BÀI TIỂU LUẬN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN MAC-LÊNIN
Success Group | 2016-2017 | 07-03-2017
THÀNH VIÊN:
1/ Nguyễn Đức Huy
2/ Nguyễn Ngọc Như Trang
3/ Đỗ Thị Tâm
4/ Phạm Minh Trường
5/ Nguyễn Đình Tới
6/ Phan Anh Tuấn
7/ Lê Đình Tuấn
8/ Nguyễn Thị Diệu Thiện
9/ Phạm Tiến Hưng
GIỚI THIỆU VỀ NHÓM SUCCESS:
Chúng tôi tìm kiếm sự thành công với mong muốn chinh phục
đỉnh cao, hoàn thành ước nguyện. Chúng tôi tìm kiếm thành
công để khẳng định vị trí của mình trong lòng người khác. Khi
thành công, chúng ta biết mình là ai, mình làm được những gì,
và những người xung quanh chúng ta sẽ hạnh phúc hơn, vui vẻ
PAGE 2
hơn khi biết rằng chúng ta thành công sau những nỗ lực hết
mình.
PHƯƠNG CHÂM SỐNG Ý NGHĨA:
Để đi đến thành công, phải đi đến dăm ba lần thất bại, trải qua
muôn vàn khó khăn và đấu tranh tư tưởng lớn, vì chỉ cần chùn
lòng một chút thì mọi thứ sẽ trở về con số 0 tròn trĩnh. Đằng
sau sự thành công là sự cố gắng không ngừng của bản thân, sự
động viên khích lệ của bạn bè, người thân. Con đường thành
công không bao giờ trải toàn hoa hồng, những người thành
công hoàn toàn dựa trên sức lực của bản thân, họ phải trải qua
thời gian khó khăn và chông gai để bước đến ánh sáng huy
hoàng. Vậy nên chúng ta hãy không ngừng cố gắng, sẽ có ngày
chúng ta sẽ thành công.
LỜI MỞ ĐẦU
“Nói đi đôi với làm” hay “Lý luận gắn liền với thực tiễn” là
một trong những nguyên tắc cơ bản và tổng quát được Chủ
tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo từ lý luận gắn liền với
thực tiễn của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn. Người đã
khái quát thành lý luận trong hoạt động thực tiễn nước ta và đã
trở thành bài học vô giá cho mọi thế hệ ở trong giai đoạn xây
PAGE 3
dựng và thống nhất đất nước. Phương châm “Nói đi đôi với
làm” đã trở thành hành động bất diệt trong thời đại Hồ Chí
Minh và nó luôn có giá trị thực tiễn sâu sắc, trường tồn, vĩnh
cửu. Có thể khẳng định rằng, nội dung “Nói đi đôi với làm” là
một trong những biện pháp căn bản nhất, thực tiễn nhất nhằm
ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, chỉ
có nói mà không làm. Người nói “ Thực tiễn không có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có
liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496)
I/ Khái niệm Thực tiễn và Lý luận:
1/ Thực tiễn là gì?
Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không
chỉ của lý luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ triết học
Mác – Lênin nói chung.
a) Quan điểm của triết học trước Mác:
PAGE 4
- Điđơrô (nhà triết học Pháp): hiểu chưa đầy đủ về thực tiễn,
cho rằng thực tiễn là hoạt động thực nghiệm khoa học trong
phòng thí nghiệm.
- Phoiơbắc (nhà triết học duy vật siêu hình người Đức): thực
tiễn chỉ là những hoạt động bẩn thỉu của các con buôn.
- Hêghen (nhà triết học duy tâm khách quan người Đức): thực
tiễn chỉ là khái niệm, tư tưởng thực tiễn chứ không phải bản
thân thực tiễn với tư cách là hoạt động vật chất.
b) Quan điểm triết học mácxít:
- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang
tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã
hội.
- Hoạt động thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động
vật chất của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất (để
phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận), hay nói
theo thuật ngữ của Mác là hoạt động vật chất "cảm tính" của
con người.
- Hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc trưng và bản chất của
con người, được thực hiện một cách tất yếu khách quan và
PAGE 5
được tiến hành trong các quan hệ xã hội, là hoạt động mang
tính năng động, sáng tạo, là phương thức tồn tại cơ bản của
con người và xa hội loài người.
- Hoạt động thực tiễn có ba dạng cơ bản, đó là:
• Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ
bản đầu tiên của thực tiễn, có vai trò quyết định đối với
các dạng hoạt động khác của thực tiễn. Vì: nó là hoạt
động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan,
thường xuyên nhất trong đời sống con người và nó tạo
ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định
đến sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội
•
loài người.
Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động của các cộng
đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những
•
mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc
biệt của thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện
do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng
thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các qui luật
biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
2/ Lý luận là gì?
PAGE 6
a)
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận là sự tổng kết kinh
nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự
nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử.1 Xét về
bản chất: lý luận là một hệ thống tri thức chặt chẽ mang tính
trừu tượng khái quát, đúc kết từ thực tiễn, được diễn đạt
thông qua các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật ...
phản ánh bản chất của sự vận động, biến đổi, phát triển của
sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.Lý luận là sản
phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình thành
trong mối quan hệ với thực tiễn.
b)
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận là hệ thống
những tri thức, được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn,
phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính
quy luật của các sự vật hiện tượng trong thế giới và được
biểu đạt bằng hệ thống, nguyên lý, quy luật, phạm trù.
c)
Lý luận có những đặc trưng :
- Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính
logic chặt chẽ.
PAGE 7
-
Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm
thực tiễn. Không có trí thức kinh nghiệm thực tiễn thì
-
không có cơ sở để khái quát thành lý luận.
Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản
chất, hiện tượng.
II/ Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn:
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ với nhau, tác động
qua lại nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định.
1/ Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận:
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý
luận đồng thời là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thực, lý luận.
Thực tiễn là nguồn gốc cơ sở sinh ra lý luận, nến không có
thực tiễn thì không có lý luận, thực tiễn cao hơn lý luận không
những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện thực trực tiếp.Sự
phản ánh vượt trước của lý luận qua nỗ lực sáng tạo của những
thiên tài ở những giai đoạn lịch sử nhất định xét cho đến cùng
thì cái làm nên sự vượt trước ấy cũng đã được nảy mầm từ
mảnh đất thực tiễn sinh động, đều do thực tiễn gợi ý mách bảo.
PAGE 8
Chỉ có thông qua thực tiễn con người mới vật chất hóa dược lý
luận vào đời sống hiện thực. Lý luận không có sức mạnh tự
thân mà chỉ có thông qua thực tiễn thì lý luận mới phát huy tác
dụng, mới tham gia vào quá trình biến đổi hiện thực.
Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với lý luận, Lênin viết:
"Thực tiễn cao hơn nhận thức, lý luận. Vì nó có ưu điểm
không những của tính phổ biến mà còn của tính hiện thực trực
tiếp".
2/ Vai trò tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn:
Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu
đó là lý luận khoa học và ngược lại có thể kìm hãm sự phát
triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản khoa học, phản động,
lạc hậu. Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt
động thực tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn,
vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành
công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Không có lý luận thì lúng
túng như nhắm mắt mà đi". Lý luận đem lại cho thực tiễn
những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát
PAGE 9
triển của thế giới khách quan, giúp con người xác định đúng
mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh được những sai
lầm, vấp váp. Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của
quần chúng tạo nên sức mạnh vật chất, điều chỉnh hoạt động
thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở nên tự giác,
chủ động, tiết kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những
mò mẫm, tự phát. Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và
phát triển của sự vật hiện tượng trong tương lai, từ đó chỉ ra
phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi
sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những
phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo
đúng đắn. Nếu dự báo không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm,
hậu quả xấu không thể lường được trong thực tiễn. Vì thế,
chức năng dự báo tương lai là chức năng quan trọng của lý
luận.Lý luận cách mạng có vai trò to lớn đối với thực tiễn cách
mạng. Lênin cho rằng: "Không có lý luận cách mạng thì không
thể có phong trào cách mạng". Mác thì nhấn mạnh: "Lý luận
khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực lượng vật
chất".Vai trò của lý luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt
trong giai đoạn mới của thời đại ngày nay, thời đại của cuộc
đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay go, phức tạp, cùng
PAGE 10
với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ. Ph. Ăngghen chỉ ra rằng: một dân tộc
muốn đứng trên đỉnh cao khoa học thì không thể không có tư
duy lý luận. Sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn đến sự khủng
hoảng về lý luận của chủ nghĩa xã hội trong thời gian qua là
một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của
chủ nghĩa xã hội nói chung, cụ thể là sự sụp đổ của chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trước đây.
III/ Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Theo quan điểm mácxít, lý luận và thực tiễn không tách rời
nhau mà giữa chúng có sự liên hệ, xâm nhập và tạo điều kiện
cho nhau cùng phát triển. Sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin. Chủ
nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý
luận và thực tiễn trong qúa trình hình thành và phát triển của
nó. Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn CM và lịch
sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức
lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó là ở chỗ
gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ
PAGE 11
sung trong thực tiễn. Chính vì vậy mà nó có vai trò cải tạo thế
giới chứ không chỉ giải thích thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin
nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng đã tìm thấy ở giai
cấp vô sản vũ khí vật chất của mình và giai cấp vô sản đã tìm
thấy ở triết học Mác – Lênin vũ khí tinh thần của mình.Lênin
từng nhắc nhở những người cộng sản ở các nước phải biết cụ
thể hóa chủ nghĩa Mác – Lênin cho thích hợp với điều kiện,
hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Lý luận cần phải được bổ sung
bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động.Hồ
Chí Minh cũng chỉ rõ: "Thống nhất lý luận với thực tiễn là
nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin. Thực tiễn không
có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" hoặc "Có kinh
nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt
mờ".
Ví dụ thực tiễn hiện nay có thể kể đến đến vấn đề nóng hổi
được báo chí nhắc đến rất nhiều hiện nay về lý luận NÓI đi đôi
với LÀM ngay ở nước ta.
Những ngày qua, thông qua phương tiện báo chí thông tin,
chúng ta có thể thấy có 1 số cán bộ thực hiện đúng nguyên tắc
PAGE 12
Nói đi đôi với Làm, cụ thể là PCT UBND Quận 1, ông Đoàn
Ngọc Hải đã thực hiện chủ trương pháp luật của Nhà nước,
«lấy lại» vỉa hè cho người đi bộ.
PAGE 13
Hình ảnh ông Hải chỉ đạo cho cẩu hàng chục chiếc xe biển
xanh về trụ sở vì cố ý đậu xe sai quy định lấn chiếm vỉa hè của
người đi bộ ở đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 1.
PAGE 14
Ngày 27/2/2017, Ông Hải cho lực lượng dở vọng gác của
Ngân hàng nhà nước Việt Nam tại quận 1 vì lấn chiếm đặt
vọng gác trên vỉa hè mà không trình xuất được văn bản giấy tờ
tường trình.
PAGE 15
Những ngày qua, ông đích thân chỉ đạo cho tháo dở các bảng
hiệu của những hàng quán lấn chiếm vỉa hè của người đi bộ ở
quận 1, TP. HCM.
IV/ Ý nghĩa phương pháp luận:
Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
có ý nghĩa rất quan trọng, giúp chúng ta tránh được bệnh kinh
nghiệm cũng như bệnh giáo điều và rút ra được những quan
điểm đúng đắn trong nhận thức và cuộc sống. Trước hết, cần
phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
PAGE 16
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực
tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai
lý luận, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung
phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực
tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn
giữaấy, sách vở, xa rời thực tiễn. Đồng thời cần phải phát huy
vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát huy vai trò của lý
luận yêu cầu phải nâng cao trình độ tư duy lý luận, đổi mới
phương pháp tư duy cho toàn Đảng, toàn dân nghĩa là chuyển
từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, từ tư duy siêu hình,
duy tâm sang tư duy biện chứng duy vật; đổi mới công tác lý
luận, hướng công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống
đặt ra, làm rõ những căn cứ khách quan của đường lối chính
sách của Đảng. Nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận
với thực tiễn thì sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều.
1/ Bệnh kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm,
nhận thức và hành động chỉ dựa vào kinh nghiệm, đề cao vai
trò thực tiễn, hạ thấp lý luận, không chịu học hỏi để vương lên,
không coi trọng việc tổng kết thực tiễn để khái quát thành lý
PAGE 17
luận. Thể hiện ở chỗ tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường lý
luận, “chỉ biết tối ngày vùi đầu vào công tác sự vụ”, ít đào sâu
suy nghĩ, nhất là đối với những người trình độ văn hoá kém, ít
quen đọc sách và suy nghĩ, áp dụng kinh nghiệm một cách
thiếu sáng tạo.
2/ Bệnh giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận
thức và hành động chỉ dựa vào lý luận, coi lý luận là "chìa
khóa vạn năng" cho tư duy và hành động, bất chấp điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể. Thể hiện ở chỗ: coi tri thức là chân lý tuyệt
đối, là cứng nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi vào bệnh lý
luận suông, không biết cụ thể hóa lý luận cách mạng cho thích
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng lúc, từng nơi, không
biết bổ sung lý luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động và
vận dụng một cách máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng
tạo vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện
thực mà không chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể đối tượng,
mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và thực 3 tiễn.
Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có
nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là lý luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng.Để khắc phục hai căn bệnh trên
PAGE 18
cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, thường
xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, đồng
thời phải coi trọng lý luận, nâng cao trình độ tư duy lý luận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “phải học tập tinh thần chủ
nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng giải quyết cho tốt
những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”.
Từ nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giưa lý luận
và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phê phán sai lầm của chủ nghĩa
kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Khi đặt vấn đề phải học
tập lý luận theo Người, học lý luận không phải để thuộc lòng
từng câu từng chữ, cũng không phải học lý luận để đem loà
thiên hạ, để kiêu ngạo, để mặc cả với Đảng, để trở thành
những người lý luận suông. Mà mục đích học tập lý luận để tự
cải tạo mình, để tránh mò mẫm, để đỡ phạm sai lầm trong
công tác, để hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ cách mạng mà
Đảng và nhân dân giao phó. Học tập lý luận là cốt áp dụng vào
thực tế và khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý
luận bằng những lý luận mới sinh ra từ trong thực tiễn.
V/ Sự vận dụng của Đảng ta:
PAGE 19
1/ Trước đổi mới:
Do chưa nhận thức đầy đủ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử
tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, chưa gắn lý
luận với thực tế điều kiện, hoàn cảnh ở nước ta nên đã chủ
quan, nóng vội, bỏ qua những bước đi cần thiết. Một trong
những sai lầm trong chính sách của Đảng trong thời kỳ trước
đổi mới là xuất phát từ căn bệnh giáo điều, xuất phát từ sự lạc
hậu, yếu kém về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự yếu
kém về lý luận làm cho chúng ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa
Mác Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén sơ lược,
không đến nơi đến chốn, CNXH được hiểu một cách giản đơn,
ấu trĩ. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta bắt chước rập khuôn mô
hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của
bộ máy nhà nước. Hoặc áp dụng máy móc theo học thuyết của
Mác về kinh tế là phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp dụng vào
nước ta, Đảng đã có biểu hiện nóng vội trong việc tiến hành
cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần kinh tế mà
không thấy được vai trò quan trọng của các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đảng ta cũng vấp
PAGE 20
phải những sai lầm trong việc đề ra chủ trương, đường lối,
chính sách phát triển đất nước: Chủ trương tập trung cho công
nghiệp hóa đất nước mà chủ lực là phát triển công nghiệp nặng
mà không chú ý đến điều kiện vật chất và lực lượng sản xuất
của ta còn chưa tương xứng, với xuất phát điểm còn rất thấp từ
một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính, trình
độ lực lượng sản xuất không cao, sản xuất thủ công là chủ yếu.
Có thể nói việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là sản xuất và
đầu tư, chúng ta thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi
nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế. Sự nhận
thức giản đơn, yếu kém trong việc vận dụng xơ cứng lý luận
vào trong còn thể hiện ở việc hiểu và vận dụng chưa đúng các
quy luật khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở
nước ta (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các quy luật sản
xuất hàng hoá, quy luật thị trường...), quá nhấn mạnh một
chiều vai trò của quan hệ sản xuất, của chế độ công hữu, chế
độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển
lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ.Mặt khác, duy trì quá
lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, quá tập trung quyền
lực nhà nước, dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền
PAGE 21
kinh tế đất nước, bao cấp trong phân phối ... làm cản trở sự
sáng tạo, tạo nên sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội. Cũng
trong thời kỳ này chúng ta đồng nhất kinh tế thị trường với chủ
nghĩa tư bản, coi nhẹ những giá trị, những thành tựu mà nhân
loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản; muốn nhanh chóng xoá
bỏ sản xuất hàng hoá, xoá bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xem kinh tế
thị trường, sản xuất hàng hóa đối lập với CNXH là do căn cứ
một cách cứng nhắc vào luận điểm của Mác và Ăngghen rằng
Chủ Nghĩa Cộng Sản à xóa bỏ buôn bán; cùng với việc xã hội
nắm lấy những tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hóa cũng bị
loại trừ và do đó sự thống trị của hàng hóa đối với những
người sản xuất cũng bị loại trừ. Thực ra những luận điểm của
CácMác và Ăngghen chỉ là những dự đoán về giai đoạn phát
triển cao của chủ nghĩa cộng sản chứ không phải nói về giai
đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản : giai đoạn chủ nghĩa xã hội.
Ngược lại, trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội, Mác đã nhấn
mạnh : đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ
nghĩa, vì vậy về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần
nó vẫn còn mang những dấu vết của xã hội cũ, nói cách khác,
hệ thống kinh tế – xã hội của CNXH còn mang nhiều dấu ấn
PAGE 22
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy, làm sao
xóa ngay được cái “dấu vết” đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là
kinh tế hàng hóa cũng như không thể xóa bỏ chế độ tư hữu
ngay lập tức mà chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách
dần dần.Hậu quả của những sai lầm xuất phát sự nhận thức yếu
kém về lý luận và xa rời thực tiễn đã làm cho đường lối chính
sách của Đảng ta đề ra không phù hợp với thực tiễn nên đất
nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội : Nhiều
vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn,
mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có
những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát
triển; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm
trọng; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân,
tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy
đủ, thậm chí bị xói mòn. Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch
hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động thiếu năng động
và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định
tiềm tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén lại Tình
trạng thiếu hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời
sống xã hội. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của
Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Trên thực tế,
PAGE 23
đến cuối những năm 70, đất nước đã thực sự lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng
cộng sản và Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức
phát triển mới có khả năng đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất là phải
tháo gỡ các ràng buộc về cơ chế và thể chế để giải phóng các
nguồn lực phát triển của đất nước. Đại hội IV chưa xác định
được những mục tiêu của chặng đường đầu tiên. Cụ thể là
trong 5 năm 1976 – 1980, đảng ta chủ trương đẩy mạnh công
nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, cụ thể là đã đề ra những chỉ tiêu kế
hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất,
không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền
kinh tế, chỉ thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những
công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết căn bản
vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Đại hội V đã cụ thể hóa một bước đường lối
kinh tế trong chặng đường trước mắt, đề ra những mục tiêu
tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế, xã hội nhưng trong
chỉ đạo thực hiện đã không quán triệt đầy đủ các quy luật
khách quan, chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội chủ
PAGE 24
quan và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ
cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế.
Cụ thể là đã chưa thật sự coi trọng phát triển nông nghiệp, coi
nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách đối với công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp.
Về xây dựng cơ bản, vẫn thiên về xây dựng các công trình quy
mô lớn nhưng chưa thật cấp bách, kém hiệu quả dẫn đến sự
phân tán về tiền vốn và vật tư.Trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, đi đôi với việc ra sức xây dựng những cơ sở và lực
lượng kinh tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt các
cơ sở và lực lượng kinh tế sẵn có bằng những hình thức và
bước đi thích hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng, nhất
quán những quan điểm, chủ trương chính sách chỉ đạo công
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đã có những biều hiện nóng vội
muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế tư bản tư nhân,
nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh.
Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, ít chú ý đến những đặc
điểm. tính chất của từng ngành, từng nghề, không tính đến khả
năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực cán bộ, có
xu hướng muốn tổ chức ngay các hợp tác xã quy mô lớn. Nhấn
mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà
PAGE 25