng được trên điều về làm Chủ tịch Uỷ ban hành
chính (Ủy ban Nhân dân) đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của

huyện Mèo Vạc - địa danh hành chính cấp huyện vừa mới tách ra từ huyện lớn
Đồng Văn. Có đường mới dám tách huyện. Khi đường mở vào đến trung tâm
22


huyện Đồng Văn (bấy giờ mấy huyện miền Bắc núi đá hiện nay cơ bản nằm trong
một huyện lớn Đồng Văn) thì niềm vui mở đường lên đến đỉnh điểm.
Bộ trưởng Bộ Giao thông, ông Phan Trọng Tuệ lên tận Đồng Văn dự lễ
thông xe cơ mà. Khi qua Sà Phìn (nhà Vương), thông xe, mấy ông già trong bản,
ra sờ thử cái ôtô kỳ lạ (lần đầu tiên trông thấy) rồi bảo nhau. Con ngựa này to hơn
con ngựa ở bản, chẳng thảo nó chạy nhanh thế”.
Cựu Thanh niên xung phong Viên Chi Anh (Lạng Sơn) tham gia mở
đường Hạnh Phúc nhớ mãi cái cảnh: xe ôtô thông đường đi rồi, 3 cây số sau, bà
đứng vệ đường để ý, vẫn nghe văng vẳng tiếng sủa đồng loạt của hàng trăm con
chó trong bản vắng. Có lẽ, loài vật trung thành và hồn nhiên cả đời mù mịt ở nơi
thậm hoang sơ kia, chúng không thể tưởng tượng được rằng: trên cõi trần lại có
một con quái vật kỳ lạ đến từ nền văn minh kỹ trị - là cái… ôtô!
Ông Nguyễn Mạnh Thuỳ thì kể câu chuyện ở Đồng Văn, mấy người già
nằm sấp xuống mặt đường ngó kỹ càng cả gầm xe ôtô rồi đưa ra kết luận: con
ngựa - xe ôtô - này không biết nó ăn cái gì mà đi khoẻ thế. Tao sờ vào nó, nó
không vẫy đuôi. Nó cũng không cho tao cưỡi thử, tao ghét nó, thể nào nó cũng
ốm chết. Lúc xe chạy, khói tuôn ra, cụ lại bảo: đấy nó bốc khói, sắp chết cháy;
lúc đèn phanh đỏ, đấy, nó cháy, lửa cháy hết cả đít con ngựa sắt rồi. Đít nó thành
than rồi. Nói thì bảo kể chuyện tiếu lâm, nhưng đúng là niềm vui của tám vạn bà
con chưa bao giờ biết đến cái đường ngoài đường mòn bé tẹo chỉ để đi bộ và để
ngựa nó đi là rất lớn.
Niềm vui của bà con rất mộc mạc.
Ông Sùng Đại Dùng, người được giao phụ trách công tác đoàn Thanh
niên của toàn bộ đại công trường mở đường Hà Giang - Đồng Văn hồi ấy kể:
“Năm 1962, khi sắp thông đường Hà Giang - Đồng Văn, phỉ vẫn quấy

nhiễu. Ta tiến hành xử bắn một số tên sừng sỏ, như Vàng Chỉn Cáo để làm
gương...”.
Khỏi phải nói ông Dùng - sau là Chủ tịch uỷ ban hành chính huyện Mèo
Vạc - vui đến mức nào khi mà con đường mà tham gia máu thịt để xây dựng đã
kéo vào tới cái huyện mà ông làm lãnh đạo.
23


Vả lại, hơn ai hết, ông Dùng là người cực kỳ thấm thía cái khổ của
những ngày Đồng Văn chỉ có duy nhất đường mòn vượt qua ba cái cổng trời. Bấy
giờ ông làm lính vệ quốc quân, phục vụ tiểu đoàn của lính dõng của “thủ lĩnh”
Vương Quỳnh Sơn. Mỗi lúc “cấp trên” đi đâu, ông Dùng và các phu được thuê để
khuân vác lại lục tục đi bộ, cõng lúc lỉu những quần áo, chăn màn, một khẩu súng
Mỹ và 50 viên đạn đồng.
Ông “sếp” thì cưỡi ngựa, ông Dùng và phu phải lục tục cuốc bộ theo sau.
Sếp dừng thì ông Dùng và mã phu lại chạy vạy kiếm thóc cho ngựa ăn, lấy nước
cho ngựa uống, trải chăn chiếu mắc màn bóp chân, tẩm quất cho sếp sau cả ngày
trời trồi thụt trên lưng ngựa. Sáng ra lại đóng gói lên đường từ lúc trời còn tinh
sương.
Ngày đầu, leo núi từ Phó Bảng, quan Yên Minh, leo dốc cổng trời, nghỉ
đêm ở Cán Tỷ... Đêm thứ hai ngủ ở Quyết Tiến. Đi như thế, suốt ba ngày trời thì
ra đến thị xã Hà Giang. Cho nên, khi con đường ôtô vào đến Mèo Vạc, ông Dùng
cảm nhận rất rõ sự thức dậy của cao nguyên Đồng Văn vòi vọi núi và xám ngoét
đá. Ông hiểu sức con người thật kỳ diệu.
Những ngày mưa dầm gió bấc, sống trên đá lạnh đến dưới âm mấy độ.
Gió rít, rét buốt như muốn long từng đốt ngón tay ngón chân ra. Lại càng đói.
Đói hơn là khi đường tiếp phẩm bị sạt. Cả chục ngày ngựa thồ và xe tải không
vào được. Anh em bảo nhau ăn ngô sống tự cứu mình trước khi trời cứu!

24



Những cảnh mở đường phá đá kỳ vĩ như thế này, vẫn và sẽ còn diễn ra
trong công cuộc đưa miền núi tiến kịp miền xuôi của chúng ta!
Phần 2: Bí đỏ muôn năm, vạn tuế su su...
Năm nay 67 tuổi, ông Nguyễn Mạnh Thuỳ, cựu thanh niên xung phong
làm đường từ Đồng Văn qua Mã Pí Lèng vào Mèo Vạc nhớ rất rõ nỗi khổ và cả
tinh thần lạc quan các mạng của hàng nghìn thanh niên đem da thịt phàm trần
chọi nhau với miên man núi ở cái nơi nhiều đá nhất Việt Nam ấy. Ông kể, anh
em thanh niên xung phong, từ Đồng Văn, có khi muốn ra tỉnh phải đi bộ, chờ xe
mất đến mấy ngày trời. Cả tỉnh Hà Giang có hơn hai chục cái xe, cái nào cũng cũ
nát như... công nông.
Ông Đỗ Đức Mai, hơn ai hết là người rõ nhất “nội tình” này, bởi ông là
người được tổ chức điều từ Lạng Sơn lên làm công tác cung ứng lương thực thực
phẩm cho đoàn người mở đường trên đá vào Đồng Văn. Ông cho biết, cả công
trường khi ấy chỉ có 10 con ngựa thồ và hai cái xe tải cũ do hai ông Quang và
Bình lái. Đường mới vỡ đá, cua quá gấp, lại bị sạt lở, nên cả hai cái xe đều được
anh em nhớ như in là nó đã từng hơn một lần rơi… xuống vực.
Kỷ niệm đau nhất của ông Mai, không chỉ là những hình nhân xanh như
tàu lá vì sốt rét ác tính, những cuộc “tống tiễn” thê lương vì “giữa đường đứt
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×