Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH ĐIÊU KHẮC CHĂM PA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.56 KB, 15 trang )

NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH ĐIÊU KHẮC CHĂM PA
A. MỞ ĐẦU
Người Chăm là một dân tộc sinh sống lâu đời trên lãnh thổ Việt Nam.
Vương quốc Chăm Pa ( còn gọi là Chàm, Chiêm Thành ) được thành lập
năm 605, từ vương quốc Lâm ẤP (Lin Yi) nới ra một số vùng dọc bờ biển
miền Trung Việt Nam, đi từ các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, qua Thừa
Thiên – Huế và Đà Nẵng, xuống đến N inh Thuận, Bình Thuận.
Trong lịch sử phát triển, họ đã sản sinh ra một nền văn hóa rực rỡ, độc
đáo. Nghệ thuật Chăm Pa nói chug và nghệ thuật điêu khắc nói riêng là một
trong những đỉnh cao về văn hóa, văn minh Chăm Pa, đồng thời nó đã góp
phần cống hiến những di sản quý báu trong kho tàng nghệ thuật Việt Nam và
nhân loại.
Nghiên cứu điêu khắc Chăm pa ta sẽ thấy ở đó những nét đặc sắc riêng
biệt mà không thể gặp ở bất kì một nên văn hóa nào khác. Ở giai đoạn nào,
phong cách nào, nền điêu khắc Champa cũng bộc lộ một cá tính thẩm mỹ
độc đáo, gây ấn tượng mạnh bằng một ngôn ngữ tạo hình riêng.
Điêu khắc Champa là một trong những bằng chứng vật chất, là nguồn
tư liệu gốc có giá trị giúp chúng ta trong việc nghiên cứu văn hóa, văn minh
và lịch sử của vương quốc Champa cổ.
B. LỊCH SỬ CHĂM PA
Vương quốc Chăm Pa là một quốc gia độc lập, tồn tại liên tục qua các
thời kỳ từ năm 192 đến năm 1832 , lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi
Hoành Sơn ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía Nam và từ biển Đông cho
đến tận miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay.

1


Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian(Phía đông
Indonesia-Nam Philippines) di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào
thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ 1 và thứ 2 trước Công nguyên.


Nằm ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít
Champa thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở
phía Bắc và Chân Lạp ở phía tây Nam, Nguyên Mông. Tuy nhiên dấu ấn
mạnh nhất vẫn là các cuộc chiến tranh với Đại Việt, không như các cuộc
chiến với Chân Lạp và Trung Quốc, những cuộc chiến tranh với người Việt
đã làm vương quốc Chăm Pa lần lượt mất lãnh thổ và dần suy yếu dẫn tới
sụp đổ.
Từ sau năm 1471 Champa chỉ còn từ đèo Cù Mông, Phú Yên ngày nay
trở về Nam gồm hai địa khu Kauthara(Khánh hòa,Phú Yên) và
Panduranga(Ninh Thuận-Bình Thuận)
Sau năm 1471, một vị tướng của Vijaya là Bố Trì Trì chạy sang ẩn náu
ở miền nam và tự tôn mình là vua của Champa,xin làm nước chư hầu của
Đại Việt.Hồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ thứ 10,
nhưng chỉ sau năm 1471 thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét , giờ đây
người dân Champa không còn tin vào sự che chở của các vị thần nữa .Sự suy
vong này buộc Champa phải bỏ đi dần dần những gì mà vương quốc
Champa vay mượn từ Ấn Ðộ Giáo để làm nền tảng của tổ chức xã hội và tôn
giáo của mình.
Năm 1832, khi Hoàng đế Minh Mạng-thời Nguyễn đổi Thuận Thành
thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp.Vương quốc Champa
chính thức suy vong.

2


Xuất phát nguyên sơ là nền kinh tế nông nghiệp, nên quan niệm âm
tính đã được đề cao,trong đó hình tượng người phụ nữ được xem là “quốc
mẫu” người kiến tạo ra muôn loài.Với bản chất ưu sống nội tâm và một địa
hình chạy dọc theo vùng biển duyên hải miền trung và núi rừng cao nguyên
hùng vĩ có thể là một trong những lí do khiến người Champa cổ tiếp thu

nhanh chóng quan niệm triết lí âm dương,tư tưởng lưỡng nghi do ảnh hưởng
của hai nguồn tư tưởng Ấn Độ và Trung Quốc du nhập. Tôn giáo chính của
người Chăm là Ấn Độ giáo, thờ một hay cả ba vị Thần của Tam vị nhất thể
là Brahma – Visnu – Siva. Tuy nhiên người Chăm cổ tôn sùng thần Siva hơn
cả.
Chính những biến động phức tạp trong lịch sử của Champa đã ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của văn hóa nghệ thuật, hiểu được lịch sử
và văn hóa Chăm mới giúp chúng ta tìm hiểu nền nghệ thuật huyền bí này
với những bản sắc riêng trong sự hỗn dung về văn hóa.
I. ĐIÊU KHẮC CHĂM PA
Nghệ thuật điêu khắc Champa rất phong phú với nhiều tác phẩm phù
điêu, tượng tròn gắn với sinh hoạt tôn giáo Bàlamôn, trên những tác phẩm
này thường bắt gặp nét chủng tộc, y phục, trang sức Chăm hòa quyễn với
hình ảnh các vị thần Bàlamôn, hoặc những nét tả thực cũng như cách điệu
thể hiện trong hình ảnh con người, loài vật… hết sức sinh động. Đằng sau
những bức phù điêu, những bức tượng ấy là cả một không gian huyền thoại,
phản ánh những tư duy trừu tượng, lãng mạn của con người khi lý giải về
những điều kỳ diệu của vũ trụ.
Kiến trúc đền tháp Champa luôn gắn bó chặt chẽ với điêu khắc. Phần
lớn di vật điêu khắc Chămpa là dạng phù điêu nổi cao gần như tượng tròn,
dù thể hiện nội dung, hình tượng nào thì vẫn mang tính hiện thực sâu sắc,
3


nghệ thuật tả chân dung sinh động, tượng người và động vật đạt trình độ cao
về giải phẫu sinh học, đề cao đặc điểm nhân chủng trong tượng người và các
vị thần được nhân hóa. Điêu khắc Chămpa còn phản ánh hiện thực xã hội từ
cuộc sống sinh hoạt đời thường đến những nghi lễ tôn giáo của vương quốc
Chămpa
Có rất nhiều cách phân chia các giai đoạn trong điêu khắc Champa, ở

bài viết này tạm thời chia như sau:
1.1.

HOÀI LAI, ĐỒNG DƯƠNG

Những tác phẩm điêu khắc thu thập được ngay ở tháp Hoà Lai, với
những đặc trưng nổi bật về nhân chủng như khuôn mặt hơi vuông, cánh mũi
hở, mồm rộng, môi dưới dày, hàng ria mép đập, về trang phục và trang sức
như dải lụa thắt lưng sọc dọc xoè rộng ỏ dưới, đôi hoa tai tròn to,vòng đeo ở
cánh tay ,tóc búi thành ba tầng thành hình chóp nón nhọn.
Được tạo tác bán thân, tóc búi kiểu hình tháp, lông mày liền nhau, mắt
mở to, sống mũi thẳng, cân đối, miệng hơi nở nụ cuời tạo nên khuôn mặt
xinh đẹp, hài hòa, tượng để hở bộ ngực tròn căng sức sống nhưng lại tạo nên
một cảm giác thánh thiện. Theo truyền thuyết, nữ thần Devi có tên Champa
là Rija Kula Hara Devi, là vợ của vua Indravarman II, người sáng lập triều
đại Đồng Dương, triều đại Phật giáo vào thế kỷ thứ IX. Vì Devi có công với
đất nước, đặc biệt là thường giúp đỡ những người nghèo, cô nhi quả phụ,
nên sau khi mất bà được phong thần và được vua Jaya Shinhavarman I dựng
tháp thờ.
Điêu khắc Đồng Dương đã để lại cho người xem những ấn tượng thật
mạnh mẽ, không giai đoạn điêu khắc nào biểu lộ mãnh liệt của nội tâm con
người bằng lúc này.
4


Nghệ thuật Đồng Dương chủ yếu mang tính chất phật giáo Đại Thừa.
đức phật ngồi hai chân buông thõng, hai tay úp lên đầu gối, thân thẳng, đầu
ngay, mắt đăm đăm nhìn thẳng vào cõi đâu xa, một tư thế hiếm thấy ở các
tượng phật Đông Nam Á.
Phong cách Đồng Dương hiện lên trong toàn bộ nền điêu khắc Chămpa

như một phong cách nghệ thuật độc đáo nhất với những đặc trưng khỏe
khoắn, nặng nề và đầy tính bản địa trong việc thể hiện những nét nhân chủng
Chàm trên các khuôn mặt người
1.2.

MỸ SƠN A1

Khuôn mặt trên các bức tượng phong cách Mỹ Sơn A1 có phần nhẹ
nhõm ,bớt đi sự căng thẳng với nụ cười thoáng nhẹ.Giai đoạn đầu còm ảnh
hưởng của Đồng Dương và một chút ảnh hưởng của nghệ thuật Khme.Các
nhân vật vẫn mang râu Quai nón ,mắt mở lớn có con ngươi,môi dày…sang
giai đoạn sau mới mất dần những chi tiết còn sót lại từ Đồng Dương, bộ mặt
các tượng nhân vật trở lại với truyền thống tạo hình mang sắc thái địa
phương với đôi mắt hình khuyết áo không con ngươi, mũi thon nhỏ miệng
luôn nở nụ cười,khoan khoái, tư thế luôn nhảy múa, thời kì này nghệ thuật
Champa có sự ảnh hưởng của nền nghệ thuật Java
1.3 TRÀ KIỆU ( Nửa cuối thế kỷ X)
Phong cách Trà Kiệu sống động tươi mát , chau chuốt mà thanh tú
,khỏe khoắn mà trầm tĩnh hiền hòa. Có thể nói phong cách Trà Kiệu là
phong cách Mĩ Sơn đã được trí tuệ hóa.
Nữ thần Sarasvati, nữ thần của kiến thức, âm nhạc và nghệ

thuật, là

vợ của thần Brahma. Sarasvati thường hay xuất hiện trong nghệ thuật tranh,
tượng và thần thoại như một vị nữ thần duyên dáng, cưỡi trên lưng ngỗng
5


Hamsa hay ngồi trên một đài sen, có bốn vật cầm tay gồm : quyển sách –

biểu tượng của học thuật và viết lách, đàn vina – sự am hiểu về nghệ thuật,
chuỗi tràng hạt pha lê – sức mạnh tinh thần và lọ nước thiêng – năng lực của
sang tạo và thanh tẩy. Nguyên thuỷ Sarasvati còn là nữ thần của sông ngoài,
tượng trưng cho sự màu mỡ, tốt tươi và thịnh vượng.
Tác phẩm có vẻ đẹp hài hòa về nhịp điệu của cơ thể và hiệu quả của
hình khối,bức tượng này mang một vẻ đẹp có tính chất tổng hòa ,có chút gì
đó nhẹ nhàng của Mỹ Sơn,chút sắc thái của bản địa và vẻ mẫu mực của Trà
Kiệu.Cơ thể căng tròn và bộ mặt an nhiên bình thản,giàu chất hiện thực mà
cũng huyền ảo đầy tính biểu tượng, mang lại cho người xem một cảm giác
bình an, đầy triết lí về sự hài hòa động và tĩnh
Siva (người Chăm gọi là Po Ginuer Mâtri) vị thần Bàlamôn giáo được
người Chăm thờ cúng và tôn vinh là vị thần tối cao. Khoảng thế kỷ IV, sự
tôn thờ Siva một cách tuyệt đối của các vua Champa khởi đầu bởi vua
Bhabravarman đã hình thành một tôn giáo chuyên thờ thần Siva gọi là Siva
giáo mà từ đó ra đời khu “thánh địa Mỹ Sơn”. Siva vừa mang tính hủy diệt
vừa mang tính sáng tạo, vừa được coi là hung thần phá hoại, hủy diệt muôn
loài vừa là phúc thần bảo vệ đời sống của cư dân Champa.. Tay Siva có khi
cầm đinh ba biểu tượng cho sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt, có khi cầm rìu
biểu hiện cho sự tuyệt đối hoặc cầm cây kiếm xua đuổi những sợ hãi và một
tay ban phúc lành. Siva cũng là vị thần tổng hợp, vạn sự đều qui tụ vào đó.
Bức tượng này toát lên vẻ đẹp cân đối và vững chãi .Những tư thế đầu
,mình, chân ,tay tạo cho hình nữ thần đang múa một trạng thái vừa chuyển
động vừa tĩnh tại,tám cánh tay phụ uốn cong nhịp nhàng làm cho bố cục trở
nên chắc chắn mà vẫn hài hòa trong tổng thể bức tượng

6


1.4 BÌNH ĐỊNH ( Thế kỷ XII-XIII)
Các tác phẩm điêu khắc thời kì này dù vẫn giữ vẻ tao nhã, nhưng đã

mất đi sức hấp dẫn mà trở nên khô cứng , ngưng đọng trong các điệu nhảy
không còn còn sức hành động,cơ thể trở nên căng cứng ,mất đi vẻ tươi mát
vốn có dẫu trang sức có phần cầu kì, hoa văn bao phủ thân hình tượng
Tính chất thoáng buồn của khuôn mặt đã cho ta liên tưởng đến giai
đoạn suy vong của xã hội Champa đã cố che lấp bằng hình thức cân đối
II. CÁC HIỆN VẬT ĐIÊU KHẮC ĐÁ TIÊU BIỂU
Phù điêu 9 vị thần: Cho đến nay, đây là bức phù điêu duy nhất về loại
hình này được tìm thấy ở Champa. (hiện vật tại Bảo tàng ký hiệu BTLS
5979).
Với lối thể hiện: Vị thần thứ nhất ngồi trên xe ngựa kéo và một vị thần
ngồi trên bệ, còn các vị thần khác đều cưỡi trên một con vật được coi là vật
cưỡi của thần. Trừ vị thần thứ nhất ngồi trên xe 7 ngựa kéo, còn các vị thần
khác, những con vật được coi là vật cưỡi của thần được điêu khắc ngay dưới
bệ thần ngồi (các vị thần không trực tiếp cưỡi lên nó). Vì bức phù điêu bị
sức mẻ nhiều nên khó nhận dạng. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở tích truyện liên
quan đến thần thoại Ấn Độ và Ấn Độ giáo, chúng ta có thể đoán nhận những
vị thần đó là:
Vị thần thứ nhất là Usa (nữ thần rạng đông). Cũng có người cho đây là
Surya (thần mặt trời). Usa là vị thần trong thần thoại Ấn Độ thời Rigvêđa,
được coi là con gái của trời, chị em với thần đêm tối (Ratri), đồng thời là
người bà con với Agni (thần lửa). Usa được coi là người yêu hay là vợ của
Surya. Trong thần thoại Ấn Độ, nàng được miêu tả có sắc đẹp, mặc áo dài
trắng thường ngồi trên xe có bảy ngựa hồng kéo. Bình minh là lúc nàng xuất
7


hiện để đánh thức thế giới bừng tỉnh, còn chính nàng lúc đến với người yêu
là thần mặt trời. Kế Usa là Surya, cũng có người cho đây là Sô Ma (thần mặt
trăng), vị thứ ba không rõ, vị thứ tư là Brahma (thần sáng tạo), vị thứ năm là
thần Indra (thần sấm sét), vị thứ sáu và bảy không rõ, vị thứ tám là thần

Siva, vị thứ chín là "Đấng toàn năng".
Mặc dù ở Champa đã tiếp thu Ấn Độ giáo, mà Ấn Độ giáo cho rằng tất
cả hành động kể cả hành động của thượng đế, cũng đều biểu thị ba khuynh
hướng: sáng tạo, bảo tồn, hủy diệt, và được qui tụ thành ba đấng tối cao
Brahma (thần sáng tạo) Visnu (thần bảo vệ), thần Siva (thần hủy diệt), được
gọi là "Tam vị nhất linh", nhưng qua bức phù điêu này, chứng tỏ tín ngưỡng
đa thần vẫn tồn tại ở Champa[3].
Thần Siva
Siva (người Chăm gọi là Po Ginuer Mâtri) vị thần Bàlamôn giáo được
người Chăm thờ cúng và tôn vinh là vị thần tối cao. Khoảng thế kỷ IV, sự
tôn thờ Siva một cách tuyệt đối của các vua Champa khởi đầu bởi vua
Bhabravarman đã hình thành một tôn giáo chuyên thờ thần Siva gọi là Siva
giáo mà từ đó ra đời khu “thánh địa Mỹ Sơn”. Siva vừa mang tính hủy diệt
vừa mang tính sáng tạo, vừa được coi là hung thần phá hoại, hủy diệt muôn
loài vừa là phúc thần bảo vệ đời sống của cư dân Champa. Siva thường thể
hiện dưới dạng một nam nhân có ba con mắt với mắt thứ ba ở giữa trán, ba
mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, ngọn lửa thế gian, và có thể nhìn
thấy hết quá khứ, hiện tại, tương lai. Tay Siva có khi cầm đinh ba biểu tượng
cho sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt, có khi cầm rìu biểu hiện cho sự tuyệt đối
hoặc cầm cây kiếm xua đuổi những sợ hãi và một tay ban phúc lành. Siva
cũng là vị thần tổng hợp, vạn sự đều qui tụ vào đó.

8


Biểu tượng của Siva là Linga. Linga là biểu hiện của tam vị nhất thể
với chỏm đầu hình cầu tròn là Siva, phần giữa là Vishnu có tám cạnh và
phần cuối là Brahma có bốn cạnh. Chiếc Linga đầu tiên xuất hiện dưới triều
vua Bhadravarman thế kỷ IV. Nhà vua cho xây tại thánh địa Mỹ Sơn một
đền thờ thần Siva Bradravarman, mà biểu tượng là một Linga.

Ấn Độ giáo ở Champa thuộc phái Siva, thường được thể hiện dưới
dạng Linga để tôn thờ. Những hình tượng Siva ở dạng người (hay nhân hóa),
thường được đồng nhất là thần vua Champa. Hiện tượng này chúng ta có thể
thấy được ở những tháp Champa, như phù điêu thần Siva ở tháp Po Klaong
Girai, Po Ramé, Po Ina Nagar, thực tế đó là vua Champa (riêng Po Ina
Nagar, người Chăm thờ người như là "Quốc Mẫu"). Các thần Siva của Ấn
Độ giáo cũng được thờ ở trong các tháp Champa nhưng dưới dạng Linga
hoặc Linga-Yony.
Từ đó chúng tôi nghĩ rằng, những đầu tượng Siva trong sưu tập này, có
thể là "thần vua Champa". Những đầu tượng thần, có thể cũng là những thần
bản địa của Champa.
Thần Indra
Được thể hiện ở tư thế ngồi ở 2 chân xếp bằng trên một cái bệ, đầu vị
vỡ, bàn tay trái để úp lên đầu gối trái; bàn tay phải đặt ngữa trên đầu gối
phải, và cầm một vật (lưỡi tầm sét). Ở bệ có một hình voi đang phủ phục.
Theo thần thoại Ấn Độ, Indra là vị thần đứng đầu các vị thần, vật cưỡi của
thần là voi.
Nữ thần Devi
Được tạo tác bán thân, tóc búi kiểu hình tháp, lông mày liền nhau, mắt
mở to, sống mũi thẳng, cân đối, miệng hơi nở nụ cuời tạo nên khuôn mặt
9


xinh đẹp, hài hòa, tượng để hở bộ ngực tròn căng sức sống nhưng lại tạo nên
một cảm giác thánh thiện.
Theo truyền thuyết, nữ thần Devi có tên Champa là Rija Kula Hara
Devi, là vợ của vua Indravarman II, người sáng lập triều đại Đồng Dương,
triều đại Phật giáo vào thế kỷ thứ IX. Vì Devi có công với đất nước, đặc biệt
là thường giúp đỡ những người nghèo, cô nhi quả phụ, nên sau khi mất bà
được phong thần và được vua Jaya Shinhavarman I dựng tháp thờ.

Nữ thần Laksmi-vợ thần Visnu
Loại tượng thần phổ biến trong điêu khắc đá Champa, theo thần thoại
Ấn Độ, Laksmi xuất hiện trong cuộc quấy biến sữa giữa các thần và loài quỷ
để tìm thuốc trường sinh bất tử. Laksmi được xem là nữ thần sắc đẹp, nữ
thần thịnh vượng, nữ thần may mắn.
Hình tượng những người cầu nguyện và tu sĩ
Có thể đây là hình tượng của những tu sĩ theo Ấn Độ giáo hoặc cũng có
thể là tu sĩ của phái Mật Tông. Riêng tượng thể hiện người đang khấn niệm,
có lẽ là tu sĩ của phái Mật Tông.
Tượng người
Đầu tượng bị mất, cổ đeo tràng hạt, tay trái bị vỡ mất hoàn toàn, tượng
thể hiện ở tư thế ngồi hai chân xếp vào nhau, lòng bàn chân ngữa, hai tay đặt
lên hai đầu gối. Đây có thể là một thầy tu đang ngồi thiền.
Tượng phật
Đầu đội miện ba tầng, tay đeo trang sức chuỗi ngọc. Phật được thể
hiện ở tư thế ngồi, hai chân bắt chéo nhau, chân phải đặt lên chân trái, tay

10


trái đặt phía trước bụng, lòng bàn tay ngữa, tay phải giơ lên ngang ngực,
lòng bàn tay hướng về phía trước. Đây là hình ảnh Phật đang thiền định.
Bệ thờ hình ngực phụ nữ
Ở giữa bệ thể hiện những hình ngực phụ nữ, phía trên và phía dưới là
dãy hoa văn hình cánh sen. Việc tôn thờ những hình ngực phụ nữ ở Champa
dường như chỉ tập trung ở phong cách "Bình Định". Sen là biểu tượng
thường hay gắn với Phật giáo. Vì thế, bệ thờ này cũng như những bệ thờ
khác về dạng hình vú phụ nữ, có thể là biểu tượng tôn thờ của môn đồ Mật
Tông tả phái, phái này thường chú trọng tôn thờ nguyên lý âm (Sakti) và coi
đó là năng lực sáng tạo (yếu tố âm-Sakti trong Ấn Độ giáo thường được thể

hiện dưới dạng Yoni).
Những người theo phái Mật Tông đôi khi nhân hóa những Sakti thành
những người vợ của các thần thánh hoặc nữ vương theo thánh tính ấy. Đối
với ở Champa, việc tôn thờ này còn ý nghĩa liên quan đến yếu tố Mẫu hệ và
tục thờ quốc mẫu.
Ápsara cùng Kinnara
Ápsara tiềng Phạn có nghĩa là dòng suối mát. Ápsara chỉ một trong
những vị nữ thần sông suối, cây sỏ xinh đẹp sống ở thiên đường Indra.
Những vị thần này được coi là những thiên thần múa hát trên trời, dâng
hương hoa để khánh chúc thần linh. Hình tượng này khá phổ biến trong nghệ
thuật điêu khắc Champa. Tượng Kinnara là vũ nữ thiên thần và những
Apsara đang bay lượn trên trời. Đặc biệt là tượng Apsara được thể hiện với
tư thế quỳ, hai tay đang chấp một búp hoa hoặc một loại quả, với động tác
dâng cúng thần linh, bên cạnh là hình đám mây. Tuy với khối đá nhỏ, nhưng

11


người nghệ nhân đã thể hiện được sự khái quát tính không gian đạt trình độ
cao, tạo cảm giác mênh mông của không giới.
Sư tử (Trà Kiệu – Quảng Nam, Thế Kỷ X - XI)
Sư tử, người Chăm gọi là “Srin” hay “Rimaong Piak”, tiếng Phạn
“Simha” là hình tượng phổ biến trong điêu khắc Champa, đặc biệt là ở kinh
đô Simhapura (thành phố sư tử) - Trà Kiệu. Sư tử là con vật không có ở
Champa nhưng vua chúa Champa lại dùng sư tử biểu hiện cho vương quyền.
Theo quan niệm của người Chăm sư tử biểu tượng cho quý tộc, cho sức
mạnh vì theo truyền thuyết, sư tử là một trong mười kiếp hóa thân của thần
Vishnu và đã giết được quỷ Hiraya Kapipu.
Sư tử Champa thường được tạo thân hình vạm vỡ với các tư thế đứng,
ngồi, quỳ, phổ biến là tư thế đứng. Nghệ nhân thể hiện sư tử không hoàn

toàn đúng theo đời thường nhưng lại được mang rất nhiều đồ trang sức.
Trừ một đầu sư tử có nguồn gốc tại Chiên Đàn và một tượng sư tử ở
Tháp Mẫm, những tượng sư tử còn lại trong sưu tập có nguồn gốc ở Trà
Kiệu. Hầu hết sư tử đều là sư tử đực, hình thức thể hiện ở hai dạng phù điêu
nổi và tượng tròn, tất cả đều ở tư thế đứng với hai biến thể: loại thứ nhất
chân phải bước lên, khớp gối hơi gấp cong chân trái duỗi thẳng, loại kia thì
ngược lại. Cả hai loại đều thể hiện chi trước giơ lên ngang đầu, lòng "bàn
tay" ngữa về phía trước. Miện trên đầu trang trí những hình lá đề nhiều tầng.
Trang phục trên mình sư tử là một loại "áo giáp", ở ngực có những hình như
giải yếm xếp từng lớp với vạt dưới nhọn, phía dưới là một loại quần cụt
ngang ống chân.
Tượng sư tử Tháp Mẫm có trang sức, trang phục và hoa văn trang trí
gần giống như ở chim thần Garuda Thấp Mẫm.
12


Bò Nandin
Theo thần thoại Ấn Độ thì kiếp trước của thần Siva là con bò. Sau khi
Siva hóa thân thành người thì con bò là vật cưỡi của thần Siva. Do vậy quan
niệm của Ấn Độ giáo thì con bò là vật cưỡi của thần Siva, cho nên tượng bò
Nandin thường gắn với thần Siva.
Trong điêu khắc đá Champa, khá nhiều tượng bò Nandin được thể hiện
dưới dạng tượng tròn và ở tư thế nằm. Tượng này cũng vậy, xét ở gốc độ
hình thái cơ thể học, bức tượng đã đạt trình độ cao trong nghệ thuật tả thực.
Voi
Là hình tượng khá phổ biến và sớm có mặt trong nghệ thuật điêu khắc
Champa trên mọi loại hình. Ngoài yếu tố là con vật quen thuộc có nhiều trên
địa bàn cư trú, được sớm thuần dưỡng, thì voi cũng là biểu tượng của vật
linh trong Ấn Độ giáo. Voi là vật cưỡi của thần Indra (thần sấm sét, thần
chiến tranh hay thần hộ mệnh) gọi chung là Dikapala. Song hành với việc

tôn thờ Voi theo giáo lý người Chăm còn coi Voi là bạn hoặc ân nhân cứu
con người.
Chim thần Garuda
Là vật cưỡi của thần Visnu, loại hình này khá phổ biến trong điêu khắc
đá Champa. Hiện nay bảo tàng lịch sử Việt Nam-thành phố Hồ Chí Minh
còn lưu giữ ba tiêu bản: Hai thuộc loại hình Trà Kiệu và một thuộc loại hình
Tháp Mẫm.
Loại hình Trà Kiệu với phong cách thể hiện rõ nét là loài có lông vũ,
mỏ. Hình thức thể hiện mũ hay miện trên đầu là những hình lá đề được xếp
thành từng tầng. Kiểu mũ hay miện này cũng là một trong những đặc trưng
của phong cách Trà Kiệu.
13


Tiêu bản Garuda Tháp Mẫm với phong cách thể thiện cách điệu cao
(giống như con thú). Hoa văn trang trí cầu kỳ, hoa nhiều cánh, những hình
xoắn móc, dây lưng thường được đính những hạt viền tròn..v.v.. cũng là nét
đặc biệt của phong cách Tháp Mẫm.
Theo thần thoại Ấn Độ, vì mẹ của loài rắn Naga đã giết mẹ của loài
chim thần Gadura, do đó giữa hai loài này có mối thù truyền kiếp, vì thế
chim thần Garuda thường bắt hoặc giết loài rắn Naga, đề tài này được thể
hiện trong điêu khắc đá Champa khá phổ biến. Hai tiêu bản trong sưu tập
này cũng thể hiện chim thần Garuda đang bắt những con rắn Naga.
Vật trang trí gắn ở góc tháp
Đây là hình tượng một mảng mây. Mây là một biểu tượng "không giới"
nơi ngự trị của các vị thần linh, mô típ này cũng khá phổ biến ở điêu khắc
Champa. Hình ngọn lửa thường gắn ở đỉnh tháp thường gắn ở góc tháp. Lửa
là yếu tố liên quan nhiều đến thần thoại và tôn giáo. Thần thoại Ấn Độ gọi
thần lửa là A-nhi, (Agni) lửa cũng là hình thức khởi phát của thần Siva. Lửa
còn được coi là có vai trò môi giới giữa người trần tục và cõi thần linh trong

những lễ cúng tế..

14


Kết luận
Qua các tác phẩm trên, chúng ta thấy được quá trình phát triển của nghệ
thuật điêu khắc đá Champa. Sự tồn tại và phát triển của nó gắn liền với bối
cảnh lịch sử, từ đó tạo nên những đặc trưng độc đáo của từng thời kỳ. Những
đặc trưng đó thể hiện đời sống sinh hoạt, tôn giáo, phong tục, tín ngưỡng của
người Chăm trong lịch sử. Tất cả những tác phẩm nghệ thuật trên, qua bàn
tay điêu khắc của các nghệ nhân, nghệ sĩ Champa đã tạo nên một loại hình
nghệ thuật điêu khắc có một không hai của Đông Nam Á.
Nền văn hóa Champa chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nghệ thuật Ấn Độ. Vì
thế, xuyên suốt quá trình phát triển này ta dễ dàng bắt gặp những dấu ấn văn
hóa Ấn Độ trong từng tác phẩm. Tuy nhiên, người Chăm cũng đã học hỏi và
giao lưu văn hoá không những ở Ấn Độ mà còn của các quốc gia, các nền
văn hoá lân cận như Đại Việt, Trung Quốc, Khmer… kết hợp với những yếu
tố đó tạo thành những nét văn hóa, những phong cách điêu khắc của riêng
mình.
Thực tế, hiện nay có rất nhiều cổ vật Champa, bằng nhiều con đường
khác nhau đã không còn (cả nhà sưu tầm nước ngoài); sự phát triển của đất
nước, sự bổ nổ của các phương tiện truyền thông, thì các giá trị văn hóa
nghệ thuật, đặc biệt là điêu khắc đá Champa đang gặp nhiều nguy cơ thách
thức. Đảng và Nhà nước ta đã có chính sách bảo tồn và phát huy, nhưng xét
toàn cục, thì chúng ta và cả cộng đồng người Chăm hiện nay phải cùng nhau
góp sức. Có như thế thì những giá trị văn hóa, nghệ thuật đó mới tiếp tục
trường tồn với thời gian.

15




×