Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TÌM HIỂU, KHẢO SÁT VỀ THỊ HIẾU CỦA CÔNG CHÚNG VỚI ÂM NHẠC DÂN GIAN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.9 KB, 21 trang )

TÌM HIỂU, KHẢO SÁT VỀ THỊ HIẾU CỦA CÔNG
CHÚNG VỚI ÂM NHẠC DÂN GIAN VIỆT NAM

BỐ CỤC:
1


Chương 1: Khái quát về âm nhạc dân gian Việt Nam.
Chương 2: Mộtsố làn điệu tiêu biểu trong âm nhạc dân gian và thị hiếu của công
chúng
2.1.Chầu văn
2.2. Xẩm
2.3. Đờn ca tài tử
2.4. Trống quân.
Chương 3: Định hướng thị hiếu âm nhạc dân gian Việt Nam của công chúng ở
trong giai đoạn hiện nay.

2


NỘI DUNG CHI TIẾT:

Chương 1: Khái quát về âm nhạc dân gian Việt Nam
Khái niệm “Âm nhạc dân gian”

1.1.

Nhạc sỹ Thao Giang có nói: “ âm nhạc dân gian rất rộng, bạn không thể bao
quát hết được nó, cũng không thể đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về nó, nhưng
ta có thể hiểu một cách đơn giản thì âm nhạc dân gian là:



Những sáng tác do nhân dân tạo ra trong quá trình lao động.



Không có tác giả cụ thể.



Mang tính bản địa



Thể hiện văn hóa từng vùng miền



Lối chơi ngẫu hứng.

1.2. Các loại hình âm nhạc dân gian
Âm nhạc dân gian được chia thành 4 loại hình sau:


Dân ca Việt Nam

-

Bài hát dân ca Việt Nam

-


Quan họ

-

Xẩm

-

Ca trù



Hát Hà lều
Hát Lượn
Hát sli
Hát soong hao


-

Điệu hát dân tộc miền núi phía Bắc

Nhạc cổ truyền Việt Nam
Nhạc cung đình
Nhạc lễ
Dân ca, hò
3




-

Nhạc cụ dân tộc Việt Nam
Đàn Bầu
Đàn Đá
Đàn Môi

1.3. Đăc trưng âm nhạc dân gian Việt Nam
-

Đáp ứng nhu cầu củanhân dân (trang điểm, giải trí, tín ngưỡng, tôn giáo,
lao động...) và nói lênsuy nghĩ, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân.

-

Tính chất âm nhạctrong sáng mượt mà đằm thắm, với giai điệu uyển
chuyển và tiết tấu dàntrải.

-

Diễn tả tâm tư tình cảm củangười lao động, tiết tấu và giai điệu âm
nhạcthể hiện tính chất lao động khác nhau của mỗi vùngmiền.

1.4. Một số tác phẩm tiêu biểu
-

Quan Họ: Ngồi tựa mạn thuyền, Khách đến chơi nhà, Qua cầu gió bay…

-


Xẩm: Hà Nội 36 phố phường….

-

Ca trù: Hồng hồng tuyết tuyết…

-

Hát Then: Ai lên xứ Lạng, Giai điệu quê hương…

Chương 2: Một số làn điệu tiêu biểu trong âm nhạc dân gian và thị hiếu của
công chúng
2.1.
2.1.1.

HÁT CHẦU VĂN.
KHÁI QUÁT TÊN GỌI VÀ LỊCH SỬ HÌNH HÌNH THÀNH NGHỆ
THUẬT CHẦU VĂN

 Tên gọi
-

Hát văn hay còn gọi là Chầu Văn, Chầu Bóng.

-

Hình thức gắn liền với nghi thức Hầu đồng của tín ngưỡng tứ phủ ( Đạo
Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần.


 Lịch sử hình thành
-

Căn cứ vào những ghi chép rời rạc, Tín ngưỡng Tứ Phủ ít nhất có từ thời
Lý.

4


+

Trong “ Thiền uyển tập anh” nói về nhà sư Khánh Hý, tăng thống thời

Lý Thần Tông( trụ trì chùa Từ Liêm – Hà Nội, mất năm 1135) khi cùng thầy
đến nhà thí chủ, Khánh Hỷ hỏi thầy rằng: “ Ý thầy của Tổ Thiền là thế nào
mà thầy đến nhà dân nghe đồng cốt nói nhảm”. Bản tịch trả lời : “ Hỏi như
vậy chẳng hóa ra nói thầy đồng cốt giáng thần à?”


Thời Lý đã có hiện tượng lên Đồng.

-

Thời kì thịnh vượng nhất : cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.

-

1954: mai một vì được coi là hình thức mê tín dị đoan.

-


1990: có cơ hội phát triển

-

Hiện nay nàh nước đang hoàn thành hồ sơ trình UNESCO công nhận
nghệ thuật hát Chầu Văn là di sản nhân loại.

 Địa điểm hình thành
-

Quê hương ra đời hát Văn, Hầu Đồng là đồng bằng Bắc bộ.

-

Trong quá trình lịch sử, theo gót người Việt vào Trung và Nam bộ.



Hình thành sắc thái địa phương trong hát Văn và Hầu Bóng.
Những đặc điểm của nghệ thuật Hát Văn và nghi lễ Hầu bóng.

Đặc điểm của nghệ thuật hát Văn.
Là một thể loại âm nhạc tín ngưỡng ( hoặc âm nhạc nghi lễ).
Được nghi lễ quy định chặt chẽ về mặt làn điệu, nội dung, hình thức trình diễn
Chứa đựng tính hồn nhiên, đa dạng của văn háo dân gian.
Gắn với tín ngưỡng Tứ Phủ.Là thể loại âm nhạc được quy định chặt chẽ:
trình diễn; phương thức trình diễn; trang phục; kết hợp hát và múa với các “
Giá” của người Hầu bóng.
Yếu tố sân khấu : Sự xuất hiện của những nhân vật múa khác nhau.

-

Mỗi nhân vật có lai lịch, tính cách, làn điệu riêng.

VD: Văn Chầu Đệ Nhất – Sự tích Mẫu Thượng Ngàn.
“ Vốn dòng công chúa thiên thai
5


Giáng về hạ giới quản cai thượng ngàn
Quản cai các lũng, các làng
Sơn Tinh, cầm thú hổ lang khấu đài
Gặp thời Thái Tổ khởi binh
Theo vua giệt giặc Liễu Thăng đầu hàng
Vua sai trấn giữ các Châu
Khắp hòa xứ Lạng địa đầu giang sơn”


Sự phong phú đa dạng gắn với các thể lọa sân khấu truyền thốn như
Chèo : Âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong việc khắc họa nhân vật.

- Hát văn quy tụ khá nhiều yếu tố loại hình, hình thức dân ca, dân nhạc địa
phương, các vùng, các dân tộc khác nhau.
Các thần linh thuộc hang Chầu là người đân tộc thiểu số, mỗi lời văn phù hợp
với từng nhân vật nên mang đặc trưng của một dân tộc tương ứng.
-Một trong những hình thức hiếm hoi có sự kết hợp chặt chẽ với múa – loại hình
cổ xưa của nguwoif việt đã bị mất đi.”
Cấu trúc: Dùng 2 hình thức.
-


Hình thức Nhắc Lại : giai điệu được lặp đi lặp lại phù hợp với lời ca và độ
dài lời ca.

-

Hình thức Căn Phương: mỗi làn điệu có cấu trúc 2 vế cân đối, ứng trọn
vẹn trong 1 câu lục bát hoặc 1 khổ thơ song thất lục bát( gồm 2 phần:
phần lục và phần song thất )

-

Trong hát Văn bài thơ được phân thành từng khổ. Có 4 khổ chính:

+ Khổ câu lục rồi khổ câu bát
+ Khổ câu lục bát
+ Khổ câu song thất
+ Khổ câu song thât lục bát.
-

3 tiếng sau mỗi phần thơ có vần đệm gọi là Lưu Không.
6


-

Người trình diễn hát Văn thường được tổ chức thành từng cặp.( 2 người).

+ Người sử dụng đàn gẩy đảm nhận phần tiết tấu, giai điệu.
+ Người đảm niệm phần tiết tấu.


-

Không ngừng phát triển bào bản làn điệu dân ca, phương thức trình diễn.

+ Lời lẽ,ngôi từ cách tân, cải biến phù hợp.
+Hát Văn là một nhân tố giúp tín ngưỡng Tứ Phủ phát triển, đáp ứng được
nhu cầu thẩm mĩ của quần chúng( những người theo tín ngưỡng này).
-

Biểu hiện của những yếu tố dân gian qua mọi mặt: thần linh, bài trí nơi
thờ cúng, các nghi lễ thờ cúng.

+ Mang những nét gần gũi với hình thức âm nhạc dân gian khác như nghi
thức hát nghi lễ của Hát Dò, Hát Chèo Tàu, Hát Xoan.
+ Yếu tố sân khấu có nét gần gũi với sân khấu Chèo truyền thống, vớ những
yếu tố Thánh Phòng. Hát Văn – Ca trù có mối liên hệ ảnh hưởng qua lại.
+ Hát Văn tiếp thu những yếu tố của âm nhạc dân gian: Quan họ, hò
Huế,dân ca miền núi phía Bắc( các điệu Xá), dân ca miền núi phía nam( dân
ca Xê Đăng).
2.1.2. NGHI THỨC HẦU ĐỒNG
- Hầu Bóng là một tục gắn liền với tâm linh của người Việt – đặc trưng tiêu
biểu của Đạo Mẫu.
- Hầu bóng là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác ông
Đồng, Bà Cốt.
+ Hát Văn là loại hình phục vụ cho qúa trình nhập Đồng hiển thánh.
+ Hầu bóng chính là “ Sa Man Giáo” từ thời thương cổ của nhiều dân tộc
trên thế giớ.
+ Hầu bong được xem là một hình thức diễn xướng dân dan gian có đủ yếu tố
Lễ nhạc và Vũ Đạo.


7


-

Các nghi thức chuẩn bị cho một buổi Hầu Bóng:

+ Điện thờ: Điên thờ chính hệ thống Mẫu Tứ Phủ, Mẫu Thượng Thiên ở
giữa, Mẫu Địa bên phải, Mẫu Thoải bên trái, Mẫu Thượng Ngàn.
+ Chọn ngày lành tháng tốt để chuẩn bị từ hầu với thủ nhang nhà đền,phủ
hay điện.
-

Nhân sự cho một buổi Hầu đồng: Hai người phụ đồng là người thân hay
người trong nguười hoặc trong nhóm avft một cung văn.

-

Trang phục : Trang phục thích hợp cho từng viển, thần nhập đồng.

Khăn đỏ phủ diện
+ Ít nhất là 5 chiếc áo dài mầu sắc khác nhau và một quần dài trắng
+ Khăn tấu hương và một ít loại khăn khác
+ Thắt đai lưng mầu
+ Thẻ ngà, kiềng bạc, vòng, hoa tai, chuỗi hạt, xuyến, quạt và son phấn
+ Tuy nhiên cũng có trường hợp, người hầu đồng chỉ cần một vuông vải đỏ.
vật
Lễ vật trình đồng phải khác với lễ vật hầu bản mệnh hay tiệc khao, được trình
bày trên một kỷ tháp hình chữ nhật kê chính giữa và gồm những thứ sau đây:
Chén đũa bạc, đĩa và cốc pha lê chính giữa là một cái gương trên phủ một chiếc

khăn thêu. Hai bên bục và trước kỷ ( bày bốn mâm lễ Tứ Phủ mỗi mâm có chín
quả trứng, một cái lược, một cái quạt, một đôi guốc, chín vuông vải nhiễu mầu
phủ lên trên (nhiễu hoặc lụa). Mầu phải là ma6`u chính của Tứ Phủ (Xanh, đỏ,
trắng và vàng). Bên cạnh mâm lễ có một cái chung nhỏ , một cái thau nhỏ. Cứ
mỗi lễ phải thay một hình nhân (nôm) và bốn lốt . Bên cạnh mâm lễ Tứ phủ là
mâm lễ sơn trang , mà bất cứ thứ lễ gì cũng phải chia ra làm 13 phần . Một phần
lớn bày ở giữa còn 12 phần nhỏ bày xung quanh. Ngay cạnh đó là một mâm hài
sơn trang (hoặc giống) mầu. Mũi hài có thêu hình chim phượng. Một trăm vàng
thoi (Giấy vàng xếp thành thoi).
Ở dưới bệ, trước bàn thờ bầy đủ các loại mã và một chiếc thuyền rồng hình cánh
8


phương có 12 hinh nhân chèo thuyền, một đôi ngựa và một đôi voi có đủ yên
cương và hàm thiếc. Những đồ dung mã người ta sẽ hóa (đốt) sau khi lễ.
Ngày ngay lễ vật có thay đổi đôi chút tùy nơi, tuy nhiên vẫn phải giữ căn bản tối
thiểu tùy đồng tiền dâng cúng.
- Trình Tự Của Giá Đồng
+ Thay Lễ phục:
Mỗi vị thánh đều có lễ phục riêng phù họp với danh hiệu của vị đó và mầu sắc
cũng khác biệt tùy từng phủ, từng gốc tích sắc tộc gốc, phẩm hàm cũng như văn
hay võ.
+ Dâng hương hành lễ:
Đây là một nghi thức không thể thiếu được cho bất cứ gía nào. Hầu đồng tay trái
cầm một bó nhang đã đốt sẵn, boc trong mot chiếc khăn có tẩm hương. Tay phải
rút một nén nhang rồi huơ lên bó nhang trong tay làm động tác phù phép mà
ngôn ngữ hầu đồng gọi là khai nông, để xua đuổi tà ma
+ Lễ thánh giáng
Khi hầu đồng có thánh nhập vào thì buông các nén hương đang cầm theo tay
chắp , nghiêng mình ra hiệu thánh thuộc hạng thứ bậc nào.

+ Múa đồng
Hình thức diễn xướng đã được cách điểm hóa, khẳng định sự ứng nhập của thần
linh.
Mỗi động tác múa trong các giá chầu phản ánh con người thật cảu vị thánh giáng
đồng.
+ Ban lộc và nghe Chầu Văn
Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị
thánh đang giáng. Với các ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh
biểu hiện sự bằng lòng bằng các động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn.
+ Thánh thăng
9


Người hầu ngồi yên, hai tay bắt chéo trước chán quạt che lên đỉnh đầu, khẽ rùng
mình, thanh đông phủ khăn, cung văn trỗi nhạc và hát điệu thánh giá hồi cung.
Cung văn kết thúc.
-Dàn nhạc Hầu Bóng
+ 1 đàn Nguyệt
+ 1 nhị
+ 1 sáo
+ 1 trông lớn
+ 1 trống nhỏ
+ 1 cảnh đôi
+ 1 phách
Tùy theo địa phương, hoàn cảnh nguời ta có thể thêm bớt nhạc cụ nhưng không
thể bớt đi đàn nguyệt, trống nhỏ, cảnh đôi, nhạc cụ tính cách của dàn nhạc hầu
bóng.
 Các Giá trong nghi lễ Hầu Bóng
Trên thực tế có 36 giá hầu, tuy nhiên không phải thanh đồng nào cũng hầu đủ 36
giá. Thường thì họ hầu 15- 23 giá.

 Các thần linh hàng Chầu
- Chầu Đệ Nhất : Mẫu Thượng Thiên
- Chầu Đệ Nhị : Mẫu Thượng Ngàn( người Mán)
- Chầu Đệ Tam: Mẫu Thoải, hóa thân Mẫu Thủy phủ
+ Mang dáng vể u buồn,
Chầu Đệ Tứ: Vị thánh giữ vai trò Khâm sai tứ phủ, múa quạt.
Chầu Đệ Ngũ: ít giáng.
Đặc điểm các thần linh hàng Chầu: Là người dân tộc thiểu số.
 Các thần linh hàng Ông Hoàng
- Ông Hoàng Đệ Nhất : Tướng Lê Lợi
- Ông Hoàng Đôi: ở Thanh Hoa, quan Triệu Tường

10


- Ông Hoàng Bơ( Ba): thờ ở đền Lảnh – Hà Nam, phò vua đánh giặc, mang
phong cách thủy thần,
- Ông Hoàng LỤc: tướng trần Hưu- có công giết giặc Minh.
Ông Hoàng Bảy ( Hoàng Bảo Hà): vien quan triều đình, gaanfguix với vuingf
Lào Cai, Yên Bái.
“ Bao phen chiến lược tung hoành
Định yên xã tắc đề binh cõi ngào
Đất Lào Cai nơi dụng võ
Quyết ra tài đội nguc tiến công
Biên cương súng nổ đùng đùng
Sa trường xương núi, máu sông chẳng nè “
Ông Hoàng Bát; người Nùng
Ông Hoàng Mười : tướng nhà Lê- Nghệ An thờ ở Bến Thủy
Đặc điểm chung của các ông Hoàng: tài hoa, nổi danh một thời, những nguwoif
hay giao du, ăn chơi sang trọng, thích thưởng thúc văn thơ, đa tình.

 Hàng Các Cô
Được gọi tên từ cô thứ Nhất ( Cô Cả) đến cô thứi Mười Hai ( Cô Bé): tất cả là
các thị nữ của thánh Mẫu hay các Chầu.
Các cô có vai trò trong việc chữa bệnh cứu nguwoif.
 Hàng Các Cậu
12 hay 11 vị hàng Cậu là những Bé Thánh tuổi từ 1-9 thuiwongf là những linh
hồn chết trẻ, thông minh,nhanh nhẹn và phụ tá các ông Hoàng.
 Thời gian diễn ra Hầu Bóng trong năm
- Lễ Xông Đền
- Lễ Hầu Thượng Nguyên( tháng giêng)
- Lễ Nhập hạ ( tháng tư)
- Lễ Tán Hạ ( Tháng 7)
- Lễ Hạp Ấn ( tháng 12)
. Lễ Tất Niên tháng 12.
11


- Trong năm có 2 lễ quan trọng nhất:
+ Tháng ba giỗ Thánh Mẫu
+ Tháng tám giỗ Vua cha Bát Hải Đức Thánh Trần
 Nhu cầu thị hiếu, sở thích của công chúng
- Các tầng lớp xã hội mở rộng, không chỉ là tầng lớp thị dân, người buôn bán,
nông dân mà lan ra các tầng lớp khác.
- Nhiều tín đò cúng lễ là người trẻ tuổi từ 20-30t
- Trong xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp với nhịp sống căng thẳng, luôn
biến động, mức độ tiếp nhận thông tin ngày càng lớn và dồn dập…. tạo nên dồn
né thàn kinh và tâm hồn nên con nguwoif hướng về tự nhiên, bấu víu vào những
giá trị giải thoát tâm linh.
- Nếp sống đô thị với những bon chen, căng thẳng trong việc làm ăn, buôn bán
cơ quan cũng atoj ra hướng muốn tìm chỗ dựa, tin vào lực lượng siêu nhiên trợ

giúp bản thân.
- Hat văn lôi cuốn được nhiều người hơn do đa dạng văn hóa dân tộc vùng miền.
không phân biệt vùng miền, nghề nghiệp.
- Sử dụng đồng tiền lộc đi mua bán, làm ăn mang lại may mắn cho gia chủ.
- Chức năng cơ bản của nghi thức nhập hồn là để chũa bệnh. Đoán số, ban phúc.
- Một bộ phận không nhỏ cho đây là mê tín dị đoan và không quan tâm.
2.2.

HÁT XẨM

2.2.1. Giới thiệu chung về hát xẩm
Xẩm là một loại hình dân ca, một thể loại âm nhạc dân dã của miền Bắc Việt
Nam, được lưu truyền phổ biến ở các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ với
những hình thức biểu diễn rất độc đáo, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.
"Xẩm" cũng còn được dùng để gọi những người hát xẩm - thường là người
khiếm thị đi hát rong kiếm sống và do đó hát xẩm còn có thể coi là một nghề
2.2.2. Nguồn gốc
Xẩm xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 ở nhiều tỉnh, thành miền Bắc
nhưng ở Hà Nội, Hát Xẩm trở thành nghệ thuật đường phố. Ban đầu chỉ có xẩm
12


Hà Nội, sau đó đã “loang” ra để có những điệu xẩm Ninh Bình, Nam Định,
Hưng Yên…
Bàn về ca từ và nội dung bài hát xẩm, cũng như nhiều thể loại nhạc nhân thanh
truyền thống khác, hát xẩm cũng có hai nguồn chính đó là xẩm khuyết danh và
xẩm có tên tác giả. Những bài xẩm khuyết danh thường bắt nguồn từ dân gian,
hầu hết là truyền miệng và không ai nhớ tên tác giả. Thể loại này rất phong phú
vì đa phần nội dung lời ca được chắt lọc từ ca dao, tục ngữ, truyện thơ dân gian.
Bên cạnh đó, những bài xẩm có tên tác giả cũng là một nét văn hóa tiêu biểu của

loại hình nghệ thuật này. Tác giả của những bài xẩm này là các nho sĩ nổi tiếng
như Nguyễn Khuyến, Phan Bội Châu, Hoành Sơn, Trần Trung Viên, Á Nam
Trần Tuấn Khải, v.v… Phong cách xẩm này có nhịp điệu hối hả hơn và ngôn
ngữ bóng bẫy hơn để phù hợp với lối sống thị thành
2.2.3. Đặc trưng của hát xẩm
Hát xẩm là một loại hình nghệ thuật dân gian có tính quần chúng cao, tính tuyên
truyền cộng đồng rộng rãi và có tính giáo dục cao. Là sản phẩm của người lao
động nên ca từ hết sức mộc mạc, chân thành, lời ca hát xẩm không chỉ phong
phú về thể loại như ca dao, tục ngữ, thơ lục bát, mà còn chứa đựng những triết lý
sâu xa về đạo lý cuộc đời.
Bộ nhạc cụ đơn giản nhất để hát xẩm chỉ gồm đàn nhị và sênh. Nhóm hát xẩm
đông người có thể dùng thêm đàn bầu, trống mảnh và phách bàn. Ngoài ra, đàn
đáy, trống cơm, sáo và thanh la cũng có thể hiện diện trong hát xẩm.
Xẩm có rất nhiều bài, nhưng có 7 bài đặc trưng là Xẩm chợ, Chênh bong, Riềm
huê, Ba bậc nhịp bằng, Phồn huê, Hát với ai và Xẩm thập ân với những làn điệu
Xẩm chợ, Xẩm thập ân, Xẩm tàu điện... Các bài xẩm về Hà Nội thường nhắm
đến hai đích, giới thiệu với người ở quê về đô thị phồn hoa này và “nịnh” người
dân thị thành, nơi hằng ngày họ nai lưng kiếm sống. Nếu ca trù, hát cô đầu là
“đặc trưng” của phố Khâm Thiên, thì hát xẩm là đặc trưng của chợ Đồng Xuân
và phố cổ.
Xẩm có hai làn điệu chính là xẩm chợ và xẩm cô đào
13


Trên thực tế, cách gọi tên các loại xẩm không phải theo làn điệu mà theo một số
tiêu thức khác:


Tên bài xẩm nổi tiếng: xẩm thập ân , xẩm anh Khoá ..




Theo mục đích, nội dung bài xẩm: xẩm dân vận ...



Theo môi trường biểu diễn: ngoài xẩm chợ và xẩm cô đầu, sau này còn có
một dòng xẩm của Hà Nội gọi là xẩm tàu điện thường được hát trên tàu điện.



Theo địa phương : hát xẩm Hà Nội, Ninh Bình,... Miền Trung và miền
Nam cũng có thể loại hát xẩm tuy khác ngoài Bắc.

Cho đến tháng 2 năm 2013, tỉnh Ninh Bình với nghệ nhân Hà Thị Cầu (19282013) được coi là người hát xẩm cuối cùng của thế kỷ 20, Những nghệ sĩ yêu
xẩm phải kể đến NSƯT Xuân Hoạch (Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam), Văn Tý
(Viện Văn hóa dân gian), Thanh Ngoan (Nhà hát Chèo Việt Nam), Đoàn Thanh
Bình (Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh), cô “xẩm trẻ” Mai Tuyết Hoa (Viện
Âm nhạc)… cùng các nhạc sỹ Hạnh Nhân, Hồng Thái, Lê Cương, Tự Cường…
đã tập hợp về Trung tâm Phát triển nghệ thuật âm nhạc Việt Nam của Giáo sư,
Tiến sĩ Phạm Văn Khang và nhạc sỹ Thao Giang từ năm 2003.
2.2.4. Tình hình phát triển và thị hiếu của người Việt Nam với hát xẩm
Cũng giống như các loại hình nghệ thuật cổ truyền khác của dân tộc, hát Xẩm
vốn có lịch sử tồn tại, phát triển từ nhiều thế kỷ trong không gian văn hóa của
người Việt
Từ khi ra đời cho đến giữa thế kỷ 20, hát xẩm được nhiều người khiếm thị sử
dụng làm nghề kiếm sống nơi bến đò, chợ búa hay lang thang trên những nẻo
đường.. . Tuy nhiên, ban đầu, hát xẩm chưa được coi trọng, nhiều người cho
rằng nó có xuất thân thấp kém.
Sau này, khi Xẩm dần phát triển, mở rộng đối tượng và đã nhận được sự quan

tâm và yêu thích của quần chúng.

14


Tuy nhiên,những năm 70, loại hình nghệ thuật này mai một rồi đi dần vào quên
lãng. Kể từ đó những người hát xẩm không còn được hành nghề nữa,khiến rất ít
người biết đến.
Từ chỗ có nguy cơ thất truyền, đến giờ, công chúng Thủ đô có thể thưởng thức
hai buổi hát xẩm mỗi tuần trong khu phố cổ, vào các tối thứ sáu, thứ bảy hằng
tuần. Hát xẩm đang từng bước thành công trong việc tìm đường đến với công
chúng Thủ đô.
Khi sân khấu hát xẩm xuất hiện trên khu phố đi bộ Hàng Đào - Đồng Xuân từ
đầu tháng 4-2006, bỗng nhiên người ta thấy xẩm vẫn còn duyên và mặn mà lắm
, sân khấu hát xẩm tại chợ Đồng Xuân mỗi đêm thứ bảy đã có khoảng 1.000
khán giả, phần lớn là những người trẻ tuổi.
Không những thế, khu phố cổ mới có thêm một địa chỉ dành cho người yêu
xẩm, đó là đền Quán Đế ở 28 phố Hàng Buồm. Cứ vào tám giờ tối thứ sáu, buổi
biểu diễn xẩm bắt đầu. Hàng Buồm là phố đi bộ, không gian hẹp hơn chợ Đồng
Xuân, nhưng cũng thu hút hàng trăm khán giả.
Trên địa bàn thành phố ngày càng xuất hiện thêm các câu lạc bộ, các nhóm
hát xẩm. Nhóm Xẩm Hà thành là một trong số đó. Nhờ chiếm được cảm tình
của công chúng, nhiều làn điệu xẩm đang từng bước được khôi phục, ngày càng
có nhiều người quan tâm hơn. Nếu trước kia, những buổi biểu diễn tại chợ đêm
phố cổ thường do các nghệ sĩ, nghệ nhân cao tuổi tham gia, thì nay, các bạn trẻ
thế hệ 8X, 9X dần thay thế, trở thành lực lượng nòng cốt. Càng ngày,lại có
nhiều bạn trẻ yêu mến và muốn tìm hiểu về nghệ thuật âm nhạc dân gian đầy
độc đáo này.
2.3.


ĐỜN CA TÀI TỬ

2.3.1 Khái niệm
- Bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian đờn ca tài
tử là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng Nam Bộ. Đây là một loại

15


hình nghệ thuật của đàn và ca, do những người bình dân, thanh niên nam nữ
nông thôn Nam Bộ hát ca sau những giờ lao động.
- Là loại hình diễn tấu có ban nhạc gồm 4 loại là đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và
đàn bầu (gọi là tứ tuyệt), sau này, có cách tân bằng cách thay thế độc huyền cầm
bằng cây guitar phím lõm. Những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là
bạn bè, chòm xóm với nhau. Họ tập trung lại để cùng chia sẻ thú vui tao nhã nên
thường không câu nệ về trang phục.
2.3.2. Nguồn gốc - Lịch sử hình thành và phát triển
- Đờn ca tài tử hình thành và phát triển từ cuối thế kỉ 19. Loại âm nhạc này đúng
ra là một loại nhạc thính phòng thường trình diễn trong phạm vi không gian
tương đối nhỏ như trong gia đình, tại đám cưới, đám giỗ, sinh nhật, trong các lễ
hội, sau khi thu hoạch mùa vụ, thường được biểu diễn vào những đêm trăng
sáng ở xóm làng.
- Nguồn gốc của nhạc tài tử là ca Huế, pha lẫn âm nhạc từ các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngãi. Loại nhạc này mang đậm tính cách giải trí vui chơi chứ không
thuộc loại nhạc lễ.
- Nghệ thuật Đờn ca tài tử đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi
vật thể; hiện đang được phát triển ở 21 tỉnh, thành phố phía Nam Việt Nam là:
An Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bến Tre, Bình Dương, Bình Phước,
Bình Thuận, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hậu Giang, TP Hồ Chí
Minh, Kiên Giang, Long An, Ninh Thuận, Sóc Trăng, Tây Ninh, Tiền Giang,

Trà Vinh và Vĩnh Long. Trong đó, Bạc Liêu, Bình Dương, Tiền Giang và TP.
Hồ Chí Minh là những tỉnh, thành phố có nhiều người hát đờn ca tài tử nhất.
2.3.3. Đặc trưng
- Người thực hành Đờn ca tài tử gồm: người dạy đàn (thầy Đờn) có kỹ thuật đàn
giỏi, thông thạo những bài bản cổ, dạy cách chơi các nhạc cụ; người đặt lời (thầy
Tuồng) nắm giữ tri thức và kinh nghiệm, sáng tạo những bài bản mới; người dạy
ca (thầy Ca) thông thạo những bài bản cổ, có kỹ thuật ca điêu luyện, dạy cách ca

16


ngâm, ngân, luyến,...; người đờn (Danh cầm) là người chơi nhạc cụ và người ca
(Danh ca) là người thể hiện các bài bản bằng lời.
- Đờn ca tài tử được thực hành theo nhóm, câu lạc bộ và gia đình, ít khi nhạc
công độc tấu, mà thường song tấu, tam tấu, hòa tấu. Dàn nhạc thường cùng ngồi
trên một bộ ván hoặc chiếu để biểu diễn với phong cách thảnh thơi, lãng đãng,
dựa trên khung bài bản cố định gọi là “lòng bản”. Khán giả có thể cùng tham gia
thực hành, bình luận và sáng tạo.
- Đờn ca tài tử được truyền dạy theo hai hình thức: truyền ngón, truyền khẩu
trực tiếp tại nhà, câu lạc bộ, gia đình, dòng họ; truyền ngón, truyền khẩu kết hợp
với giáo án, bài giảng tại một số trường văn hóa nghệ thuật địa phương và quốc
gia. Người học đàn cần ít nhất 3 năm để học những kỹ năng cơ bản như: rao,
rung, nhấn, khảy, búng, phi, vê, láy, day, chớp, chụp…; học chơi độc chiếc, tam
tấu, tứ tấu, ngũ tấu, lục tấu với các nhạc cụ khác nhau. Người học ca (đơn ca,
song ca) học những bài truyền thống, trên cơ sở đó sáng tạo cách nhấn nhá,
luyến láy tinh tế theo nhạc điệu và lời ca của bài gốc.
- Đờn ca tài tử thừa hưởng được âm điệu của nhạc tuồng Bắc, của nhạc Cung
đình thính phòng Huế và của nhạc lễ Nam Bộ.
- Ban nhạc thường dùng năm nhạc cụ, được gọi là ban ngũ tuyệt gồm đàn tranh,
đàn tỳ bà, đàn kìm, đàn cò, và đàn tam. Phụ họa thêm là tiếng sáo thường là sáo

bảy lỗ.
- Về trang phục, những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là bạn bè, chòm
xóm với nhau nên thường chỉ mặc các loại thường phục khi tham gia trình diễn.
Khi nào diễn ở đình, miếu hoặc trên sân khấu họ mới mặc các trang phục biểu
diễn.
- Đối với hình thức âm nhạc, vai trò của các ca sĩ và nhạc sĩ đều bình đẳng. Ca
trù hát và người ca (bài hát truyền thống từ miền Bắc và miền Trung) là phụ nữ,
trong khi đờn ca tài tử bao gồm các ca sĩ nam nữ và họ có vai trò bình đẳng.

17


- Loại hình âm nhạc không chỉ ở các lễ hội và các bên mà còn trong thời gian
sau thu hoạch. Ngoài ra, nó có thể được chơi trong bóng mát của cây, con
thuyền hoặc trong đêm trăng sáng...
- Điểm độc đáo của cách hòa đờn trong ca tài tử là áp dụng nguyên tắc học chân
phương, đờn hoa lá ngang qua lăng kính của dịch học, phù hợp với quy luật biến
dịch trong vũ trụ.
2.3.4. Thực trạng hiện nay
- Sang thập kỷ 10 của thế kỷ XX, nhạc tài tử rẽ nhánh thành một dòng nhạc mới
với dấu mốc ban đầu là hình thức ca ra bộ và sau đó là cải lương. Đến nay, Nghệ
thuật Đờn ca tài tử đã lan tỏa ra nhiều tỉnh, thành trong cả nước.
- Vào tháng 8 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Âm nhạc Việt Nam và 21 tỉnh, thành phố khu
vực Nam và Trung bộ tiến hành công tác kiểm kê lập hồ sơ “Đờn ca tài tử Nam
bộ, Việt Nam” trình UNESCO trong tháng 3 năm 2011 để xem xét công nhận là
di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
- Qua kiểm kê, 21 tỉnh, thành phố hiện có 2.258 Câu lạc bộ với 13.800 người
tham gia sinh hoạt Đờn ca tài tử, người trẻ nhất 6 tuổi, già nhất 99 tuổi. Ở Thành
phố Hồ Chí Minh có 97 câu lạc bộ Đờn ca tài tử với tổng số thành viên là 1.133

người, chiếm tỷ lệ cao nhất là độ tuổi từ 36-50 tuổi. Cuộc kiểm kê cũng thu thập
được nhiều tư liệu, hiện vật, nhạc cụ về đờn ca tài tử qua các thời kỳ.
- Các tỉnh, thành đã tổ chức nhiều sinh hoạt hoạt động giới thiệu Nghệ thuật
Đờn ca tài tử trong cộng đồng; Viện Âm nhạc và Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ
chức hội thảo cấp quốc gia, quốc tế để lấy ý kiến của nghệ nhân, nhà nghiên cứu
nhằm đưa ra giải pháp bảo tồn, phát huy nghệ thuật đờn ca tài tử trong thời gian
tới.
=> Trải qua nhiều biến chuyển, đến nay đờn ca tài tử vẫn giữ được phần nào bản
sắc dân tộc, không bị bên ngoài tác động làm mất đi cái hay của nó. hàng năm
vẫn tổ chức một vài Festival Đờn ca tài tử thu hút đông đảo lượng người xem và
thưởng thức giá trị văn hóa dân gian.
18


2.4.

HÁT TRỐNG QUÂN

2.4.1. Khái niệm
- Hát trống quân (tên chữ là “cổ quân”) là một loại hình nghệ thuật dân gian đặc
biệt, một di sản văn hóa của nhân dân vùng đồng bằng Bắc bộ ưa thích ngang
với hát chèo.
- Hát trống quân là hình thức sinh hoạt ca hát giao duyên rất phổ biến ở các tỉnh
đồng bằng và trung du của Việt Nam, từ Thanh Hóa trở ra. Nó gắn liền với địa
danh như Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thanh Hóa, Xuân Cầu, Đức Bác,
Dạ Trạch...
Ngoài hai di sản văn hóa phi vật thể là dân ca quan họ và ca trù đã được
UNESCO công nhận, Bắc Ninh còn có loại hình nghệ thuật độc đáo là hát trống
quân. Người dân nơi đây luôn tự hào vì từ xa xưa làng Bùi Xá (Thuận Thành) đã
được vinh dự lên kinh thành Thăng Long hát cho vua nghe.

2.4.2. Lịch sử - nguồn gốc
Cho đến nay vẫn phổ biến một số giả thiết về nguồn gốc của hát trống quân nói
chung.
- Thứ nhất, ục truyền, hát Trống Quân xuất hiện vào đời nhà Trần (TK XIII),
thời kháng chiến chống quân Nguyên, binh sĩ khi giải trí ngồi thành hai hàng đối
nhau, một bên là "Hát xướng", một bên là "Hát đáp", khi hát gõ vào tang trống
để làm nhịp rất rộn ràng.
- Thứ hai, hát trống quân xuất hiện vào cuối TK XVIII. Khi vua Quang Trung
tiến quân ra Bắc đánh đuổi quân Thanh, để động viên binh sĩ và tạo sự thư giãn
trong các đợt hành quân, ông đã bày trò cho binh sĩ chia thành 2 tốp, một bên cải
trang thành nữ để hát đối đáp với bên nam, kèm theo trống đánh điểm nhịp lúc
nghỉ cũng như lúc đi đường.
=> Như vậy, dù gắn với giả thiết nào, nguồn gốc của hát trống quân bao giờ
cũng liên quan mật thiết tới binh sĩ quân đội - tức gắn liền với những sự kiện
chống ngoại xâm của dân tộc. Nguồn gốc mang đậm dấu ấn lịch sử Đại Việt.
2.4.3. Đặc trưng
19


- Hát trống quân ở mỗi địa phương có chút ít khác nhau về làn điệu, cách thức,
thời điểm hát nhưng có đặc điểm chung là cách thức hát xướng giống nhau, làn
điệu gần giống nhau và sử dụng một loại trống để đánh nhịp khi hát và đoạn
"Lưu không" giữa những câu đối đáp.
- Hát Trống Quân phổ biến ở Bắc Bộ thường được tổ chức vào những tuần trăng
tháng bảy, tháng tám âm lịch, ngoài ra còn được tổ chức hát thi vào những ngày
hội. Trong những ngày mùa, những người thợ gặt ở nơi khác đến thường tổ chức
hát với trai hoặc gái trong làng hoặc giữa họ với nhau vào buổi tối, lúc nghỉ
việc. Hát trống Quân thường được tổ chức ngoài sân nhà hoặc ở bãi cỏ rộng, ở
gần đình làng, giữa một bên là nam và một bên là nữ.
- Phân loại: xem xét kỹ lưỡng về mặt chức năng xã hội, có thể chia hát trống

quân người Việt làm 2 loại.
+ Hình thức giao duyên nam nữ: là hình thức phổ biến nhất, có thể thấy ở
nhiều vùng với sự tồn tại độc lập trong các sinh hoạt cộng đồng.
+ Nghi thức trong tế lễ tín ngưỡng: đây chính là trường hợp cá biệt của
trống quân Đức Bác (Lập Thạch, Vĩnh Phúc). Trên thực tế, hình thức hát này
nằm trong một quy trình diễn xướng lớn hơn, thuộc không gian văn hóa nghệ
thuật hát xoan.
2.4.4. Quá trình tồn tại, phát triển & thực trạng hiện nay
Chặng đường phát triển của hát trống quân hết sức thăng trầm trong diễn biến
lịch sử dân tộc.
- Thời kỳ phong kiến trước năm 1945, hát trống quân được tổ chức thường
xuyên trong cộng đồng làng xã như một tập quán văn hóa quen thuộc ở nông
thôn miền Bắc.
- Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, cả nước bước vào cuộc kháng chiến
chống Thực dân Pháp rồi chống đế quốc Mỹ đầy cam go quyết liệt, diễn xướng
hát trống quân không có cơ hội phát triển.
- Trên thực tế, từ năm 1945 đến nay, hát trống quân ở Phú Thọ đã không hề
được tái hiện. Tất cả chỉ còn lại trong ký ức các cụ già cao tuổi. Vấn đề bảo tồn,
20


khôi phục hát trống quân trở nên hết sức cấp thiết trong bối cảnh xã hội hiện
nay.
- Hiện nay, nhiều bài hát trống quân được thu thập, lưu giữ từ những canh hát,
cuộc hát ở nhiều nơi rất sinh động, trào lộng mà trang nhã, thông minh, chứng tỏ
trình độ sáng tạo nghệ thuật của dân gian.
=> Còn rất nhiều vấn đề đặt ra và cần giải quyết ngay để bảo tồn giá trị văn hóa
thiêng liêng của trống quân như tiếp tục sưu tầm, nghiên cứu, tổng kiểm kê di
sản hát trống quân ở nhiều khía cạnh: hình thức thể hiện, nghệ nhân, bài bản ca
từ, trang phục, đạo cụ…; tổ chức câu lạc bộ hát trống quân ở các địa phương

dưới nhiều hình thức; khôi phục lại hát trống quân ở các xã. Đối với nghệ nhân
cần tiến hành lập hồ sơ nghệ nhân, lựa chọn để đề nghị Hội văn nghệ dân gian
Việt Nam công nhận là nghệ nhân dân gian, động viên khuyến khích họ truyền
dạy hát trống quân cổ cho thế hệ sau.
Chương 3: Định hướng thị hiếu âm nhạc dân gian Việt Nam của công
chúng ở trong giai đoạn hiện nay
-

Tạo môi trường cho âm nhạc dân tộc có điều kiện bảo tồn và phát triển
như: Công tác nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và quảng bá tác phẩm.
Tiếp tục có các cuộc điền dã ở những vùng còn lưu giữ vốn âm nhạc
dân gian để làm công tác sưu tầm, lưu giữ và nghiên cứu những chất
liệu âm nhạc đã từng có từ những nghệ nhân và trong nhân dân để bảo

-

tồn và phát triển âm nhạc dân gian các dân tộc trong khu vực.
Tổ chức giáo dục thẩm mỹ (giáo dục âm nhạc) thông qua các phương

-

tiện thông tin đại chúng, internet, website
Cần mở các cuộc hội thảo, đợt vận động sáng tác, tuyên truyền thông
qua phương tiện thông tin đại chúng, giới thiệu tác giả, tác phẩm,
gương mặt nghệ nhân, tổ chức các cuộc giao lưu, liên hoan, hội thi, hội
diễn... nhằm tìm, quảng bá âm nhạc dân tộc đến với các tầng lớp nhân

-

dân.

Có kế hoạch truyên truyền, tổ chức biểu diễn định kỳ và tăng cường
các hoạt động giao lưu tại cơ sở.
21



×