Địa chí văn hóa QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG
1. Lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh
Lịch sử chung về sự hình thành của Quảng Nam – Đà Nẳng
Trên thực tế, phải tính đến thời nhà Hồ (1402) với việc thu nhận Chiêm
Động từ vua Chiêm là Ba Đích Lại, vùng đất Quảng Nam ngày nay mới thuộc
về Đại Việt. Nhưng danh xưng Quảng Nam mới ra theo sự thoả thuận giữa
Thượng hoàng Trần Nhân Tông với Vua Chiêm Thành là Chế Mân trong việc
đời vào năm 1471, sau chiến thắng Đồ
Lần theo lịch sử,châu Ô và châu Lý và
một phần phía Bắc vùng đất Quảng Nam ngày nay được sáp nhập vào Đại Việt
vào năm 1306, Bàn của vua Lê Thánh Tông, với tên gọi đầy đủ là Quảng Nam
thừa tuyên đạo. Đây là đạo thứ 13, bao gồm một vùng lãnh thổ rộng lớn, kéo dài
từ đèo Hải Vân đến núi Thạch Bi (giáp giới giữa Phú Yên với Khánh Hoà ngày
nay) được chia thành 3 phủ và 9 huyện (tiền thân của Nam, Ngải, Bình, Phú).
Đó là:Thăng Hoa phủ, gồm 3 huyện: Lệ Giang, Hy Giang và Hà Đông (tương
ứng với tỉnh Quảng Nam ngày nay).
Tư Nghĩa phủ, gồm 3 huyện Nghĩa Sơn, Bình Sơn và Mộ Sơn (tương ứng
với tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).Hoài Nhơn phủ, gồm 3 huyện Bồng Sơn, Phù Ly
và Tuy Viễn (tương ứng với tỉnh Bình Định ngày nay).
Cần lưu ý rằng địa phận thừa tuyên Quảng Nam bấy giờ chỉ đến đèo Cù
Mông, còn phần đất từ đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi, do địa hình hiểm trở,
người Việt vẫn chưa quản lý. Phải đợi đến năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng mới
chính thức thành lập phủ Phú Yên thuộc Quảng Nam.
Suốt chiều dài lịch sử, Quảng Nam còn nhiều lần thay đổi tên gọi: năm
1490 (Hồng Đức) - Quảng Nam xứ, năm 1520 (Hậu Lê) - trấn Quảng Nam, năm
1602 (thời Nguyễn Hoàng) - dinh Quảng Nam, thời Minh Mạng, năm 1827 đổi
thành trấn Quảng Nam, năm 1832 đổi thành tỉnh Quảng Nam, gồm 2 phủ :
Thăng Hoa, Điện Bàn, với năm huyện: Diên Phước, Duy Xuyên, Hoà Vinh, Lễ
Dương, Hà Đông). Về sau có một vài lần sáp nhập, thay đổi tên gọi để đến ngày
06 tháng 11 năm 1996, Quốc hội nước CHXHCNVN khoá IX, kỳ họp thứ 10 đã
phê chuẩn việc tách tỉnh QN-ĐN thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.
Lịch sử hình thành và phát triển của Đà Nẵng
1
Giữa thế kỷ XVI, khi Hội An đã là trung tâm buôn bán sầm uất ở phía
Nam thì Đà Nẵng mới là vị trí tiền cảng, trung chuyển hàng hóa, tu sửa tàu
thuyền.
Đầu thế kỷ XVIII, vị trí tiền cảng của Đà Nẵng dần dần trở thành thương
cảng thay thế cho Hội An, nhất là khi kỹ thuật đóng tàu ở châu Âu phát triển với
những loại tàu thuyền lớn, đáy sâu, ra vào vịnh Đà Nẵng dễ dàng.
Sau khi xâm chiếm toàn bộ đất nước ta vào năm 1889, thực dân Pháp tách
Đà Nẵng khỏi Quảng Nam và đổi tên thành Tourane, chịu sự cai quản trực tiếp
của Toàn quyền Đông Dương.
Đầu thế kỷ XX, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo
kiểu Tây phương. Cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Các
ngành nghề sản xuất và kinh doanh được hình thành và phát triển: Sản xuất nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu (chè, lương thực, thực
phẩm, nước ngọt, nước đá, rượu, nước mắm, cá khô), sửa chữa tàu thuyền, kinh
doanh dịch vụ. Cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane trở thành trung tâm
thương mại quan trọng của cả nước.
Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính quyền Bảo Đại.
Tháng 3/1965 các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và
thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Năm 1967, Đà Nẵng được Mỹ
ngụy ấn định là thành phố trực thuộc Trung ương và xác định mục tiêu xây dựng
Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến
thuật.Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng: sân
bay, cảng, kho bãi, đường sá, công trình công cộng, cơ sở thông tin liên lạc, lập
tín dụng ngân hàng.
Năm 1975, hòa bình lập lại, Đà Nẵng (là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng) bắt tay vào khôi phục những hậu quả nặng nề của cuộc chiến
tranh. Mặc dù còn lắm khó khăn nhưng công cuộc phục hồi và phát triển thành
phố đã đạt nhiều thành quả, nhất là thời kỳ đổi mới, sau 1986.
Ngày 6/11/1996 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị
quyết cho phép tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và
thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Về địa giới hành chính, thành phố
2
Đà Nẵng mới bao gồm thành phố Đà Nẵng trước đây, huyện Hòa Vang và huyện
đảo Hoàng Sa.
2. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên tỉnh Quảng Nam –Đà Nẵng
a. Vị trí địa lý
- Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế trọng
điểm của miền Trung, phía Bắc giáp thành phố Đà Nẵng, phía Đông giáp biển
Đông với trên 125 km bờ biển, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum và nước Lào, phía
Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 10.406 km2
- Đà Nẵng nằm ở vùng Duyên hải miền trung, trên trục đường sắt, đường
bộ, đường thủy của cả nước. Phía bắc Đà Nẵng giáp với tỉnh Thừa Thiên Huế,
phía tây và nam giáp với tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp biển Đông.
TP.Đà Nẵng cách trung tâm Tp.Huế 100km, cách Hà Nội khoảng 760km,
cách đô thị cổ Hội An 30km thuận lơi cho giao thong và đặc biệt là phát triển du
lịch
b. Đặc điểm địa hình
- Địa hình tỉnh Quảng Nam tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang
Đông, hình thành ba vùng sinh thái: vùng núi cao, vùng trung du, vùng đồng
bằng và ven biển; bị chia cắt theo các lưu vực sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ
có mối quan hệ bền chặt về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái đa dạng với
các hệ sinh thái đồi núi, đồng bằng, ven biển.
- Địa hình của Đà Nẵng đa dạng, phía bắc có đèo Hải Vân, phía tây là dãy
núi cao , núi Bà Nà cao 1487m, phía đông có bán đảo Sơn Trà và nhiều bãi biển
đẹp, ngoài khơi có quần đảo Hoàng Sa
c. Khí hậu
- Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, chỉ có 2 mùa là
mùa khô và mùa mưa, ít chịu ảnh hưởng của mùa đông lạnh miền Bắc. Nhiệt độ
trung bình năm 20 –21 0c, không có sự cách biệt lớn giữa các tháng trong năm.
Lượng mưa trung bình 2.000 – 2.500 mm nhưng phân bố không đều theo thời
gian và không gian, mưa ở miền núi nhiều hơn đồng bằng, mưa tập trung vào
các tháng 9 – 12, chiếm 80% lượng mưa cả năm.
3
- Cũng giống như Quảng Nam thì Đà Nẵng có khí hậu nhiệt đới điển
hình, nhiệt đọ cao và ít biến động. Mùa mưa và mùa khô rõ rệt, bão thường đổ
bộ vào thanh phố vào các tháng 9,10 hàng năm kèm theo mưa lớn nên hay gây
ra lụt lội
c. Dân số
- Tính đến hết năm 2012, dân số Quảng Nam là 1.435.629 người, với mật
độ dân số trung bình là 139 người/km2; dân trên 10 vạn người, chiếm 7,2% dân
số toàn tỉnh. Với 81,4% dân số sinh sống ở nông thôn,
-
Dân số Đà Nẵng : là 951.572 người, mật độ 757,8 người /km. Gồm 6 quận,2
huyện và 56 phường, xã
Tài nguyên thiên nhiên phát triển du lịch
Tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng Đà Nẵng là một trong ba vùng
du lịch trọng điểm của cả nước, là nơi có tiềm năng du lịch phong phú, bao gồm
các tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn. Có nhiều danh lam thắng cảnh như
đèo Hải Vân, bán đảo Sơn Trà, Bà Nà, núi Chúa, Ngũ Hành Sơn, các bãi tắm
Mỹ Khê, Non Nước, bảo tàng chàm với di tích Chàm gắn kết với phố cổ Hội
An, thánh địa Mỹ Sơn, cố đô Huế và các tỉnh duyên hải miền Trung. Những tài
nguyên này là điều kiện cho phép Đà Nẵng phát triển nhiều loại hình du lịch như
nghỉ mát, tắm biển, tham quan, du lịch nghiên cứu, du lịch văn hoá.
3. HỆ THỐNG DI SẢN VĂN HÓA
a. Di tich
Quang Nam là vùng đất có nhiều di tích cách mạng lừng danh trong
kháng chhiến, ngày nay đã trở thành điểm đến hấp dẫn du kháchtrong cảnh trí
thơ mộng thanh bình. Phải kể đến là kinh thành sư tử ở Trà Kiệu, Thánh địa Mỹ
•
Sơn, nhà lưu niệm Huỳnh Thúc Kháng, giếng Nhà Nhì, địa đạo Kỳ Anh
Di tích khu căn cứ Nước Oa (1960-1973)
Nước Oa nguyên là tên của một con sông nằm trong rừng già thuộc xã Trà
Tân, huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam. Trong bối cảnh chính quyền Ngô Đình
Diệm đang thi hành những chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” khốc liệt, nhằm
đánh phá và tiêu diệt phong trào cách mạng ở miền Nam, Khu ủy V và Tỉnh ủy
Quảng Nam đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công tác xây dựng miền núi thành căn cứ
địa cách mạng để bảo vệ và duy trì phong trào. Căn cứ
4
Nước Oa, Trà My, cơ quan Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu V trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Khu căn cứ Nước Oa được thành lập làm nơi đứng chân của Khu ủy V và
Bộ Tư lệnh Quân khu V vào khoảng giữa năm 1960. Có thể coi đây là khu căn
cứ đầu tiên của Khu V, nơi sống và làm việc, chỉ huy, lãnh đạo phong trào của
các đồng chí trong Khu ủy và các tướng lĩnh như Tư lệnh Chu Huy Mân (sau
này là đại tướng) trong KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ từ 1960-1973. Trong
suốt thời gian hơn một thập kỷ, nhiều cuộc hội nghị quan trọng bàn về đường
lối, phương hướng hoạt động cách mạng, nhiều lớp huấn luyện cán bộ, chiến sĩ
•
đã được tổ chức tại nơi đây.
Khu tháp chăm Mỹ Sơn
Di sản văn hóa Mỹ Sơn nằm trong thung lũng sâu, thuộc xã Duy Phú,
huyện Duy Xuyên, cách Đà Nẵng 70km về phía tây nam được học giả Pháp M.C
Paris phát hiện năm 1898. là tổ hợp bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một
thung lũng đường kính khoảng 2km, bao quanh bởi đồi núi.
Đây là thánh địa Ấn Giáo của Chămpa xây dựng từ thế kỷ VII-XIII dâng
tế thần Siva. Với hơn 70 công trình kiến trúc bằng gạch đá, Mỹ Sơn có thể gánh
ngang với các di tích nổi tiếng vùng Đông Nam Á như Angkok ( Cam puchia),
Bôrôbudua( Indonexia)…
Phần lớn đền tháp đều quay về hướng đông, được xem là nơi hội tụ các
thần linh. Vật lieu xây dựng tháp rất độc đáo, gồm những viên gạch nung mài
nhẵn xếp chồng nên nhau một cách chắc chắn mà không thấy chất kết dính lại
bền vững qua hàng ngàn năm. Nghệ thuật và kiến trúc qua bố cục đền tháp mang
ảnh hưởng lớn của phong cách Ấn Độ. Khu Thánh địa gồm nhiều cụm tháp, bố
cục mỗi cụm tháp đều có một tháp chính (kalan) ở giữa và nhiều tháp phụ nhỏ
bao bọc xung quanh. Kalan thường thờ Linga (sinh thực khí) hay linh tượng
Shiva
Mỹ Sơn không chỉ nổi tiếng bởi các công trình kiến trúc mà còn nổi tiếng
vì có hàng trăm các tác phẩm điêu khắc thể hiện trên gạch, trên đá mềm mại
uyển chuyển mang giá trị cao. Mỹ Sơn cuối thế kỷ XX đã thực sự hồi sinh trở lại
thành bảo tàng kiến trúc điêu khắc nghệ thuật bí ẩn của nhân loại, đang chờ nền
văn minh hiện đại khám phNgày 1-12-1999, khu di tích lại được tổ chức
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.á
5
•
-
Hội An – di sản văn hóa thế giới
Nằm cách tp Đà Nẵng 30km về phía Đông Nam, phố cổ Hội An từ lâu đã trở
thành một địa danh nổi tiếng của Việt Nam. Từ thế kỷ XVI, đây là thương cảng
lớn nhất khu vực miền trung, có nhiều thuyền bè của các nước trên thế giớicập
bến mua bán trao đổi hàng hóamỗi ngày. Vì thế, Hội An là nơi giao thoa của các
nền văn hóa như phương Tây, Nhật Bản, Trung Hoa được thể hiện rõ qua 1 quần
thể di tích kiến trúc cổ gồm hệ thống nhà ở, hội quán, đình chùa, bến cảng, chợ
còn nguyên vẹn cho đến ngày nay. Trong lịch sử hình thành, Hội An được biết
-
đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Fafo, Haisfo, Hoài phố, Ketchem, Cotam
Ngoài giá trị văn hóa kiến trúc đồ sộ và đa dạng, Hội An còn lưu giữ một tài sản
văn hóa phi vật thể hết sức phong phú thể hiện qua các hoạt động tín ngưỡng, lễ
hội, sinh hoạt văn hóa-văn nghệ dân gian và các làng nghề truyền thốngVới
những điều kiện trên , tháng 12/1999, UNESCO công nhận phố cổ Hội An là di
-
sản văn hóa thế giới
Đêm rằm phố cổ: Đêm Hội An vào những ngày rằm bạn mới cảm nhận hết được
không gian ấm áp, thơ mộng, cổ kính của 1 phố cổ. Đi dọc theo con phố trong
ánh đèn lồng lung linh với đr màu sắc bạn sẽ có cảm giác như đang sống lại
-
những năm tháng ở thế kỷ XVI-XVII
Chùa Cầu biểu tượng của phố cổ:
Tọa lạc trên đường Trần Phú , chùa Cầu là 1 kiến trúc độc đáo kết hợp
nhiều phong cách khác nhau, như: Viêt, Hoa, Nhật…và từ lâu đã mặc nhiên trở
thành một biểu tượng độc đáo trong tổng thể Di sản văn hóa Hội An.
Chùa Cầu có chiều dài khoảng 18m,rộng 3m, bắc qua 1 con lạch sâu chảy
ra song hoài,được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVII theo kiểu “ Thượng
lưu Hạ kiểu” ( trên là nhà dưới là cầu) trong chùa thờ Bắc Đế Trấn Võ. Hơn 300
năm tồn tại, chùa đã qua 4 lần trùng tu. Đến 1917, chúa Nguyễn Phúc Chu, trong
1 lần đến thăm Hội An đã ban tên cho cầu là Lai ViễnKiều tức cầu của những
người khách phương xa. các hội quán do người Hoa xây dựng để tưởng nhớ đến
quê hương của họ. Nếu bắt đầu từ Chùa Cầu, sẽ thấy năm hội quán trên đường
Trần Phú, tất cả đều bên số chẵn: Hội quán Quảng Đông, Hội quán Trung Hoa,
Hội quán Phúc Kiến, Hội quán Quỳnh Phủ và Hội quán Triều Châu
- Hội quán Phúc Kiến: Toàn thể khu di tích này do người Phúc Kiến xây
dựng vào năm 1759 ngay từ thời gian đầu họ đến sinh sống tại Hội An. Kiến trúc
6
đồ sồ này do những bàn tay khéo léo, tài hoa của các nghệ nhân đến từ Trung
Hoa. Được xây dựng theo hình chữ “tam”, sâu đến 120m cục diện đuợc bày bố
chi tiết từ trong ra ngoài,hài hòa, nguy nga, sâu lắng. Chính diện đặt bàn thờ
Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quán Thế Âm Bồ Tát, Bà Chúa sanh thai và 12 bà mụ
theo tín ngưỡng dân gian của người Trung Hoa. Ngoài ra ở đây còn có nhiều
tượng thờ, trống đồng, chuông đồng, lư hương và nhiều hiện vật khác
b. Lễ Hội
Nhắc tới Quảng Nam-Đà Nẵng là phải kể đến các lễ hội như lễ hội Long
•
Chu, lễ hội Bà Thu Bồn, lễ tế Ông Cá
Lễ tế Cá Ông: Đã từ bao đời nay,lễ hội Cá Ông ( hay còn gọi là lễ tế Cá Voi) là
lễ hội lớn nhất của cư dân tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Thờ phụng cá ông ở miền
đất này không chỉ được xem là tôn kính thần linh mà còn gắn liền cả sự hưng
thịnh của làng cá. Lễ thường tổ chức vào dịp cầu ngư hàng năm ( vào hạ tuần
tháng 2 âm lịch). Những ngày này thường tổ chức chèo Bá Trạo-một loại hình
văn nghệ dân gian, hát bội hát khoan
Trong ngày lễ bàn thờ được trang hoàng hết sức rực rỡ, trang nghiêm. Các
nhà đều đặt hương án bày lễ cúng. Trên mỗi tàu thuyền đều chăng đèn kết
hoa.Lễ cầu an được tổ chức tại đêm đầu tiên tại làng Cá Ông dưới sự điều khiển
của các vị chánh bái, là những vị cao niên có uy tín trong làng.
Rạng sang ngày hôm sau dân làng đánh trống làm lễ rước trên biển. Vào
nửa đêm hôm đó dân làng làm lễ chánh tế bao gồm lễ khai mõ, dâng hương hát
bội…Lễ hội thu rất nhiều du khách và nhân dân địa phương.
•
Hội đua ghe
Hội đua thuyền đua ghe hay bơi chải là sinh hoạt văn hóa song nước cổ
truyền của người Việt. Điều này đã được phản ảnh qua hình tượng khắc trên
trống đồng thời văn hóa Đông Sơn. Nhìn chung hội đua thuyền, đua ghe là loại
hội nước mang nhiều ý nghĩa của cư dân trồng lúa nứơc ở khu vực Đông Nam Á
gắn với tục thờ thần nước, tục cầu mùa, cầu nước và tín ngưỡng phồn thực
Hàng năm từ mồng 2 đến mồng 7 tháng Giêng ân lịch ở làng chài ven
biển người ta lại tưng bừng tổ chức Hội đua ghe, thu hút rất đông ngưòi dân
•
tham gia
Lễ Hội Quan Thế Âm
7
Ngũ Hành Sơn mà dân gian qen gọi là núi Non Nước là 1 quần thể gồm 5
hòn núi đá vôi nằm trên địa phận xã Hòn Hải, huyện Hòa Vang, tp Đà Nẵng. Núi
Hành Sơn nổi tiếng với nhiều hang động đẹp như đọng Huyền Không, Hoa
Nghiêm, Linh Nham
Năm 1950 hòa thượng Thích Pháp Nhân phát hiện ra 1 động mới ở chân
núi Kim Sơn. Động dài hơn 50 m, bề ngang khởng 10m, cao từ 12-15m. Đường
vào động là những bậc đá tự nhiên đi sâu vào long núi. Đối diện với cửa động là
những lớp thạch nhũ hình thành 1 bức tượng quan thế âm cao bằng người thật
dáng nét cân phân khá thanh tú. Một lớp nhũ đá lấp lánh như kim tuyến bề
ngảngộng hơn gang tay phủ từ bờ vai chạy dài đến hết thân tượng. Chân tượng
đặt nên lưng con rồng đang cuộn mình giữa những lớp song gợn, tay phải tượng
nâng bình nước cam lồ. Phía sau là hình tượng Thiện Tài Đồng Tử. Phía bên trái
là hình 1 con chim lớn dang đôi cánh chải rộng trên phía trần. Bên phải là cụm
thạch nhũ giống hình 1 khóm trúc. Phía sau là những dải mây ẩn hiện lung linh.
Có thể nói đây là bức phù điêu tuyệt mỹ mà thiên nhiên ban tặng. Chính do hình
tượng này mà động được đặt tên là Quan Thế âm
Sau khi phát hiện ra động hòa thượng Thích Pháp Nhân còn xây 1 ngôi
chùa thay cho chiếc am trước đó làm bằng tranh tre, lấy tên là chùa Quan Thế
Âm. Chùa tựa lưng vào vách núi Kim Sơn quay mặt ra 1 đầm sen lớn, vào mùa
hè hương sen tỏa hương ngào ngạt
Ngay sau ngày đất nước hòa bình, vào ngày vía đức phật bà Quán Thế
Âm(19/2 âm lịch) các phật tử các thiện nam tín nữ từ các nơi đổ về đây dự lễ trai
đàn chẩn tế và sau đó tham gia phần hội kéo dài 3 ngày đêm với những trò chơi
dân gian như hội hóa trang, hát tuồng, hát dân ca, hội thi các bộ môn thơ…Lễ
hội này là 1 trong 4 lễ hội tong giáo lớn nhất và được Bộ Văn hóa, Thể thao và
du lịch xếp vào trong số 15 lễ hội quốc gia năm 2000
c. Làng nghề
Đà Nẵng
Mỗi làng quê, làng nghề là 1 nét riêng biệt của mảnh đất Đà Nẵng. Làng
đá mĩ nghệ Non Nước với những sản phẩm được nghệ nhân gọt giũa bằng khối
óc, bằng bàn tay khéo léo tinh xảo, họ thổi tâm hòn mình vào đá, đánh thức giấc
•
ngủ ngàn năm của thiên nhiên để sống với con người
Làng đá Non Nước
8
Có lẽ không ai đến Ngũ Hành Sơn mà không ghé thăm làng mỹ nghệ Non
Nước.Đó là 1 nơi sản xuất đồ mỹ nghệ bằng đá cẩm thạch nổi tiếng khắp cả
nước và ngoài nước
Theo các nghệ nhân của làng, làng nghề chế tác đá Non Nước đã có lịch
sử hàng ba, bốn trăm năm trước. Một vài tấm bia tồn tại ở những ngôi chùa cổ
trên đất Quảng Nam đã khẳng định điều đó. Hiện nay, ngay tại thắng cảnh Ngũ
Hành Sơn nổi tiếng vẫn còn nhà thờ “ Thạch nghệ tổ sư”, và hàng năm vào
mồng 6 tháng giêng các hoạt động giỗ tổ đã diễn ra khá quy mô ở tại làng này.
Từ đất vô cảm, người nghệ nhân làng mỹ nghệ Hòa Hải đã thổi vào đó
tâm hồn của con người. Dĩ nhiên quá trình này diễn ra ở nhiều công đoạn, và có
cả những công đoạn vất vả, nhọc nhằn vô cùng. Niềm hạnh phúc trước 1 tác
phẩm đã hình thành
Ngày nay sản phẩm đá mỹ nghệ Non Nước đã có mặt nhiều nơi trên thế
giới. Người mua sắm làm kỷ niệm 1 lần đến Đà Nẵng cũng có, xuất khẩu sang
các thị trường Úc, Hồng Kông… cũng có. Mặt hàng phong phú đa dạng, đặc biệt
•
có tranh khắc đá và trong nghệ thuật có giá trị mỹ thuật cao.
Quảng Nam
Làng Mộc Kim Bồng
Nghề mộc Kim Bồng được hình thành từ thế kỷ XV bởi những người việt
đầu tiên ở đồng bằng Bắc Bộ và vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh vào khai khẩn vùng đất
Cẩm Kim-Hội An thời bấy giờ. Cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII nghề mộc
Kim Bồng phát triển nhờ sự phồn thịnh của thương cảng Hội An . Đến thế kỷ
XVIII nghề mộc kim bồng đã phát triển mạnh mẽ và thịnh đạt thành làng nghề
với ba nhóm nghề rõ rệt: nghề mộc xây dựng cá công trình kiến trúc đô thị, nghề
mộc dân dụng và nghề dóng tàu thuyền mộc.
Địa danh và nghề mộc Kim Bồng đã được Lê Quý Đôn đè cập trong Phủ
biên tạp lục viết vào thế kỷ XVIII. Với danh tiếng của mình nhiều hiệp thợ Kim
Bồng đã được vua các triều Nguyễn triệu tập tham gia xây dựng kinh đo Huế
Trong số đó nhiều người đã ban nhiều tước Cửu phẩm, bát phẩm. Đôi với
Hội An người thợ mộc Kim Bồng đã góp phần tạo nên những công trình kiến
•
trúc.
Làng đúc đồng Phước Kiều
Làng đúc Phước Kiều nằm trên quốc lộ 1, xã Điện Phương, Điện Bàn,
Quảng Nam. Theo tư liệu gia phả của các tộc họ hiện còn lưu giữ, làng được
9
thành lập từ buổi đầu thời các chúa Nguyễn dựng nghiệp ở hai xứ Thuận Quảng. Đây vốn là vùng đất truyền thống đúc đồng nổi tiếng, các ông tiền hiền
của tộc Dương Ngọc và Nguyễn Bá đã truyền dạy nghề đúc cho bà con đồng
tộc, lập ra làng đúc Phước Kiều cho tới nay. Khi các chúa Nguyễn ra sức mở
mang, ổn định ở hai xứ Thuận - Quảng, nghề thủ công trong đó có nghề đúc
đồng, sản xuất đồ gia
Nghề đúc đồng có những bí quyết riêng để có thể tạo ra được những sản
phẩm nổi tiếng mà nhiều nơi biết đến. Một trong những bí quyết đó là pha hợp
kim. Qua bao thời tồn tại, phát triển nghề đúc làng Phước Kiều đã tích luỹ được
những kinh nghiệm lớn. Để có được sản phẩm (nhất là các loại nhạc khí) người
thợ phải mất nhiều thời gian, công sức với sự tỉ mỉ, khéo léo trong việc làm
khuôn. Khuôn đất sét qua nhiều công đoạn: nhồi đất, làm bìa, giáp khuôn, thét
khuôn, trổ điệu... Tuỳ sản phẩm mà làm khuôn sống (dùng một lần) hoặc khuôn
bền (dùng nhiều lần).Cũng tuỳ sản phẩm, thợ đúc làng áp dụng những kỹ thuật
khác nhau trong việc nung khuôn, nấu kim loại, rót khuôn và ra khuôn. Mỗi gia
đình có bí quyết pha chế hợp kim riêng để đúc. Như đồng đỏ, đồng thau (đồng
pha thiếc), đồng (đồng pha nhôm), đồng xanh (đồng pha kẽm) và đồng thoà
(đồng pha vàng).
Trong nghề đúc truyền thống, thì làm nguội chính là công đoạn cuối trong
việc quyết định chất lượng sản phẩm. Người trong làng nghề Phước Kiều quan
niệm, một cái chiêng mới ra khuôn đánh lên vẫn có tiếng, nhưng chưa phải là
tiếng chiêng, mà chỉ như âm thanh ban đầu của một đứa bé mới tập nói, vì thế
cần phải tạo cho chiêng ngân vang. Kỹ thuật lấy tiếng nhạc khí là nét riêng của
làng đúc Phước Kiều, nhờ đó có thể phân biệt nhạc khí của làng với bất cứ nơi
nào khác.Đến nay, nhiều chùa chiền ở Quảng Nam còn lưu giữ các chuông
đồng, nhiều buôn làng ở phía tây Quảng Nam, Tây Nguyên, Bình Phước... còn
sử dụng những bộ nhạc khí được làm từ làng đúc Phước Kiều. Ngày giỗ tổ
Không Lộ Giác Hải thiền sư - 12 tháng giêng âm lịch hằng năm - được xem là
nghi lễ cung kính của chủ tộc dân làng diễn ra trong tiếng ngân vang của chiếc
chuông được đúc từ thời Tự Đức 11 (1858). Đặc biệt, với đại hồng chung, thợ
phải ăn chay ba ngày, làm lễ cầu an mới bắt tay vào việc.
d. Văn hóa dân gian
10
Vùng văn hóa xứ Quảng được hình thành trong tổng thể vùng văn hóa
miền Trung, dựa trên nền tảng văn hóa Sa Huỳnh và nền văn hóa Champa rực
rỡ, từ xa xưa đã hiện hữu trên mảnh đất Hóa Châu-vùng đất cực Nam của Đại
Việt (từ phía Nam Thừa Thiên Huế đến bờ Bắc sông Thu Bồn hiện nay)
Vì thế, khi nói đến giá trị văn hóa Xứ Quảng, không chỉ những người
Quảng Nam - Đà Nẵng mà còn bao gồm những con người thuộc các dân tộc
sống trên mảnh đất này từ thuở khai hoang, dựng nghiệp cho đến nay đã đồng
tâm hiệp lực tạo nên diện mạo đặc trưng của một vùng.
Văn hóa xứ Quảng không chỉ đặc trưng ở văn hóa cư trú người Kinh vùng
đồng bằng và tộc người Cơtu ở vùng cao, ở các di tích lịch sử - văn hóa như
thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, thắng cảnh Hải Vân, Sơn Trà, ở truyền thuyết Tiên
Sa, Non Nước, mà còn thể hiện ở văn hóa ẩm thực, đó là mì quảng, bánh tráng
đập dập, bánh ít lá gai, bánh tráng cuốn thịt heo…với những hương vị rất riêng
không lẫn với những sản vật của nơi khác.
Đặc trưng văn hóa của miền đất này còn lắng đọng trong lễ hội, trong
phong tục tập quán, tâm lý truyền thống; được kết tinh từ lao động sáng tạo, lối
suy nghĩ, lối sống và cả cách ứng xử của các tộc người cùng cộng cư trên vùng
đất này, qua những giai đoạn thăng trầm của lịch sử.Lễ hội cũng là nét đặc trưng
của văn hóa Đà Nẵng, bao gồm nhiều yếu tố dân tộc, lịch sử, phong tục, tâm lý,
tín ngưỡng tôn giáo…mặc dù so với những vùng đất khác thì không gian lễ hội
hẹp hơn, thời gian ngắn hơn, song cũng khá đa dạng và phong phú. Có lễ hội
dân gian truyền thống như lễ hội đình làng, lễ hội Cầu Ngư, lễ hội Quán Thế
Âm, lễ hội văn hóa như Lễ hội thi bắn pháo hoa quốc tế…
Văn hóa vùng đất này còn là các làn điệu dân ca, hát hò khoan, bài chòi,
lý hò vè độc đáo, chân chất đồng hành cùng các câu hát đồng dao, hát bả trạo,
hát sắc bùa, các trò diễn dân gian như múa lân, các vũ đạo có đường nét kinh
điển của nghệ thuật Tuồng truyền thống mà người xưa gọi là hát Bội. Người dân
xứ Quảng cũng rất tự hào vì nơi đây từng được mệnh danh là cái nôi của loại
hình nghệ thuật diễn xướng dân gian độc đáo này.
Văn hóa xứ Quảng còn là sức sống, sức sáng tạo của người dân được thể
hiện ở kinh nghiệm, tri thức được tích lũy trong quá trình lao động và đấu tranh
bền bỉ với thiên nhiên, với kẻ thù. Tri thức và năng lực sáng tạo đó còn biểu hiện
11
qua hàng ngàn câu ca dao, tục ngữ, hàng trăm sản phẩm độc đáo của làng nghề
truyền thống, như đồ mỹ nghệ Non Nước, guốc mộc Xuân Dương, nước mắm
Nam Ô, thuốc lá Cẩm Lệ, bánh tráng Túy Loan…Tất cả đã nói lên tài hoa và sự
khéo léo, tinh xảo của người xứ Quảng.
Bên cạnh những giá trị văn hóa vật chất thì giá trị văn hóa tinh thần ở Đà
Nẵng còn sâu lắng ở truyền thống yêu nước nồng nàn, ở tinh thần tranh đấu kiên
cường trong kháng chiến, đó là các chí sĩ còn vang danh muôn đời ở hậu thế
như: Thái Phiên dũng cảm, Thoại Ngọc Hầu mưu lược, Phan Chu Trinh uyên
bác mà những câu thơ của ông còn vang vọng mãi đến ngàn sau:
“Đất nước đắm chìm nòi giống Lạc
Làm trai há sợ đến Côn Lôn”
Phải chăng trên bước đường tiến dần về phương Nam, con người xứ
Quảng không chỉ đeo đẳng bên mình nỗi hoài mong về chốn cũ:
“Từ thuở mang gươm đi mở nước
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”
Mà còn mang theo mình cái thông minh, thẳng thắng và chịu thương, chịu
khó của người miền Bắc, thấm đẫm chất trầm tư, sâu sắc của dân tộc Chăm,
dung dị trung thực của người Đông Nam Á. Các phẩm chất ấy đã đúc kết nên
con người xứ Quảng, đã tạo dựng thành nhân cách của những người đã sống lâu
đời trên vùng đất giáp ranh giữa Bắc và Nam Trung Bộ.Vùng đất mà sự gian
khổ đã được đúc kết trong câu ca dao:
“Gánh cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy cực còn chạy theo”
Thế mà qua bao biến đổi thăng trầm của đất nước, con người xứ Quảng đã
bền tâm, vững trí vượt lên để có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, góp phần
làm nên một diện mạo tươi đẹp đáng tự hào của Đà Nẵng như ngày hôm nay.
Có thể nói giá trị đặc trưng của văn hóa xứ Quảng nói chung, của Đà
Nẵng nói riêng là những nét đặc thù của một vùng văn hóa nằm trong tổng thể
của nền văn hóa Việt Nam. Sứ mệnh lưu giữ và phát huy những giá trị văn hóa
quý báu của các bậc tiền bối không chỉ bắt nguồn từ tình cảm mà còn phải được
xem là trọng trách của những con người đang sống trên quê hương thân yêu này
12
e. Đặc trưng dân tộc người
Quảng Nam hay gọi âm địa phương là Quảng Nôm là một tỉnh thuộc
vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam, là vùng đất còn lưu giữ nhiều dấu
tích của nền Văn hóa Chămpa. Tên gọi Quảng Nam có nghĩa là mở rộng về
phương Nam. Quảng Nam nằm ở chính trung điểm đất nước theo trục Bắc Nam, là nơi giao thoa của những sắc thái văn hóa giữa hai miền và giao lưu văn
hóa với bên ngoài, điều này góp phần làm cho Quảng Nam giàu truyền thống
văn hóa, độc đáo về bản sắc văn hóa.Tính đến hết năm 2010, dân số Quảng Nam
là 1.435.629 người, với mật độ dân số trung bình là 139 người/km2; có 4 tộc
người thiểu số cư trú lâu đời là người Cơ Tu, người Co,người Gié Triêng, người
Xê Đăng và một số tộc người
thiểu số mới di cư đến với tổng số dân trên 10 vạn người, chiếm 7,2% dân
số toàn tỉnh. Với 81,4% dân số sinh sống ở nông thôn, Quảng Nam có tỷ lệ dân
số sinh sống ở nông thôn cao hơn tỷ lệ trung bình của cả nước.
f. Ẩm thực
Phong vị xứ Quảng. Quảng nam nằm giữa 2 đầu bắc nam nhưng lại kiêu
kỳ phong vị, rất riêng chẳng giống Hà Nội cũng chẳng như Sài Gòn. Người ta
bảo Quảng Nam thuộc phái ẩm thực “no và ẩm”. Hà Nội ăn uống không bảo thủ
khắt khe, Huế phô trương bày vẽ còn Sài Gòn ngọt ngào ngang ngửa. Chỉ 1
vùng dất nước mà chẳng ai chịu giống ai.
•
Mì Quảng
Du lịch Đà Nẵng thưởng thức món Mì Quảng, món ăn đặc sản nổi danh
của vùng đất này. Mì Quảng không giống phở Bắc, cũng chẳng giống bún bò
Huế hay bún Ốc Hà Nội. Mì Quảng có nhìu loại khác nhau, nào là mì gà, mì
tôm, mì thịt, mì trứng, mì bò, mì sứa, mì cá lóc… nhưng hương vị đặc trưng của
nó thì không lẫn vào đâu được. Hòa quyện cùng cọng mi trắng ngà, mềm mại là
vị thanh ngọt và béo của nước hầm xương, mà người dân địa phương vẫn hay
gọi là nước lèo.
Theo kinh nghiệm của người xưa, ăn mì Quảng phải ăn kèm với nhiều rau
sống mới ngon. Nhưng rau sống đúng kiểu mì Quảng phải được kết hợp từ 9
loại rau như: cải non mới nụ, xà lách tươi, húng, quế, giá trắng có thể được trụng
13
chín hoặc để sống, rau răm, ngò rí với hành hoa thái nhỏ…trộn lẫn với chuối bắp
sắt mỏng, tất cả trộn lẫn tạo nên mùi vị đậm đà khó quên.
Đặc biệt thành phần không thể thiếu của mì Quảng là đậu phụng rang và
bánh tráng mè nướng giòn. Vị thơm của đậu phụng rang và giòn của bành tráng
sẽ làm tăng thêm ý vị cho món ăn đặc sản này.Nhìn tô mì bốc khói với những
chú tôm tươi đỏ mọng, lòng đỏ trứng vàng ươm kết hợp với màu xanh tươi mát
của rau sống và hành hoa quả thật thực khách không thể kiềm nổi cơn đói đang
trào dâng.
Dường như mì Quảng luôn có mặt trong mỗi bữa ăn hằng ngày của người
dân nơi đây như là một thói quen, như thứ đặc sản dùng để tiếp đãi khách, bạn
bè phương xa. Chính điều này cũng như một nét hấp dẫn riêng níu chân du
•
khách mỗi khi có dịp ghé thăm mảnh đất thân thương này.
Bê thui Cầu Mống:
Cầu Mống là ngôi làng nhỏ nằm cạnh quốc lộ 1A thuộc địa bàn xã Điện
Phương - huyện Điện Bàn. Nơi đây có rất nhiều quán ăn phục vụ món ăn bò tái
(hay còn gọi là bê thui) ngon nổi tiếng. Bò tái Cầu Mống đã có từ rất lâu và
ngày càng được nhiều thực khách biết đến. Để có được món ngon này, người ta
phải thực hiện qua nhiều công đoạn. Bò được chọn để quay lửa than phải là bò
còn non hoặc không quá già, khi quay người ta cho thêm cây sả, lá chanh vào
bụng nhằm giữ cho thịt bò vừa mềm vừa thơm. Còn một bí quyết không kém
phần quan trọng là khi thái thịt phải thật khéo léo để thịt và da không bị tách rời.
Cách pha chế nước chấm và chọn rau để ăn bò tái cũng được thực hiện một cách
kỹ lưỡng. Hầu hết nước chấm được làm từ nguyên liệu mắm nêm pha thêm các
loại gia vị như ớt, tỏi, gừng, chanh. Rau ăn kèm thịt bò tái thường có khế chua,
chuối chát thái mỏng trộn với vài loại rau khác như húng, quế, hành, ngò...
Ngày nay, nhiều nơi ở Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ... cũng có phục vụ
món bê thui, nhưng những hàng quán tại Cầu Mống vẫn luôn là nơi khách sành
ăn món này tìm đến nhiều nhất. Nếu có dịp ngang qua Cầu Mống du khách sẽ
không khỏi ngạc nhiên khi trên con đường quốc lộ, hàng quán bê thui với nhiều
đùi bê treo lúc lắc trước hiên rắt bắt mắt, không cầm lòng phải tò mò ghé lại.
Mỗi khi có khách, chủ quán cắt một vạc thịt xắt từng lát mỏng, thấy rõ hai tầng
thịt chín, tái trông rất hấp dẫn.
14
Đặc biệt, bê thui ngon hay không phụ thuộc vào mắm và rau sống ăn kèm.
Mắm phải là loại mắm cá cơm nguyên con, được chế biến từ những làng chài nổi
tiếng ven biển. Mắm đem về được gạn lấy nước, thêm đường, ớt tỏi giã nhuyễn,
•
cùng ít gừng và mè rang thơm vàng rất hấp dẫn.
4.Hệ thống cảnh quan thiên nhiên
Cù Lao Chàm
Là 1 nhóm các hòn đảo lớn nhỏ nằm cách thị xã Hội An khoảng 16km về
hương Đông Bắc. Đến đây vào những ngày đẹp trời, không có gió lớn, bạn chỉ
mất 1 giờ đến đảo bằng thuyền máy. Trong các sườn núi trên đảo có nhiều dòng
suối đẹp, nước trong vắt, mái lạnh. Vào sâu hơn nữa là những cánh rừng rậm
phủ kín khắp sườn núi. Ở đây tài nguyên rừng rất phong phú và gần như đang
còn nguyên vẹn có mặt nhiều loại động vật quy định, trung bình từ 20-24 0C ,
mùa đông khí hậu ấm áp mùa hè dịu mát, không có sương mù. Cù biển người ta
đã khai quật nhiều mảnh vỡ của đồ gốm chàm, Islan ở Trung Cận Đông, Thái,
Ấn Độ và Trung Quốc có niên đại từ thế kỷ XIII đến thế kỷ X, chứng tỏ hòn đảo
này từng là điểm dừng chân của các tàu buôn ghé vào tránh gió biển, trao đổi
hàng hóa … vì thế Cù Lao Chàm được xem là chiếc bình phong trên biển Hội
•
An
Bãi Biển Quảng Nam
Với 125km bờ biển kéo dài, ở Quảng Nam nơi đâu cũng có thể trở thành
bãi tắm lý tưởng trong ánh nắng chan hòa, bờ cát trắng mịn màng…
Cách trung tâm phố cổ Hội Anvề phía đông 4km, bãi biển Cửa Đại là bãi
tắm lý tưởng song nhỏ với dãy cát trắng, nước biển trong xanh luôn lấp lánh ánh
nắng mặt trời. Sau khi dạo vòng phố Hội thăm các di tích, đình chùa, các góc
phố cổ kính… Bạn hãy theo đường 608 nối dài đến hóng gió biển ăn các món ăn
đặc sảnở Cửa Đại
Cách thị xã tam Kỳ7km về phía đông, bãi tăm Tam Thanh là bãi tắm
đẹp,rộng vài chục ha, quanh năm ánh nắng chan hòa, bãi biển sạch sẽ…ngày
càng thu hút nhiều du khách
Dạo bước trên bãi Rạng dọc căn cứ Chu Lai khi mặt trời ửng hồng phía
chân trời, sau màn sương mỏng, từng chiếc thúng chai nhấp nhô ngoài khơi
thẳng tiến vào bờ sau đêm dài lênh đênh trên biển khiến du khách ngẩn ngơ
Khi mặt trời dần tách khỏi đường chân trời phóng từng chùm tơ nắng rải
thảm trên biển xanh lấp lánh mõm Bàn Than, hòn Cù lao ẩn hiện xa xa
15
Bãi biển Hà My thuộc xã Điện Dương,huyện Điện Bàn cách thắng cảnh
Ngũ Hành Sơn 6km về phía nam mang vẻ đẹp hoang sơ, trong lành của bãi cát
•
trắng, của rừng dương xanh mướt lao xao gió biển
Thắng cảnh Ngũ Hành Sơn:
Dường như ai từng biết đến Đà Nẵng là biết đến Ngũ Hành Sơn. Nó nổi
tiếng đến độ nhiều người muốn xem nó như là biểu tượng của vùng đất này.
Không gian huyền ảo, thơ mộng, chùa chiền và hang động, cây cỏ và tiếng
chuông chùa, sóng vỗ và những dằng dặc nghìn trùng... cách không xa trung tâm
thành phố, Ngũ Hành Sơn từ lâu đã thật sự là một cõi thiên thai dành cho du
khách.Gần 200 năm trước, vua Minh mạng đã từng đến đây. Ông đã tự mình đặt
tên cho núi, cho các hang động, chùa chiền. Không ai biết những cái tên như
Ngũ Hành Sơn, Huyền Không, Hóa Nghiêm, Lăng Hư, Tàng Chân, Vân Nguyệt,
Thiên Long... đã làm nhà vua phải suy nghĩ mất hết biết bao nhiêu thời gian.
Nhưng có một điều chắc chắn rằng, giữa
những lo toan quốc kế dân sinh, trong tâm hồn của con người này, cảnh trí
Ngũ Hành Sơn đã chiếm một phần quan trọng như một nỗi tự hào về một miền
đất xinh đẹp.Nơi đây, các dấu ấn văn hoá lịch sử còn in đậm trên mỗi công trình
chùa, tháp đầu thế kỷ XIX, trên mỗi tác phẩm điêu khắc Chàm của thế kỷ XIV,
XV. Những bút tích thi ca thời Lê, Trần còn in dấu trên các
vách đá rêu phong trong các hang động. Những di tích văn hoá lịch sử
như mộ mẹ tướng quân Trần Quang Diệu, đền thờ công chúa Ngọc Lan
(em gái vua Minh Mạng), bút tích sắc phong quốc tự còn lưu giữ tại chùa
Tam Thai của triều Nguyễn, đến các di tích lịch sử đấu tranh cách mạng như Địa
đạo núi đá Chồng, hang Bà Tho, núi Kim Sơn, hang Âm Phủ,... Tất cả chứng
minh hùng hồn về một Ngũ Hành Sơn huyền thoại, về một vùng đất địa linh
nhân kiệt đầy chất sử thi.Cũng như nhiều địa danh khác, những ngọn núi này
bao bọc quanh mình nó rất nhiều những huyền thoại khác nhau. Không gian thơ
mộng của cảnh trí và vẻ bãng lãng cổ tích của những câu chuyện cổ đã mang lại
cho Ngũ Hành Sơn cái ý vị mà ít nơi nào có được. Trong tư duy triết học của
Trung Hoa, Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là những yếu tố cấu thành vũ
trụ. Con số 5 là con số cực kỳ quan trọng trong tư duy và trong đời sống phương
Đông. Nhìn như thế, trong sự trùng hợp ngẫu nhiên, 5 ngọn Kim Sơn, Mộc Sơn,
Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn tự
trong mình nó đã hàm chứa những vẻ kỳ bí dị thường.
16
•
Bán đảo Sơn Trà:
Sơn Trà là một đặc ân mà thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho Đà
Nẵng. Đứng bất cứ ở đâu trên đất Đà Nẵng đều có thể nhìn thấy ngọn núi này.
Trong dáng nhoài người vươn ra biển, Sơn Trà là một bức bình phong khổng lồ
che chắn bão giông cho thành phố.Nằm cách trung tâm thành phố 10 km về phía
Đông Bắc, bán đảo Sơn Trà với độ cao 693 m so với mực nước biển; giống hình
một cây nấm, đầu nấm là núi Sơn Trà và thân nấm là bãi cát bồi, lắng đọng, tạo
nên những bãi cát vàng đẹp đẽ, trong lành. Đây còn là một khu bảo tồn thiên
nhiên đa dạng và phong phú, được bảo vệ theo chế độ rừng cấm quốc gia, nổi
tiếng là nơi có thảm thực vật đặc sắc với nhiều loại thú rừng quí hiếm như hươu,
nai, khỉ, vượn, đười ươi, voọc chà vá, gà mặt đỏ... cảnh vật thiên nhiên nơi đây
rất quyến rũ; dân gian đồn rằng các vị tiên từ trên trời thường chọn bãi cát nơi
đây để giáng trần, ca múa, đánh cờ với nhau... nên còn có tên là Tiên Sa. Trên
đỉnh Sơn Trà, vừa tận hưởng không khí mát dịu, trong lành của biển và núi, vừa
phóng tầm mắt ra xa, toàn cảnh thành phố Đà Nẵng, Ngũ Hành Sơn, rặng Bà Nà
- Núi Chúa...như thu gọn vào trong tầm mắt của mỗi người.
Và cũng tại đây, du khách có thể đếm thăm con suối Đá thơ mộng bên
chân núi, hòa mình vào dòng nước mát lạnh của biển, ngắm nhìn những bãi cát
vòng quanh bán đảo sạch sẽ và mịn màng, nước triều đều đặn lên xuống hàng
triệu năm bào mòn và lau sạch bóng những tảng đá chồng chất ven bờ, dừng
chân tại Bãi Bụt yên tĩnh với những khu nhà nhỏ xin xắn để nghe sóng vỗ hoặc
dõi theo cánh bay của những con chim yến đã đi làm tổ hướng về các bờ đá
chênh vênh.Và ngay dưới chân núi, với những bãi san hô tuyệt đẹp, đầy màu sắc
sẽ là nơi lý tưởng để phát triển các loại hình du lịch lặn.
5. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật
a. Đường đến Quảng Nam-Đà Nẵng
-
Đường bộ: Nhiều tuyến đường đi qua QN như 1A,14B…nên việc đi
lại bằng đường bộ đến QN khá thuận lợi.
-
Đường không: Hiện Quảng Nam chưa có sân bay trực tiếp đến nhưng đến
Quảng Nam bằng đường không du khách có thể xuống sân bay gần đấy là sân
bay Đà Nẵng.
17
-
Tàu hỏa: Tuyến đường sắt Bắc-Nam chạy qua 4 ga của Quảng Nam là: Tam Kỳ,
Trà Kiệu, Phước Chỉ, Chu Lai có chiều dài là 95km là đầu mối giao thong thuận
-
tiện xuyên suốt từ Bắc đến Nam
Đường biển : Cảng biển Kỳ Hà là 1 cảng nước sâu, rất thích hợp cho tàu trọng
tải lớn cập cảng
b. Nhà hàng –Khách sạn
Hệ thống nhà hàng khách sạn dày đặc , với những tiện nghi cao cấp , tiêu
chuẩn 4 sao, 5 sao… Và tiêu biểu như nhà hàng La Maison1888, khách sạn
HAGL Plaza.
•
Nhà hàng La Maison 1888
Vượt qua nhiều nhà hàng đẹp danh tiếng khắp thế giới, La Maison 1888,
nằm trong khuôn viên InterContinental Danang Sun Peninsula Resort ngay tại
thành phố biển Đà Nẵng lọt đến “top” 4 trong danh sách 10 nhà hàng đẹp nhất
thế giới mà NewYork Daily New và The Daily Meal vừa công bố này.Nép mình
ở sườn đồi, thực khách tại La Maison 1888 sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của
biển cả và núi rừng tại cùng một địa điểm. Nhà hàng là nơi hội tụ sự tinh tế của
ẩm thực Pháp với cảnh quan tuyệt đẹp của Núi Khỉ, mang đến thực khách một
trải nghiệm ẩm thực khó quên. La Maison 1888 được tái tạo không gian ngôi
biệt thự Pháp cổ với từng khu vực ẩm thực thiết kế riêng biệt, như Phòng Du
khách, Phòng Kế toán hay Phòng nghỉ ngơi của một Quý bà.
•
Khách sạn HAGL Plaza
Khách sạn HAGL Plaza Đà Nẵng cao 23 tầng là một trong những tòa nhà
cao nhất Đà Nẵng với lối kiến trúc Phương Tây sang trọng xa hoa sẽ làm du
khách ngạc nhiên khi đặt chân đến đây. Với những hồ bơi ngoài trời có một màu
xanh biếc bạn có thể thỏa sức ngâm mình trong làn nước mát lạnh sẽ xoa dịu
mọi mệt mỏi trong bạn.
Khách sạn HAGL Plaza Đà Nẵng đạt tiêu chuẩn 5 sao với 206 phòng
trang bị đầy đủ tiện nghi, diện tích rộng rãi và thoải mái. Từ phòng Deluxe, bạn
có thể nhìn thấy toàn bộ khung cảnh của sông Hàn và biển Đà Nẵng đẹp nên thơ
dưới tầm mắt của bạn. Với sàn lót gỗ cao cấp công với vị trí là ở tầng cao giúp
bạn có thể nhìn thấy toàn khung cảnh Thành Phố đẹp rực rỡ dưới những ánh đèn
về đêm. ngắm nhìn sông Hàn rực rỡ ánh đèn vào ban đêm. Phòng Executive
18
Suites là sự kết hợp giữa kiến trúc Pháp cổ điển với kiến trúc văn hóa Việt Nam
tạo nên nét tinh tế và độc đáo.
Khách sạn HAGL Plaza Đà Nẵng với Nhà hàng Địa Trung Hải rộng lớn
để bạn có thể tự do lựa chọn nhiều món ăn phương Tây và Phương Đông. Ngoài
ra Khách Sạn thường xuyên tổ chức tiệc đứng với nhiều loại rượu vang nổi tiếng
và món ăn Âu Á.
Nằm ngay trung tâm mua sắm, giải trí, thương mại và dịch vụ của thành
phố
. Cách bãi biển Đà Nẵng 2 km (10 phút)
. Cách Ngũ Hành Sơn 2 km (10 phút)
. Cách sân bay quốc tế Đà Nẵng 1km (5 phút)
6. Danh nhân văn hóa
Bên cạnh những danh lam thắng cảnh ,những món ngon nổi tiếng ,vùng
đất Quảng Nam-Đà Nẵng còn là quê hương của rất nhiều danh nhân văn
hóa,những vị anh hùng còn lưu danh trong những trang sử của dân tộc như :
Ông Ích Khiêm , Huỳnh Thúc Kháng , Trần Cao Vân ... và đặc biệt là 2 nhân vật
tài hoa gắn liền với lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc đó là
Hoàng Diệu và Phan Châu Trinh .
a.Tổng đốc Hoàng Diệu
là vị quan tổng đốc dưới triều Nguyễn ,ông là người đã quyết tử bảo vệ
thành Hà Nội trước cuộc tấn công của quân pháp năm 1882 . Ông tên thật là
Hoàng Kim Thích .ông sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống nho học ở
làng Xuân Đoài ,huyện Diên phước tỉnh Quảng Nam .
Ngày 25-4-1882, thực dân Pháp tấn công Hà Nội, ông chống trả quyết
liệt, nhưng thế yếu, sức cô. Ông đành viết di biểu trần tình rồi tuẫn tiết để tránh
rơi vào tay giặc. Mộ ông được nhân dân cải tang trang trọng tại quê nhà
b. Phan Chu Trinh
Phan Chu Trinh (1872-1926) là chí sĩ yêu nước , người khởi xướng phong
trào Duy Tân(1908). Phong trào Duy Tân thất bạim ông bị đày đi Côn Lôn. Từ
năm 1910, khhi ra tù ông tiếp tục hoạt động cho phong trào khithì ở trong nước
khi thì ở ngoàu nước và nhiều lần bị bắt được trắng án. Năm 1923, ông trở về từ
pháp, và 3 năm sau năm 1926, ông lâm bệnh qua đời tại Sài Gòn
19
Hiện nay để tưởng nhớ đến ông, tại miền quê Tây Lộc, xã Tam Lộc, thị xã
Tam Kỳ trên nền ngôi nhà cũ nơi cụ Phan được sinh ra, chính quyền đã cho xây
dựng 1 ngôi nhà lưu niệm, theo kiến trúc cổ để trưng bày 1 số hình ảnh, tư liệu
về cuộc đời của cụ, một ao sen rộng 500m 2 và dấu tích các bậc tam cấp vào
nhà… được bao bọc trong lũy tre làng
20