Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Trang phục của người Pu Péo Cao Nguyên Đá Đồng Văn –Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.59 KB, 15 trang )

Môn: Văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện
đại

Trang phục của người Pu Péo Cao Nguyên
Đá Đồng Văn –Hà Giang

1. Những nét khái quát về điều kiện tự nhiên và dân cư người pu péo
Đồng Văn Hà Giang
1.1 Điều kiện tự nhiên.
1.1.1. Vị trí địa lí.
Đồng Văn là huyện miền núi biên giới của tỉnh Hà Giang nằm ở điểm
cực Bắc của Tổ quốc, đây là điểm nhô ra cao nhất trên bản đồ Việt Nam.
Đồng Văn cách thành phố Hà Giang 155km, nơi đây có cột cờ Lũng Cú là
biểu trưng cho chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc. Đồng Văn là huyện nằm
trong vùng Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Van
Huyện Đồng Văn có vị trí địa lý trong tọa độ từ 23 o06’06’’ đến 23o
21’17’’ vĩ độ Bắc, 105o 07’35’’ đến 105o 24’40’’ kinh độ Đông. Phía Bắc và
Tây giáp Trung Quốc; phía Nam giáp huyện Yên Minh, phía Đông giáp
huyện Mèo Vạc. Huyện có đường biên giới quốc gia là 52,5km.
1.1.2. Khí hậu
Khí hậu ở Đồng Văn mang tính ôn đới và phân ra nhiều tiểu vùng khí
hậu khác nhau. Một năm chia ra thành 2 mùa rõ rệt, mùa mưa (từ tháng 5
đến tháng 10) và mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau), thường có
sương mù, sương muối, thời tiết khô hanh. Lượng mưa trung bình khá cao,


khoảng 1.600 - 2.000mm/năm. Ở một vài tiểu vùng nhiệt độ có lúc xuống
tới 40-50C như ở Lán Xì, Phố Bảng… thời tiết khí hậu khắc nghiệt vào mùa
đông.
1.1.3.Đất đai
Diện tích tự nhiên là 44,666ha, trong đó 11.837ha là đất sản xuất nông


nghiệp. Diện tích núi đá chiến 73,49%. Địa hình phức tạp, có nhiều núi cao,
vực sâu chia cắt. Nhiều ngọn núi cao như Lũng Táo 1.911m. Độ cao trung
bình 1.200m so với mực nước biển. Địa hình thấp dần từ Tây sang Đông.
Đồng Văn có sông Nho Quế và các dòng suối nhỏ ở Lũng Táo, Phó Bảng,
Phố Là chảy qua
1.1.4Dân số và phân bố dân cư
Theo số liệu cuộc tổng điều tra Dân số và Nhà ở toàn Quốc ngày
1/4/1999 ,dân tộc Pu Péo chỉ có 705 nhân khẩu( nam 346, nữ 359) là một
trong những người có số dân thấp nhất ơ nước ta hiên nay .Tại Ha Giang Pu
péo có 487 nhân khẩu (nhâ khẩu nam 236,nữ 251 ) phân bố chủ yếu ở các xã
Phố Là ( huyện Đồng Văn ) Sung Tráng và Phố Lung (huyện Yên
Minh).ngoài ra còn một số gia đình sinh sống rải rác trong hai huyện trên và
huyện Mèo Vạc
2.Đặc điểm về văn hoá mưu sinh
Người Pu Péo lấy nông nghiệp trồng trọt,có sự hỗ trợ của chăn nuôi
thủ công nghiệp gia đình và hái lượm, ngoài ra người Pu Peo biết buôn bán
vùng biên giơi hai Quốc Gia Việt – Trung..
2.1Đăc điểm về văn hóa vật chất
I .Tập quán cư trú và nhà ở
Do rừng bị tàn phá nhiều việc tìm kiếm nguyên liệu làm nhà rất khó khăn, vì
vậy họ đã chuyển sang ở nhà đất ,việc xây dựng nhà đất băt đầu từ hai dòng
họ Củng và họ Tráng.
Hiện nay người Pu Péo sinh sống trong những ngôi nhà có nhiều dạng
thức khác nhau tùy thuộc vào vị thế đất đai của ngôi nhà cũng như khả năng
kinh tế của từng hộ Gia đình.


Tại xã Phố Là và xã Phố Lúng ,cấu trúc vật chất ngôi nhà của người pu Péo
hiện nay có hai dạng, một dạng có nhiêu nét tương đồng với người hoa , một
dạng tương tự như nhà của người việt dạng nhà thứ nhất phổ biến từ những

gia đình làm từ trước năm 1990 ,còn dạng thứ hai chỉ xuất hiện sau nay. Dó
là kết quả của xu thế tiếp biến văn hóa trong những thời gian khác nhau.
Dạng nhà theo kiểu người hoa là nhà trình tường hai mái không có trái
và số gian khong cố định ,phổ biến hơn là nhà ba gian.các ngôi nhà đều
được xây to, bề thế nhưng chỉ được bố chí một cửa ra vào,rất ít cửa sổ ,kết
cấu khung cửa dựa trân các vì kèo gỗ ba cột và những biến thể trực tiếp như
dạng ba cột trôn cột giữa; năm cột; trốn cột giữa :năm cột; trốn cột giữa và
cột hiên phần tường giầy 40 cm dến 50 cm, bao giờ cũng được trình bằng
đất cứng, có pha lẫn sỏi cuội hoặc các dăm đá nên có sức chịu lực lớn và độ
bền cao. Xưa kia mái nhà chủ yếu dược lập bằng cỏ ranh, ngày nay được lập
bằng ngối máng (ngói âm dương) hoặc ngói tây.
Không gian sinh hoạt của người Pu Péo tương đối đa dạng.Muỗi gia
đình thường cố một khuôn viên trong đó có các kiến trúc như nhà ở ,truồng
gia xúc sát nhà ở và vườn nhà. Phần lớn các ngôi nhà đều nhà nhà khép kín
có hai tầng tầng dưới là nhà ở của gia đình, bếp nấu ăn chỗ tiếp khách, tầng
trên là kho chữa lương thực dự trữ, để các loại công cụ sản xuất nhỏ, đôi khi
còn dành một chỗ cho khách nghỉ lại qua đêm mặt bằng sinh hoạt của ngôi
nhà thường được bố cục theo chiều ngang phụ thuộc theo số gian,cấu trúc
ngôi nhà ba gian là loại nhà phổ biến hơn cả, người Pu Péo lai khong coi
gian giữa là quan trọng nhất như nhiêu dân tộc khác .Đây là nơi đồng bào ăn
cm hàng ngay, dể cối xay ngô và các loai đò đạc. Chỉ nhưng gia đình làm
nghề mộc,rèn ,ngói ,mới thờ bàn thờ tổ nghề ở đây. Phía sâu của gian bên
trái là chỗ ngủ của chủ nhà, phía trên giường là bàn thờ tổ tiên,được làm
theo kiêu giá treo băng một tấm gỗ nhỏ giữa nhà là một bếp lửa ,đây là nơi


tiếp khách cũng là nơi sinh hoạt thường xuyên của gia đình.Đối diện với
giường của chủ nhà ,qua bếp là giường của các con trai lớn chưa xây đựng
gia đình. Khi nhà có khách nam có thể bố trí cho khách ở chiếc giường
này .Đây chính là không gian được côi là quan trọng nhất của muoix gia

đình .thông thường nhà của nguồi Pu Péo thường qupay vè hướng nạm và
gian này bao già cũn nằm ở hướng đông, hướng mặt trời mọc . Gian bên trái
dành cho phụ nữ, bếp lò nấu ăn hàng ngày .Phía sau cua gian nhà nay
thường được ngăn cach bởi một gian buồng buồng nhỏ gianh cho các cô gái
lớn chưa chồng,còn phía trước là bếp lò. Một điều dặc biệt mặc dù bếp lò là
nơi nấu ăn hàng ngày,nhưng người Pu Péo cung coi là bếp phụ còn bếp
kiềng mới là bếp chính . người ta quan niệm rằng, đó là nơi ngụ chú của các
thổ thần và cất giữ hồn của chủ nhà.
Tầng hai của ngôi nhà dạng này được coi là không gian phụ và chỉ
được lát ván một phần. Ở nửa phía phía bếp người ta cất giữ lương thực và
các loại nôn cụ sản xuât như khun dệt, dao phát, liềm hái, thùng đập lúa,
phần xàn phía trươc thường sáng sủa hơn, có thể coi là một dạng không gian
dự phòng . Với nhưng gia đình đông con các con của họ có thể ngủ ở đây.
Khi nhà đông khách,cũng có thể bố trí làm nơi ngủ cho khách qua đêm.
Các ngôi nhà làm theo kiểu người việt gần đây thường chỉ có một tầng
nhưng các kiến trúc đã tương đối chuyên biệt. Ngôi nhà chính chỉ để ngủ
nghỉ và thờ tự, bếp nấu được tach riêng thành mọt kiến trúc khác. Trên nhà
chính cách bố cục chung không khác nhiều so với kiểu nhà người Hoa. Chỉ
có bếp lò lương thực dự trữ được chuyển xuống nhà phụ.
Trước kia nhà của người Pu Péo là những kiến trúc đơn lập, ngoài nhà
ở và truồng gia súc, không thấy có vườn tược. đó cũng là tình trạng chung
của hiều dân tộc, đang sinh sống trên vùng đất cực bắc của Tổ Quốc. Hiện
nay quan niêm về chỗ ở của họ đã có những thay đổi đáng kể. trông cả hai


dạng nhà ở của người Pu Péo mà chúng tôi đề cập tới ở trên, đều có những
bóng dáng của những khuôn viên, dù mới chỉ ở dạng tiền khởi. Nhiều gia
đình đã có những mảnh vườn dung để trồng rau xanh, hay một số cây ăn quả
lưu niên như Đào hoặc Lê.
Làm nhà là một trong những công việc lớn của đời người, người ta

quan niệm rằng sự thành bại của mỗi gia đình, phụ thuộc rất nhiều vào việc
điền trạch, chính vì thế có rất nhiều tín ngưỡng xung quanh ngôi nhà của
người Pu Péo, từ việc chọn đất tới qua trình xây cất và nghi thức về nhà mới.
Nhà của người Pu Péo thường được dựng ở sườn đồi tựa lưng vào đồi
và nhìn ra ruộng. Khi chọn chỗ đất làm nhà muốn biết chỗ đất có ở được
hay không, chỗ đất tốt hay xấu. Người Pu Péo thường bói bằng ngũ cốc ,
bằng cách đào một hỗ ở miếng đất dự kiến cho chỗ làm nhà. Người ta bỏ
xuống mấy hạt ngô, gạo và mạch ba góc rồi úp một chiếc bát lên trên sau ba
ngày mới mở bát ra nếu hạt ngũ cốc nguyên vị là đất tốt, nếu hạt ngũ côc bị
chuyển vị hoặc bị sâu ăn là đất xấu phải tìm chỗ khác làm nhà.
Vào nhà mới là lễ thức quan trọng nhất trong hệ thống tín ngưỡng liên
quan tới ngôi nhà của người Pu Péo. Thời gian vào nhà mới thường được tổ
chức luc sang đêm , từ khi gà mới gáy lần thứ nhất. Trước khi chuyển sang
nhà mới, thầy cũng phải thắp hương cũng tổ tiên ở nhà cũ để xin về nhà mới.
Sau đó cúng các vị thần linh xung quanh nhà rồi thắp hương bếp sưởi, bếp lò
và của ra vào. Sau đó thầy cúng và chủ nhà muỗi người đốt một bố đuốc ở
bếp sưởi nhà cũ rồi cả nhà dẫn nhau tới nhà mới, mang theo một nia gạo,một
nia mèn mén, một gánh nước, một chiếc nồi, một con gà trống. Khi đến nhà
mới, thầy cúng vào trước, vung đuốc khắp nhà để đuổi tà ma rồi đem bó
đuốc ra ngoài cửa, tiếp đến chủ nhà dùng bó đuốc của mình, nhóm một đống
lủa ở gian “thoang phi” cạnh nơi đặt bếp sưởi và đào một hố bếp vuông sâu
20cm đến 25cm muỗi chiều rộng 50cm ở giữa nhà, chiếu thẳng với bàn thờ


tổ tiên cắm ba nén nhang vào đó. Tiếp theo là nghi thức giết nhà cúng
bếp.Tiếp theo là giết gà cũng bếp, sau khi cắt tiết vặt lông và mổ gà, người ta
đổ bát tiết cũng như lông gà,và nước làm thịt vào hố bếp lấy ba hòn đá kê
làm ba ông đầu rau và châm lửa nhóm bếp vì vậy ngườ Pu Péo gọi ông đầu
rau nhà mình là hòn đá của ông cậu. Sau đó ông cậu dùng một mêngs vải đỏ
để xua đuổi tà ma, vừa làm ông vừa nói to những lời chúc gia chủ ,chỉ sau

khi thực hiện song những nghi thức của bếp thiêng và cửa ra vào vào mới
được nhóm bếp lò để nấu nướng lễ vật cũng ở bàn thờ tổ tiên. Mọi nghi thức
vào nhà mới phải được hoàn tất trước khi trời sáng, đến khi trời sáng anh em
họ hàng, hàng sóm sẽ sang mừng nhà mới. người Pu Péo thường mang lễ
vật là một con gà, một ít gạo một ít tiền mừng cho chủ nhà.
2.1.1. Ăn, uống, hút.
-Cũng như bao dân tộc khác chế đọ ăn uống của người Pu péo, phản
ánh rõ tập quán sản xuất cũng như,diện mạo kinh tế của họ, thường phụ
thuộc vào lịch mùa vụ và sản phẩm có được từ sản suất kinh tế, săn bát hái
lượm. Chế độ ăn uống trong mùa vụ :
Bứa sáng : từ 5h-6h.
Bứa chưa: 11h-12h
Bứa tối :

18h-19h.

Vào vụ nông nhàn thì họ chỉ ăn hai bứa:
Bứa sáng : 10h-11h
Bứa tối :

18h-19h.

- Nguồn lương thực chính được người Pu Péo sử dụng trong bứa ăn
hàng ngày là gạo tẻ và ngô. Gạo xưa kia bao giờ cũng được luộc qua một lần
rồi mới đồ lên, nhưng ngày nay họ nấu cơm như cách làm của người việt.
Riêng với ngô người Pu Péo cũng say thành bột rồi hông bằng chõ. Món này


phổ biến với nhiều dân tộc thiểu số phân bố ở biên giới Việt –Trung..như
Hmông, Lô Lô, Phù Lá, thường biết đến tên gọi chung là “mèn mén”. Thức

ăn chủ yếu là rau, rau xào với canh. Thịt cá hoặc thịt chất tươi chỉ xuất hiện
mâm cơm khi nhà có khách, hay sau những buổi chợ phiên vùng cao thường
được họp một tuần một lần. Trong dịp tết lễ các gia đình Pu Péo thường mổ
lợn, một phần để ăn tươi phần khác cất trữ ăn dần.
2.2.Đặc điểm về văn hóa tinh thần
Người Pu Péo đã định cư tại khu vực đồng văn từ rất lâu, đây có thể
coi là lớp cư dân bản địa .
2.2.1 Làng bản.
Người Pu Péo thường gọi “làng bản” bằng tiếng Pu Péo là “gựa” .
Người Pu Péo quan niệm có thần tạo lập sóm làng (sau đền, sau gựa) bảo họ
cho cả bản luôn được thịnh vượng, phù hộ cho con cháu trong bản đông,
không bị bệnh tật ốm đau, gia súc phát triển, vì thế trong những mâm cũng
tổ tiên,cũng cơm mới, tết lễ suống đồng người ta đều phải cũng vị thần này.
Bản của người Pu Péo theo thế dựa lưng vào các sườn núi thấp, mặt
hướng ra không gian thoáng ( thường là nhưng khoanh nương hoặc ruộng )
là những noi rộng rãi gần nguồn nước thuận tiên cho việc công tác, người Pu
Péo quan niệm. “Nơi dựng bản phải dựng theo dạng rừng núi rừng núi chảy
đến nơi mình định làm nhà . Mốc danh giới gữa các làng bản được phân
định theo các đỉnh ngọn núi, theo một cây lâu năm, hòn đá eo núi,các lối
mòn thửa ruộng. Mốc ranh giới này cố định mang tính quy ước, song tương
đối rõ ràng và không thay đổi ngay cả khi một số hộ của bản phát triển thì
hướng phát triển ít không chồng lên ranh giới dã phân định của bản kia. Bản
Củng Chá và bản Trống Chải nằm ở hai bên triền một con núi thì đường
ranh giới giữa hai bản được ngầm hiểu là đỉnh của ngọn núi phân thẳng ra


hai bên, các thành viên của hai bản có thể đi lại qua ranh giới này thông qua
các đường dân sinh.
Ngoài khu đất cư trú, muỗi một bản người Pu péo còn có một khu
canh tác riêng của bản. Khu rừng gia sau bản của người Pu Péo được coi là

rừng thiêng cấm các thành viên trong ngoài chặt phá. Đây là nơi thờ thần
rừng của cả bản.
Bản của người Pu Péo được hình thành chủ yếu theo ba cách:
Quan hệ huyết thống dòng họ, quan hệ hôn nhân và quan hệ làng xóm láng
giêng.
Ở người Pu Péo, việc cư trú theo huyết thống gia đình vấn còn rõ rệt,
trước năm 1969 vấn còn một Gia Đình chung sống quần thể theo kiểu người
Hoa, sau do sung đột biên giới và dân số phát triển nên các gia đình đã tách
ra song vẫn còn chung phạm vi một bản...
2.2.2. Dòng họ, gia đình
Người Pu Péo bao gồm 16 họ, muỗi họ thường hình thành từ hai họ
gốc theo cặp đôi. Theo lời của các cụ già thì họ Củng, họ Chúng, họ Lùng là
ba anh trước họ Củng sau loan lạc thì chia ba ngả đi khắp nơi. Người em thứ
đổi thành họ Lùng, người em út đổi thành họ Chúng, ngày nay người Pu Péo
vẫn cấm hôn giưa ba họ này. Các gia đình trong một dòng họ thường sống
tập chung trong một khu vực như họ Củng ở bản Củng Chá. Người Pu Péo
không có trưởng họ, mà người uy tín nhất, nhiều tuổi nhất sẽ đại diện cho họ
của mình làm công việc ma chay,cưới xin việc lớn việc nhỏ đều tham gia ý
kiến,cách tổ chức. Việc tách nhập họ rất hiếm, các đồng họ người Pu Péo
không có nơi thờ tự chung của cả họ không có đất đai riêng và vai trò kinh tế
dòng họ. Dòng họ của người Pu Peo có ý nghĩa rất quan trọng trong thể chế
hôn nhân. Tập quán quy định những thành viễn trong dòng họ không được
phép kết hôn với nhau.


Gia đình người Pu Péo có kết cấu thuộc loại gia đình nhỏ một vợ, một
chồng, phổ biến dạng hai thế hệ gồm bố mẹ và các con, kết cấu gia đình ba
thế hệ cũng chiếm một tỉ lệ đáng kể, kết cấu gia đình 4 thế hệ và độc thân có
nhưng rât ít.
Hình thái gia đình của người Pu Péo mang tính phụ hệ rõ nét người

chủ “ qua nhình” thường là ông hoặc bố điều khiển mọi việc trong gia đình
từ sản xuất cưới xin, giao tiếp làng xóm cả chi tiêu trong gia đình. Người
phụ nữ Pu péo it quền lợi và không được đối sử công bằng như nam giới.
Tính phụ quền thể hiện trong lời cúng người Pu Péo trong mâm cúng đật vị
trí cúng tổ tiên là nam giới trước cũng như trong lới cũng bao giờ cúng ma tổ
tiên là nam giới trước rồi mơi tới ma tiên là nữ giới. Trong việc phân chia
tài sản chỉ khi chia tài sản cho các con trai,con gái đi lấy chồng thì được coi
là người của nhà chồng, không có quền đòi hỏi quền lợi đối với bố mẹ, hay
các anh em.
2.2.3Về tín ngưỡng phong tuc tập quán.
Người Pu Péo tin rằng có sự tồn tại của ba thế giới. Ngoài thế giới
thực còn có sự tồn tại của các thế giới khác ở trên trời mà co người không
thể kiểm soát được, thế giới của các thần linh. Trong thế giới đó ngoài các vị
thần còn có những người trời có đặc điểm là mắt đỏ đeo dao gỗ ở cổ. Thế
giới thứ ba ở dưới mặt đất với những con người bé bằng ngón tay và thường
đeo dao ở kheo chân . thời gian ở thế giới của thế giới thực và hai thế giới
kia luôn ngược nhau, trước kia ba thé giới thông vói nhau bởi một chiếc
thang, người của hai thế giới kia xuống trần gian vào giữa đêm hoặc giữa
chưa, ngày 30/4 âm lịch hàng năm được coi là ngày quên là ngay châu mấn
huốc và chau mân bằng tràn đến thế giới loại người, trong ngày này mọi
người phải buộc cỏ ranh lên đầu để phân biệt là người của thế giới ta với
người của thế giơi khác. Đến ngày 5 tháng 5 hai giống người trên trở lại


trần gian, vì thế các gia đình phải cũng ho chúng ăn để chùng trở về với thế
giới của mình.
Theo quan niệm của người Pu Péo, mọi sự sinh tử của con người trần
gian đều do các vị thần trên trời quyết định. Vi như;( Pe pớt, Mè cháo,)
quyết định về sự sinh đẻ hoặc( nhện vàng) quyết định sự tái sinh.
Ngoài các vị thần, linh hồn tổ tiên cũng có tác động nhất định đến

cuộc sống của muỗi gia đình. Vì thế người Pu Péo nhất định phải thờ cũng tổ
tiên. Đối tượng thờ cũng trong phạm vi ba đời bố mẹ, ông bà, cụ ông, cụ bà.
Bàn thờ ngừơi ta không đặt bài vị, họ chỉ đặt các hú nhỏ, muỗi hú tượng
chưng cho một đời,từ đời thứ năm trở đi có hú thờ riêng, nhưng khi cũng
phải khấn đến.
2.3 Quan niệm về trang phục.
Người pu péo coi y phục là những vật dụng không chỉ để che thân mà
còn là thước đo phẩm giá, tài năng của người phụ nữ, những chủ nhân đã tạo
ra bộ trang phục .Y phục còn gắn liền với những quan niệm về tín ngưỡng
của người Pu Péo thể hiện rõ tâm lý thị hiếu của từng giới, của từng lứa
tuổi,vì đồng bào trang sức là những đồ vật không chỉ dùng trang điểm cho
con người trong các dịp lễ quan trọng như cưới xin, lễ hội mà còn có ý nghĩa
giúp con người tránh được sự quấy nhiễu làm hại của tà ma, quái (nhất là đối
với trẻ em người già yếu ) là thước đo điều kiện khả năng kinh tế của từng
cá nhân, từng gia đình trong xã hội .
2.4Quá trình tạo nên trang phục
Người Pu Péo cư trú khá tập chung ở vùng ở vùng sâu vùng xa, điều
kiên giao lưu kinh tế có hạn chế, đời sống của đồng bào còn mang tính tự
cung tự cấp tự túc.
Xuất phát từ nền kinh tế tự cấp tự túc gắn với nương rẫy ruộng bậc
thang việc tạo ra trang phục của người Pu Péo hoàn toan mang tính chất thủ


công, để xác định số đo của trang phục cắt khâu, người phụ nữ chủ yếu căn
cứ vào xải tay, vao g
găng tay, những đoạn gỗ, đoạn tre, nữa thẳng hoặc những mảnh tre, trúc đã
được vót nhẵn, nhưng sợi dây hừng có độ dài mềm và dẻo, những dụng cụ
này có thể được giữ gìn để đo vẽ trang phục qua nhiều năm, cũng có thể cắt
khâu song một bộ trang phục người ta lại bỏ đi, khi nào cần lại làm cái mới.
Kéo cắt vải kim khâu dao nhíp phục vụ việc cắt khâu trang phục là

những vật dụng không phải dân tộc nào cũng làm ra được, trước đây họ
thường mua kéo cắt vải của người “Hmong” của người nùng người kinh,
người Pu Péo dùng những hòn đá non, than củi ,nhựa cây, để vẽ kích thước
trên vải khi cắt trang phụ, gần đây đã chuyển sang dùng phấn mầu công
nghiệp để vẽ. Hiên nay các phụ nữ người Pu Péo dều dùng dụng cụ cắt may
khâu vã như thước, kéo, kim, chỉ khâu,chỉ thêu của trung quốc được giao
lưu buôn bán qua biên giới..
Kỹ thuật tạo tạo trang phục của người Pu péo không chỉ dừng lại ở
việc tạo giáng, tạo hình trang phục mà con người biểu hiện ở việc cắt khâu,
thêu thùa trang trí trên trang phục. Cũng cần nói thêm rằng việc cắt khâu
trang phục của họ chủ yếu là lao động thủ công . Công việc nay không chỉ
thể hiện ở sự tỉ mỉ, công phu mà thể hiện tính sáng tạo, khéo léo của người
phụ nữ khi khâu trang phục họ chủ yếu dùng kiểu khâu vắt viền mép để nên
những đường nổi vải nhỏ, mêm mại Chính kỹ thuật khâu vắt này tạo cho
trang phục khi mặc luôn mềm mại....
2.5.Nguồn nguyên liệu
Người Pu Péo sử dụng những nguồn nguyên liệu tao nên trang phục
như: bông , tràm.
3. Kĩ thuật cắt may


-Nhìn vào bộ trang phục phụ nữ Pu Péo đặc biệt là kĩ thuật ghép vải
tinh sảo, công phu trên áo, khăn vuông yếm váy thắt lưng, chúng ta thấy rõ
sự tinh tế kheo léo của người phụ nữ, chủ nhân sáng tạo ra trang phục đông
thời cũng cảm nhân sắc thái hoa văn truyền thống độc đáo dặc sắc của tộc
người này .
Khi sử dụng vải đẻ trang trí trang phục người Pu Péo chủ yếu sử dụng
vải mầu đỏ (nung) trắng (lin), xanh (phao),vàng ( nhinh) để cất hình ghép
hoa văn trang trí trên nền áo,yếm, khăn, thắt lưng..Hoa vắn chủ đạo của
người Pu Péo là hình tam giác ( bet.) Theo quan niệm của họ thì hình tam

giác còn tượng trưng cho ngọn lửa cháy. Tam giác ghép theo lỗi âm dương
thành hình vuông gọi là(tô cẩu), hình quả trám(lổm), hình răng cưa
(mưởn),hình vuông to trên có ghép bốn hinh tố cẩu ,hay hình chữ nhật trên
có ghép hai hình tố cẩu gọi là tô pảng. Ngoài ra trên hoa văn ghép vải còn
đính điểm xuyết một số bông hoa nhỏ làm bằng sợi bông mầu đỏ gọi là ka
tủng. Bên cạnh hoa văn ghép vải, người Pu Péo còn dùng những hạt
nhộm(chuổn) hạt cườm (khén) để trang trí cho bộ trang phục nữ thêm rực rỡ
sang trọng .
Việc ghếp vải tạo hoa văn trang trí trên trang phục nữ người Pu Péo
hoàn toàn làm bằng tay, không theo một đồ án hoa văn bắt buộc, tùy theo sở
thích, óc thẩm mỹ sự sáng tạo và bàn tay khéo léo của từng người.
hai tộc người này....
3.1Những biến đổi trong trang phuc truyền thống hiện nay.
Do nền kinh tế kinh tế thị trường ngày càng phát triển đã ảnh hưởng
đến đời sống xã hội của các dân tộc miền núi. Việc giao lưu buôn bán giữa
các tộc người , giữa các vùng và các quốc gia trong các khu vức ngày càng
sôi động .


Một số nghành nghề thủ công trong đó có nghành dệt vải mai một dần
do sản phẩm làm ra mất quá nhều thời gian, gia thành cao mẫu không đáp
ứng thị hiếu ngày càng cao của các tầng lớp trong xã hội.
Trong khi đó vải công nghiệp giá thành giẻ, mấu mã đa rạng phù hợp
vơi nhu cầu sử dụng của các lứa tuổi của các tộc người . Chính vì vạy sự
thay đổi của các trang phục các dân tộc thiểu số ở nước ta nói chung và
người Pu Péo nói riêng là điều không thể tránh khỏi.
Sự thay đổi của trang phục người Pu Péo theo xu hướng xích lại gần
nhau, hoà nhập vào nhau của nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống dọc
biên giới phía bắc nước ta, sự biến đỏi trang phục còn theo hướng đơn giản
hoá trong kiểu cắt may, trong cách thức trang trí hoa văn từ lao động thủ

công bằng tay chuyển sang sản xuất hàng loạt bằng máy móc công nghiệp.
Sự thay đổi này ngày càng đáp ứng yêu cầu tiện lợi hơn trong sinh
hoạt, phù hợp với nhịp sống mới hiện đai mang tính năng động cao.
Hiện nay trang phục đồng bào có sự thay đổi đáng kể . Chiếc khăn
thêu ghép hoa văn rực rỡ được thay thế bằng khăn vải đen, khăn sợi hoặc
khăn len, của Trung Quốc chiếc áo ngắn sẻ ngực cùng chiếc yếm đeo ngực
và đeo yếm sau lưng được thay thế bằng chiếc áo năm thân cài khuy nách,
bằng đôi yếm che váy (tạp dề) trước và sau …
Sự biến đổi trong trang phục của ngời Pu Péo theo hướng tiếp thu có
chọn lọc vân giữ được nét đắc trưng, cũng như bản sắc van hoá của dân tộc
mình, trong kiểu dáng trang phục ,trong hoạ tiết hoa văn. Tạo nên nét đẹp
trông trang phuc dân tộc Pu Péo.


Kết luận.
Muỗi dân tộc đều thể hiện những sắc thái văn hoá độc đáo của mình
thông qua trang phục. Trang phục được xếp vào loại hình văn hoá vật thể
nhưng lại có quan hệ mật thiết với loại hình văn hoá phi vật thể. Trang phục
không chỉ phản ánh những đặc điểm về tộc người như kinh tế, tôn giáo tín
ngưỡng, phong tục tập quán thị hiếu thẩm mĩ mà còn phản ánh cả yếu tố tự
nhiên lịch sử đẳng cấp địa vị xã hội của muỗi tộc người, muỗi nhóm địa
phương.
Trang phục của người Pu Péo cao nguyên Đá Đồng Văn Hà Giang là
một thành tố quan trọng trong đời sống văn hoá của đồng bào, thể hiên
không chỉ trong đời sống hàng ngày mà con trong những dịp lễ tết, lễ hội
của cộng đồng, đại sự của gia đình cá nhân.
Trải qua biết bao thăng chầm của lịch sử, nhiều yếu tố trên trang phục
người Pu Péo Đồng Văn Hà Giang đã có những biến đổi nhất định, cho phù
hợp với điều kiện sống, nhưng nhìn chung vấn giữ được cái bản sắc của
chính dân tộc, đặc biệt là kĩ thuật nhộm dệt vải, chế tác đồ trang sức, hoạ tiết

hoa văn…




×