Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Tìm hiểu giá trị truyện kim đồng của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.35 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
----------------------------

NGUYỄN THÙY DƯƠNG

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ TRUYỆN
KIM ĐỒNG CỦA TÔ HOÀI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong qua trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài, được sự giúp đỡ tận tình
của cô giáo – Tiến sĩ Nguyễn Thị Nhàn, tác giả khóa luận xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc tới cô!
Tác giả khóa luận cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong
khoa giáo dục mầm non – Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện tốt
nhất cho tác giả hoàn thành khóa luận này.

Hà Nội, ngày …tháng …năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thùy Dương


LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành khóa luận này , ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo – Tiến sĩ Nguyễn Thị
Nhàn.


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả
nghiên cứu này không trùng với kết quả của tác giả nào khác.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày …tháng …năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thùy Dương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 3
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4
7. Cấu trúc khóa luận...................................................................................... 4
NỘI DUNG .................................................................................................... 5
CHƯƠNG I .................................................................................................... 5
HIỆN THỰC CUỘC SỐNG NGƯỜI DÂN VÙNG NÚI CAO BẰNG QUA
TÁC PHẨM KIM ĐỒNG .............................................................................. 5
1.1. Cuộc sống của người dân nô lệ ................................................................ 5
1.1.1. Cuộc sống bị áp bức, bóc lột, lao dich, phu phen .................................. 6
1.1.2. Con người bị hành hạ, đánh đập và bị giết hại ...................................... 8
1.2. Cuộc đời của những con người nghèo khổ ............................................. 10
1.2.1. Cuộc sống nghèo khổ do mất mùa, thiên tai ....................................... 11
1.2.2. Cuộc sống của người dân nghèo khổ vì bị áp bức, bóc lột .................. 13
CHƯƠNG II................................................................................................. 16
CON NGƯỜI VÙNG NÚI CAO BẰNG QUA TÁC PHẨM KIM ĐỒNG... 16
2.1. Những con người cần cù lao động ......................................................... 16

2.2. Những con người giàu lòng yêu nước đi theo cách mạng ...................... 19
2.3. Những thiếu niên giác ngộ cách mạng theo kháng chiến ....................... 23
CHƯƠNG III ............................................................................................... 30
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN KIM ĐỒNG............................ 30
3.1. Nghệ thuật kể truyện tạo tình huống ...................................................... 30


3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................... 35
3.2.1. Nghệ thuật khắc họa nhân vật qua ngoại hình ..................................... 35
3.2.2. Nghệ thuật khắc họa nhân vật qua hành động ..................................... 41
3.2.3. Nghệ thuật khắc họa nhân vật qua nội tâm.......................................... 44
3.2.3.1. Ngôn ngữ độc thoại ......................................................................... 44
3.2.3.2. Ngôn ngữ đối thoại .......................................................................... 46
KẾT LUẬN.................................................................................................. 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 53


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học thiếu nhi từ lâu đã trở thành bộ phận quan trọng trong nền

văn học nước nhà. Nó được xem là bộ phận không thể thiếu của trẻ em trên
suốt đường đời. Thực tế thừa nhận vai trò của của văn học thiếu nhi đối với
việc bồi dưỡng tâm hồn, xây dựng nhân cách cho các thế hệ trẻ thơ. Chính vì
thế, nhiều nghệ sĩ tâm huyết đã dành cả cuộc đời sáng tác cho các em nhỏ.
Trong đó có thể kể đến một gương mặt quen thuộc mà thiếu nhi Việt Nam rất
yêu mến như Tô Hoài. Ông là cây bút viết đều, viết khỏe khiến cho tác giả
được tôn vinh là cây đại thụ của văn học thiếu nhi.
1.2. Một trong những sáng tác văn xuôi viết cho trẻ em của Tô Hoài là
truyện Kim Đồng. Cuốn sách kể về một thiếu niên dân tộc người Nùng, dũng

cảm hi sinh bảo vệ cán bộ cách mạng. Qua câu chuyện về Kim Đồng cuộc
sống và con người vùng núi Cao Bằng trong những năm kháng chiến chống
Pháp được Tô Hoài tái hiện khá rõ nét. Tác phẩm của Tô Hoài đã giúp cho trẻ
em hiểu thêm về những con người lam lũ vất vả nhưng không ngại hi sinh cho
độc lập của dân tộc. Hình ảnh của Kim Đồng và những con người vùng sơn
cước ấy góp phần làm nên bức tranh hiện thực sinh động về lịch sử dân tộc ta
những năm kháng chiến chống Pháp.
1.3. Tác phẩm Kim Đồng và những sáng tác văn học giúp cho các em học
sinh làm quen với tác phẩm văn học. Tấm gương cậu thiếu niên Kim Đồng
dũng cảm đáng để bao lớp thiếu niên nhi đồng noi theo. Là người giáo viên
tương lai thực hiện đề tài giúp bản thân tôi nâng cao năng lực văn chương.
Điều ấy rất hữu ích cho công việc dạy học sau này. Từ những lí do trên,
chúng tôi lựa chọn đề tài khóa luận Tìm hiểu giá trị truyện Kim Đồng làm đề
tài của khóa luận.
.

1


2. Lịch sử vấn đề
Trong phần lịch sử vấn đề chúng tôi xin điểm lược một số ý kiến liên
quan tới tác phẩm Kim Đồng:
Nhà nghiên cứu Lã Thị Bắc Lý trong Giáo trình Văn học trẻ em (2006),
trong chương viết về tác giả Tô Hoài, khi nhận xét về sáng tác của nhà văn
“viết về các anh hùng tuổi thơ” đã đánh giá cao một số tác phẩm cụ thể. Tác
giả viết như sau: “…Một đóng góp quan trọng của Tô Hoài đối với văn học
thiếu nhi nước nhà là những tác phẩm viết về anh hùng tuổi thơ. Đó là Kim
Đồng, Vừ A Dính, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ…”
Tác giả cũng nhận xét về những nhân vật lịch sử trong tác phẩm của Tô
Hoài. Ở đó nhân vật Kim Đồng được nhà nghiên cứu nhắc tới: “Nếu như các

nhân vật trong truyện đồng thoại của Tô Hoài trước Cách mạng luôn đề cao lí
tưởng đoàn kết và ra đi phục vụ cho lí tưởng đó, thì ở đây Kim Đồng, Vừ A
Dính, Hoàng Văn Thụ là những con người cụ thể đã biết tìm cho mình một lí
tưởng sống cao đẹp nhưng cụ thể hơn: đấu tranh chống áp bức, không còn
người bóc lột người. Tô Hoài không chỉ ca ngợi trí thông minh, lòng dũng
cảm của tuổi thơ Việt Nam mà ông còn quan tâm lí giải quá trình đến với
Cách mạng của các em. [2,tr79]
Tác giả Mai Thị Nhung khi viết về Tô Hoài trong cuốn Giáo Trình Văn
Học Việt Nam Hiện Đại tập 2 ( NXB Đại Học Sư Phạm 2006). Phần đề cập
đến sáng tác cho thiếu nhi của Tô Hoài có nhận xét về những thiếu niên anh
hùng như sau: “Viết về những tấm gương yêu nước nhỏ tuổi, sáng tác của Tô
Hoài sau Cách mạng có một ý nghĩa rất quan trọng. Những tấm gương hi sinh
vì nước của Vừ A Dính, Kim Đồng mãi mãi được lưu giữ trong sử sách và trở
thành hình tượng bất tử trong nền văn học thiếu nhi nước nhà”.
Nhà nghiên cứu cũng nhấn mạnh về nhân vật Kim Đồng như sau: “ Kim
Đồng ( Kim Đồng) thiếu nhi dân tộc Tày quê ở làng Nà Mạ Cao Bằng, mười

2


ba tuổi đã hăng hái tham gia Cách mạng…Kim Đồng nghĩ rất nhanh, dũng
cảm…và cuối cùng em đã hi sinh” [3,chương 7].
Nhà nghiên cứu văn học thiếu nhi Vân Thanh đánh giá: “Có thể nói Kim
Đồng, Vừ A Dính là hình ảnh tiêu biểu cho lòng yêu nước nồng nàn của thiếu
nhi Việt Nam trong Cách mạng. Tô Hoài đã cố gắng thể hiện một số khía
cạnh trong phẩm chất anh hùng ở các em. Cái chết của hai em ở cuối mỗi
truyện cũng được Tô Hoài miêu tả với khá nhiều xúc động, không gây bi
thảm, mà trái lại còn có khả năng gợi lên trong các em lòng căm thù đối với
đế quốc, gợi cho các em suy nghĩ về trách nhiệm của mình phải làm gì để
xứng đáng với bao nhiêu hi sinh của những người đi trước" [8, tr 246]

3. Mục đích nghiên cứu
- Khóa luận tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Kim
Đồng qua đó khẳng định đây là tác phẩm thành công của Tô Hoài.
- Thông qua tác phẩm Kim Đồng giáo dục lòng yêu nước và giáo dục
nhân cách cho trẻ em.
- Giúp cho bản thân tác giả khóa luận nâng cao năng lực văn chương,
giúp ích cho việc giảng dạy văn chương cho trẻ sau này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi tư liệu.
+ Khảo sát truyện Kim Đồng ( xuất bản năm 2010, NXB Kim Đồng )
4.2. Phạm vi khoa học.
+ Tìm hiểu giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật tiêu biểu của truyện Kim
Đồng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu kiến thức lí luận có liên quan tới đề tài như: thể loại truyện,
nhân vật, các biện pháp nghệ thuật.
- Tìm hiểu giá trị nội dung nghệ thuật truyện Kim Đồng.

3


6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp loại hình ( Phân tích tác phẩm theo thể loại truyện).
- Phương pháp thi pháp học.
- Các thao tác và phương pháp khoa học khác như: miêu tả, bình
giảng,…
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần nội dung
khóa luận gồm 3 chương như sau:
Chương I. Hiện thực cuộc sống người dân vùng núi Cao Bằng qua

tác phẩm Kim Đồng
Chương II. Con người vùng núi Cao Bằng qua tác phẩm Kim Đồng
Chương III. Nghệ thuật tự sự trong truyện Kim Đồng

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
HIỆN THỰC CUỘC SỐNG NGƯỜI DÂN VÙNG NÚI CAO BẰNG
QUA TÁC PHẨM KIM ĐỒNG
1.1. Cuộc sống của người dân nô lệ
Trong các nhà văn Việt Nam hiện đại, Tô Hoài là tác giả có những thành
tựu đáng kể ở mảng đề tài miền núi. Ông đã có những năm tháng dài sống gắn
bó với đồng bào các dân tộc. Trong bài “Tôi viết truyện Tây Bắc”, Tô Hoài
tâm sự: “Năm 1952, tôi theo bộ đội vào Tây Bắc. Cái kết quả lớn nhất của
chuyến đi công tác ấy là đất nước, con người miền Tây đã để thương để nhớ
cho tôi nhiều không thể bao giờ quên. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và anh
dũng lúc nào cũng thành nét người trong tâm trí tôi. Một ám ảnh mạnh mẽ
thúc đẩy trong sáng tác – ý thức thiết tha với đề tài là một quyết định ”. Hình
ảnh con người các dân tộc vùng núi Tây Bắc đã trở thành nguồn cảm hứng
lớn cho ông sáng tác. Khi viết về mảnh đất này Tô Hoài đã cho ra đời rất
nhiều tác phẩm khác nhau như: truyện Tây Bắc, Miền Tây, Họ Giàng ở Phìn
Sa, Nhớ Mai Châu. Không chỉ thành công ở các tập truyện dài, truyện ngắn
hay các thể loại hồi kí, mà đối với các tác phẩm viết cho thiếu cũng được ông
khai thác triệt để qua cái nhìn tinh tế của mình. Chân dung các anh hùng thiếu
niên nhỏ tuổi được ông phác họa một cách sinh động qua các tác phẩm như:
Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Vừ A Dính, Kim Đồng. Trong đó, hình ảnh Kim
Đồng – người đội trưởng đầu tiên của đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh,
là tấm gương sáng về lòng dũng cảm, mưu trí đáng để cho các thế hệ trẻ noi

theo. Truyện Kim Đồng của Tô Hoài đã giúp người đọc hình dung được cuộc
sống của người dân lao động dưới ách cai trị của chế độ thực dân phong kiến.

5


1.1.1. Cuộc sống bị áp bức, bóc lột, lao dich, phu phen
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh nháo nhác của người dân làng Nà Mạ trong
chuyến bắt phu của lính và xã đoàn để đi xây lô cốt cho tránh tổng và quan
cơ: Cuộc bắt phu diễn ra từ sáng sớm tạo nên không khí náo loạn trong ngôi
làng Nà Mạ nhỏ bé chỉ có hai mươi nóc nhà dân tộc Nùng. Hình ảnh những
người đi phu đứng chen chân túi bụi, rối rít trong tiếng roi quất và hình ảnh
người làng Nà Mạ đứng tụ lại lố nhố nhưng im lặng càng làm nổi bật cái nhỏ
bé của người nông dân trong cuộc sống tối tăm ấy: “ Cuộc bắt phu từ gà gáy.
Lính cơ trên châu ập về, như cướp đến. Lính còn vây quanh làng sợ người
chốn đi. Rồi, lính ùa lên nhà với xã đoàn, kéo từng người. Người xuống thang
đành đạch như con cá giãy. Ngựa của châu đoàn ngoài đường cứ chốc chốc
lại đạp chân, rũ đuôi và chuông cổ coong coong như nhạc cúng ma. Đằng nào
cũng buồn bã thế ” [6, tr 6].
Cuộc sống của những người dân nô lệ như bố mẹ của Dền và người dân
làng bị áp bức, bóc lột đến cùng cực. Họ không được đối sử như con người bị
bắt bớ mà họ không thể kháng cự. Và rồi hình ảnh những chiếc roi quất lên
người dân phu, tiếng chửi bới của đám lính và cai cơ đã giúp người đọc phần
nào hiểu rõ hơn về cuộc sống cơ cực của người nông dân trong xã hội cũ dưới
ách cai trị của chế độ thực dân phong kiến: “Bố Dền quảy hai hòn đá ra tới
đầu ngõ. Những người trong làng phải đi phu đã đứng chen chân đấy, đương
túi bụi, rối rít trong tiếng roi quất, tiếng cai cơ quát lính xem đủ số phu chưa.
Rồi con ngựa châu đoàn nhong nhong đi trước. Đám lính chạy sau, dồn phu
quảy gánh theo, chửi om” [6, tr8]. Tô Hoài không chỉ dừng lại ở việc miêu tả
cho người đọc thấy sự khổ cực của những người dân phu, mà hơn hết ông

muốn cho mọi ngưới thấy số phận chung của con người dưới ách nô lệ. Người
đàn ông trong nhà bị bắt đi phu mọi gánh nặng trong gia đình dồn lên vai
người phụ nữ. Trong hoàn cảnh đó, suy nghĩ của những đứa trẻ cũng phải lớn

6


hơn so với lứa tuổi. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng Dền đã gánh vác nhiều việc phụ
giúp gia đình. Cậu bé gồng lên như người lớn, em phải tập làm những việc
chưa làm bao giờ như đi chăn vịt: “ Nhưng anh ra vẻ người lớn chưa bằng
Dền đâu. Kể ra, Dền không biết so sánh. Nhưng từ lúc nhận chăn vịt, Dền
thấy mình bây giờ lớn rồi, khác hẳn, khác nhất bởi Dền chưa chăn vịt bao giờ.
Chỉ mới xem người ta chăn thôi. Bây giờ Dền đi chăn vịt. Mẹ phải biết thế,
anh phải biết thế. Dền sẽ đuổi vịt khéo, không để vịt lạc suối ” [6, tr 13]. Lẽ ra
ở cái tuổi của Dền phải được vui chơi với bạn bè cùng trang lứa và chỉ làm
những công việc vừa sức, nhưng hoàn cảnh sống buộc những đứa trẻ như
Dền phải chững chạc và trưởng thành hơn để giúp anh và mẹ lo toan công
việc gia đình khi bố đi vắng.
Cuộc sống nô lệ của người dân làng Nà Mạ nói riêng và người dân vùng
núi Cao Bằng nói chung không chỉ được Tô Hoài tái hiện qua việc bị dồn ép
đi phu mà họ còn bị chèn ép ngay trong cuộc sống hàng ngày. Không chỉ
những người đi phu mới phải vác đá xây đồn mà ngay cả những người đi qua
nhà chánh tổng hay muốn mua muối cũng phải vác đá mang nộp cho lính để
xây đồn: “Người chất đống quanh nơi bán muối. Cạnh chỗ người vào đưa đá
để xây đồn, có lính đứng đếm đếm ghi ghi, chốc chốc lại hất ngọn roi lên, gạt
người chạy sang chỗ đong muối. Những người khác ồ lại. Bọn lính kéo ra
những người mà nó quát chưa nộp đá lô cốt, không được mua muối. Thế là
người xô, người níu, tiếng roi vút, người chửi người hét, rống lên, lung tung
lên.” [6, tr19]. Những cuộc lùng sục bắt phu phen đến với các dân tộc miền
núi Cao Bằng diễn ra nhiều hơn khi các làng phải làm thêm các bốt đầu làng

cho lính gác, khi quan đi tuần.Người dân không chỉ bị bắt phu một lần mà
nhiều lần như vậy, người dân làng Nà Mạ lại một lần nữa điêu đứng. Khốn
cực hơn là nạn phu dịch không loại trừ một người nào, mỗi gia đình đều phải
cử người đi phu, chúng bắt cả người già và trẻ em đi vác đá xây đồn trong

7


chuyến bắt phu ấy: “Dền ra chỗ đường cái, thấy nhiều người phải điệu đến
đấy. Có trẻ con, cũng có cả bà già như mẹ mình. Nó bắt hết cả làng đi phu
rồi” [6, tr47]. Người nô lệ không được làm chủ cuộc đời mình, không có sự
lựa chọn và bị đối sử bất công, bị đánh đập mà không có sức phản kháng. Một
đứa trẻ mới mười tuổi như Dền mà cũng bị bắt đi phu phải làm những công
việc nặng nhọc. Cuộc sống của người dân nô lệ đã đói khổ cơm không có để
ăn, áo không có để măc nhưng vẫn bị bóc lột đến cùng cực về sức lao động.
Phải gắn bó và yêu thương con người nơi đây nhiều lắm thì Tô Hoài mới
có thể diễn tả cuộc sống của người dân lao động một cách chân thực và sâu
sắc như thế. Qua những trang viết của mình tác giả cho chúng ta cảm nhận
được cuộc sống khổ cực của kiếp dân thường trong vòng nô lệ, đồng thời
cũng thể hiện niềm cảm thông sâu sắc của mình đối với con người nơi đây.
1.1.2. Con người bị hành hạ, đánh đập và bị giết hại
Khi viết về cuộc sống của người dân nô lệ dưới ách cai trị của chế độ
thực dân phong kiến, Tô Hoài muốn cho người đọc cảm nhận một cách cụ thể
nhất những cơ cực về đời sống tinh thần và thể xác mà người dân phải chịu:
“Người chạy, người vác, tiếng quát với roi lính hoa lên vun vút” [6, tr47].
Không chỉ bị áp bức, bóc lột sức lao động mà họ còn bị hành hạ, đánh đập về
thể xác: “Hai người nhổm lên, cung cúc chạy đi. Lính quất roi đuổi hụt. Và
như còn tức vì đánh hụt hai người kia, mỗi tiếng “thổi đi”, nó thụi Dền một
quả” [6, tr48]. Hình ảnh người dân phu đứng chen chân đương rối rít và túi
bụi sau tiếng roi của nhưng tên lính làm ta liên tưởng tới hình ảnh của đàn vịt

con nháo nhác trước sự xuất hiện của kẻ săn mồi: “Những người trong làng
phải đi phu đã đứng chen chân đấy, đương túi bụi, rối rít trong tiếng roi quất,
tiếng cai cơ quát lính đếm xem đủ số phu chưa” [6, tr8]. Chỉ bằng một đoạn
văn ngắn nhưng tác giả đã tái hiện lên trước mắtt người đọc về cuộc sống của

8


người dân nô lệ với những trận đòn roi dội lên cái thân hình gầy gò, hốc hác
vì đói ăn.
Cuộc đời, số phận người đi phu vất vả khổ cực, phải đi lao động vất vả
nặng nhọc nhưng không có nơi ăn chốn ở tử tế, tính mạng có thể mất bất cứ
lúc nào. Không có ai đứng ra đảm bảo hoặc chịu trách nhiệm cho tính mạng
của những người dân nô lệ trong cái xã hội vô vàn bất công ấy. Trong cuộc
sống nô lệ tăm tối ấy có biết bao con người không có cơ hội được về đoàn tụ
với gia đình trong những ngày lễ tết hoặc là mãi mãi không thể về với gia
đình. Như bố Dền bị bắt đi phu từ trước tết rằm tháng bảy. Ba mẹ con Dền
ngày nào cũng mong ngóng người chồng, người cha ấy trở về nhưng rồi qua
cái tết rằm tháng bảy cũng chưa thấy bố trở về. Dền cũng nuôi hi vọng ngày
bố trở về thấy đàn vịt mà Dền chăn con nào cũng chóng lớn, béo tốt. Dền
đương nghĩ và thấy tự hào lắm. Nhưng những hi vọng của đứa bé mười tuổi
ấy sẽ không bao giờ thành hiện thực khi gia đình Dền nghe được tin dữ: “ Bố
anh không chạy kịp, chẳng biết phải cướp hay phải lính chém, không biết thế
nào bây giờ. ” [6, tr 29].
Nói về cuộc sống của người dân miền núi, Tô Hoài không quên nhắc tới
những vất vả, khổ cực mà người phụ nữ phải chịu. Nỗi vất vả mà những
người phụ nữ thấp cổ bé họng còn tăng lên gấp nhiều lần trong xã hội chịu ba
tầng xiềng xích áp bức bóc lột của Nhật – Pháp và chế độ phong kiến. Tô
Hoài đã cho người đọc thấy được nỗi vất vả của người phụ nữ khi chồng vắng
nhà qua lăng kính của những đứa trẻ - nhân vật Thàn. Gia đình vắng bóng đàn

ông phải chụ những định kiến xã hội. Họ chịu thua thiệt đủ điều. Bé Thàn
ngậm ngùi than thở: “Ở góa khổ lắm. Người lớn vẫn kể thế. Nhà góa không
có người lớn đàn ông, không ai sợ nhà góa. Nuôi vịt không được ăn đâu. Kẻ
cướp, kẻ trộm đêm nào cũng mò. Người đi qua nhà muốn vào lấy cái gì cũng
được. Cái “dậu” để trước cửa cũng mất. Có nắm thóc đem ra cối giã thì không

9


còn hạt nào đem về. Trông thấy người đến lấy gạo cối mà không làm gì nổi.
Nhà không có người lớn ra đuổi nó mà” [6, tr30]. Rõ ràng những định kiến xã
hội là kẻ thù muôn đời của người phụ nữ. Nó biến những người cùng làng
xóm với nhau trở nên vô tình vô nghĩa: “Ngày trước bố tôi chết, mẹ tôi ở góa,
cả làng đến bắt nạt, bắt trộm hết. Mẹ tôi sợ quá phải chết nốt. Tôi biết cái sợ
ấy rồi” [6, tr 30]. Sự bó buộc của xã hội phong kiến, sự tàn ác của những thế
lực đen tối đã khiến cuộc đời người phụ nữ bị đẩy vào chông gai, sóng gió.
Vậy mà đối với người góa phụ thì sự chèn ép ấy càng tăng lên nhiều thêm, họ
bị cướp bóc một cách trắng trợn mà không được ai giúp đỡ. Chính cuộc đời
đầy chông gai, khốn khổ ấy đã dồn người phụ nữ đến bước đường cùng không
lối thoát. Họ thậm chí phải tìm tới cái chết để tự giải thoát bản thân mình.
Hình ảnh những tên lính đội nón sơn quang dầu là đại diện cho cái ác gieo rắc
những đau khổ bất công cho người phụ nữ nói riêng và người dân nói chung.
Chúng không chỉ đánh đập và hành hạ người lớn mà đối với người già, trẻ
nhỏ chúng cũng không buông tha. Những đau khổ mà người dân nô lệ vùng
núi Cao Bằng phải chịu đã được Tô Hoài phác họa một cách chân thực và
sống động qua những trang viết của mình như đưa người đọc trở về qúa khứ
để cảm nhận hết những đau thương mất mát ấy, để thế hệ trẻ hiểu hơn về
những gian khó mà cả dân tộc ta đã phải trải qua trong cuộc kháng chiến
chống thù trong giặc ngoài.
1.2. Cuộc đời của những con người nghèo khổ

Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư
tưởng và sáng tác. Tâm trạng trăn trở, phân vân định hướng không dừng lại
quá lâu ở Tô Hoài. Ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và
sáng tạo thành công nhiều tác phẩm có giá trị ở các thể loại loại khác nhau.
Bước chuyển trong sáng tác của Tô Hoài được thể hiện rõ ở cả chủ đề và đề
tài. Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản ảnh trong phạm vi của

10


một vùng dân nghèo ngoại thành Hà Nội nơi ông từng gắn bó, mà ông còn
hướng đến một không gian rộng lớn, đến với cuộc sống của nhiều lớp người,
nhiều vùng đất khác nhau, đến với những người dân tộc miền núi tỉnh Cao
Bằng. Bằng tài năng nghệ thuật và vốn sống phong phú của mình, ông đã thể
hiện được một cách chân thật, sinh động những nỗi đau thương, khổ nhục của
họ dưới ách áp bức nặng nề của kẻ thù thực dân phong kiến làm nổi bật lên
cuộc sống của những người nghèo khổ.
1.2.1. Cuộc sống nghèo khổ do mất mùa, thiên tai
Cũng như bao miền quê khác trên đất nước mình, đồng bào các dân tộc
thiểu số ở tỉnh Cao Bằng sống chủ yếu dựa vào nghề trồng lúa. Nhưng đồng
bào nơi đây quanh năm phải chống chọi với thiên tai: “Trời Hà Quảng trong
xanh, ruộng Hà Quảng đất lẫn đá bốn mùa khô xác, không giữ được một hạt
nước, một hạt màu. Đất nghiêng đi đâu mà nghiêng mãi, lúc nào cũng chỉ
thấy người tháo, người đắp giữ nước ngoài đồng” [6, tr 10]. Hình dung trước
mắt người đọc những cánh đồng ở nghiêng sườn núi cằn cỗi khô xác quanh
năm khi thì nắng hạn, khi thì mưa lũ rửa trôi không giữ được hạt màu. Người
dân nơi đây khi phải chống úng khi trống hạn báo hiệu một năm mất mùa, đói
kém. Khiến người đọc liên tưởng tới những khuôn mặt hốc hác tiều tụy vì đói
ăn. Hình ảnh những guồng quay đưa nước suối, nước sông lên ruộng kẽo kẹt
múc từng ống nước đổ vào ruộng và những cánh cối giã gạo bên suối đã tất tả

quay suông không có thóc gạo: “Tháng bảy rồi mà cọn nước còn kẽo kẹt suốt
đêm múc từng ống vào ruộng. Hạn to rồi. Mới có tháng bảy mà những cái
cánh cối đã tất tả quay suông. Như thế là chẳng còn hạt gạo nào dính trôn cối”
[6, tr10]. Tất cả đều thể hiện cái nghèo, cái khổ của người nông dân nơi đây.
Người dân làng Nà Mạ vừa phải đối mặt với sự chèn ép của các tầng lớp
thống trị vừa phải đối mặt với thiên tai mất mùa làm cho cuộc sống của họ đã
khổ cực còn cực khổ hơn bao giờ hết. Người dân nghèo khổ nơi đây không có

11


đủ cơm ăn, áo mặc. Họ phải vào rừng đào củ mài về ăn thay cơm. Thiên tai
mất mùa hoành hành mà trong gia đình lại thiếu vắng bóng dáng người đàn
ông nên cuộc sống của những người phụ nữ càng thêm vất vả nhọc nhằn.
Không chỉ mất mùa lúa mà cây ăn quả cũng không cho nhiều quả như mọi
năm: “Qủa lê Đông Khê năm nay mọng nước mà nhạt thếch. Lê châu Hạ
Lang thì còi” [6, tr 40]. Mất mùa lúa nay lại mất mùa lê cuộc sống của người
nông dân đã khổ nay lại càng vất vả và khó nhọc hơn, mùa lê chưa đến mà
sương từ khe núi cứ đùn ra trắng cả ngọn cây.
Cuộc sống nghèo đói còn hiện hữu qua hình ảnh những đứa trẻ đói ăn,
những khuôn mặt hốc hác của người dân. Đặc biệt là trong phiên chợ. Những
đứa trẻ như Dền đói mà nhìn thấy những món quà, chỉ được ngắm nhìn mà
không được ăn: “Đầu tiên, Dền thấy những hàng xôi ở đầu dốc. Hai bên bắc
ghế dài cạnh chõng hàng, trên mặt chõ xôi trắng lỗ chỗ hoa hiên, xôi lại
nhuộm lá gì đỏ như mào gà. Dền trông thoáng. Những cái ngon mà không
được vào miệng, thì chỉ mới nhìn, bụng đã réo ong óc” [6, tr 18]. Và cả những
khuôn mặt hốc hác của mấy người thợ dân tộc Nùng làm nghề đẽo đá kê cột
mà có lẽ cả đời họ cũng chỉ biết đi đẽo đá kê chân cột nhà người ta còn chưa
bao giờ đẽo đá để kê chân cột nhà mình. Cuộc sống của những người thợ
nghèo khổ cũng chỉ mong kiếm được miếng cơm manh áo sống qua ngày:

“Mấy người Nùng cởi trần ngồi trước cái chân cột đá – những người làm nghề
đẽo đá kê cột. Trông mặt hốc hác thì biết người đói, có lẽ cả đời chỉ đi làm
chân cột cho nhà người ta, chưa bao giờ được đẽo đá kê chân cột nhà mình”
[6, tr19].
Từ tất cả những hình ảnh trên, Tô Hoài đã phác họa thành công cuộc
sống vất vả khổ cực của những người nghèo khổ. Giúp người đọc hiểu và cảm
thông với số phận của con người trong xã hội cũ, xã hội có quá nhiều bất công
và khó nhọc.

12


1.2.2. Cuộc sống người dân nghèo khổ vì bị áp bức bóc lột
Hình ảnh người nông dân làng Nà Mạ hiện lên trong tác phẩm có nhiều
đau khổ và cùng quẫn. Họ không có khả năng tự bảo vệ mình trước những thế
lực tàn ác hung hãn của bọn phong kiến và của các thế lực khác đang thống
trị cuộc sống của họ. Cuộc sống của những người nông dân vốn đã vất vả,
nghèo đói do thiên tai mất mùa, nay họ còn đói khổ hơn khi phải chống lại sự
cướp bóc của những tên cướp và quan quân.
Nạn cướp bóc hoành hành khắp nơi ở tỉnh Cao Bằng các tên cướp từ trên
núi xuống chiếm đoạt, cướp bóc tài sản của người nông dân. Nhưng tác giả lại
cho người đọc những tia hi vọng mới khi các làng đều thành lập hội đánh
cướp để giúp nhau chống lại bọn cướp trên núi: “Bây giờ kẻ cướp mỗi ngày
một nhiều. Làng nào xóm nào ta cũng phải cùng nhau một bụng. Có cướp
đến, đánh trống, gõ sàn, gõ nồi rồi ra đánh đuổi cướp đi. Các làng đều có hội
đánh cướp, xóm ta vào hội đánh cướp” [6, tr25]. Ngỡ tưởng rằng cuộc sống
của họ sẽ đỡ vất vả và khổ cực khi bọn cướp trên núi không còn hoành hành.
Nhưng Tô Hoài lại một lần nữa phơi bày sự thật về cuộc sống vất vả của
người nghèo khổ trước mắt người đọc. Sự xuất hiện của những tên lính, chân
quấn xà cạp, đeo thắt lưng da là đại diện cho những thế lực ác bá trong xã hội

tiền quyền đầy rẫy bất công. Chúng không chỉ đánh đập người dân nô lệ mà
còn cướp bóc một cách trắng trợn, có cái gì chúng cũng lấy mất: “Còn bọn
Tây, bọn quan, bọn lính thì vẫn tự nhiên vào xóm, lấy cái gì cũng được, đánh
ai cũng được. Quan quân đi ăn cướp thì ở đâu cũng thấy, ở Sóc Giang, ở Bó
Gai, ở Đôn Chương, ở Mỏ Sắt, chỗ nào có đồn, có bốt, có chợ, có quan Tây,
có tri châu, bang tá, có châu đoàn, có lính, là có bọn cướp ngày ấy. Người ta
bảo nhau: kẻ cướp thì vãn rồi, quân quan đi cướp còn đông hơn” [6, tr40].
Người đọc lại một lần nữa cảm nhận được cái vất vả, nhọc nhằn của người
dân nghèo khổ khi tên lính cướp chiếc bu vịt của Dền – một đứa nhóc mười

13


tuổi: “Rồi hất tay Dền đi. Dền hoảng, thằng lính sắp cướp mất con vịt”
[6,tr21]. Thế nhưng, Dền không nhận được sự giúp đỡ của một người nào,
giữa cái chợ cả trăm người qua lại ấy. Những tên lính đi cướp khiến người
dân chỉ có thể cam chịu và xót thương: “Thôi, cũng bằng gặp quân cướp ngày.
Biết mặt hay không cũng chẳng cởi khố nó ra được đâu” [6, tr24]. Cuộc sống
của người nông dân nghèo lại càng thêm càng thêm cùng quẫn khi cướp trên
núi đã vãn nhưng những tên lính đi cướp thì ngày càng nhiều hơn: “Đến trưa,
lính trên bốt chạy xuống chợ kêu: tàu bay về ném bom tan mỏ sắt rồi còn
đứng đấy à? Thế là chợ vỡ, người chạy hết Chẳng thấy bom, chỉ thấy hôm ấy
bọn lính được một mẻ to. Có thằng hai tay dắt bốn năm con bò béo khoáy đít.
Có thằng lính vơ bạc nghìn trong song bạc…” [6, tr 39]. Hình ảnh “những con
bò béo khoáy đít” là sản phẩm mà người dân phải vất vả chăm sóc mới có
được, mong đợi tới ngày đem bán để có đồng ra đồng vào, nhưng nay lại bị
người khác lấy đi mà không được trả một đồng tiền công nào. Rồi chúng cướp
cả con cá chết của Dền nữa, chúng vơ vét không tha một thứ gì. Cuộc sống
của những người dân nơi đây càng trở nên cơ cực vất vả dưới sự kìm kẹp của
các tầng lớp thống trị. Nhưng vượt qua hoàn cảnh sống khắc nghiệt và khó

khăn ấy, người dân nơi đây vẫn giữ được vẻ đẹp trong tâm hồn mình, vẫn giữ
được những truyền thống vốn có của đồng bào các dân tộc tỉnh Cao Bằng.
Một bức tranh được tác giả vẽ lên với những gam màu tối về cuộc sống
vất vả, đói rách của người dân các dân tộc thiểu số, nhưng tiềm ẩn trong bức
tranh ấy là sức sống mãnh liệt, nghị lực phi thường của con người nơi đây,
những ấp ủ mà tác giả muốn gửi gắm về một tương lai tươi sáng hơn.
Tiểu kết chương 1
Truyện ngắn Kim Đồng của Tô Hoài là tác phẩm viết về hiện thực cuộc
sống của người dân vùng núi Cao Bằng. Dưới ngòi bút và cái nhìn tinh tế của
mình, Tô Hoài đã cho người đọc thấy được cuộc sống vất vả, khổ cực của

14


người dân nô lệ và những người nghèo khổ trong xã hội lúc bấy giờ. Hình ảnh
những người dân nô lệ nổi lên với nỗi vất vả khi phải lao động nặng nhọc bị
bắt đi lao dịch phu phen. Bên cạnh đó, họ còn bị giai cấp thực dân phong kiến
bóc lột kiệt quệ sức lao động và bị đối sử tàn nhẫn. Người dân nô lệ không chỉ
bị bóc lột sức lao động mà họ còn bị hành hạ về thể xác bị đánh đập dã man
với những trận đòn roi thậm chí còn bị giết. Những người nô lệ bị coi là tầng
lớp thấp bé nhất trong xã hội, họ không có tiếng nói của riêng mình, không
được hưởng bất cứ một quyền tự chủ nào, tính mạng cũng không được ai bảo
vệ có thể mất bất cứ lúc nào. Cùng có chung số phận với những người dân nô
lê, cuộc sống của những con người nghèo khổ cũng được tác giả phác họa hết
sức chân thực. Hình ảnh những người nghèo khổ với khuôn mặt hốc hác, xám
xịt tất bật với công việc hàng ngày để kiếm miếng cơm manh áo. Thiên tai,
mất mùa cùng với nạn cướp bóc của quan của lính càng làm cho cuộc sống
của họ lầm than hơn. Từ cuộc đời, số phận của những người dân tỉnh Cao
Bằng, Tô Hoài đã cho người đọc thấy được sự bất công của xã hội, thấy được
nỗi vất vả, nhọc nhằn của người dân qua đó làm nổi bật lên sự tàn ác của thực

dân Pháp, phát-xít Nhật và chế độ phong kiến lúc bấy giờ.

15


CHƯƠNG 2
CON NGƯỜI VÙNG NÚI CAO BẰNG QUA TÁC PHẨM KIM ĐỒNG
Thế mạnh của nhà văn Tô Hoài khi viết về vùng núi phía Bắc chính là
quá trình “trải nghiệm nỗi đau của quần chúng, hướng tới lẽ sống của nhân
dân”.Cái nhìn biện chứng về con người ngay từ những năm đầu cách mạng
của Tô Hoài đã kéo nhân vật về sát với đời thực, rất gần với quan niệm con
người đa diện trong văn học đổi mới ngày nay.
Với chủ trương tạo ra những người thường của đời thường, Tô Hoài
không để lại trong chân dung các nhân vật miền núi của mình những đường
hằn của tính cách. Ông không có ý định, hoặc có lẽ không sở trường về xây
dựng tính cách. Những kiểu người gai góc, phức tạp, gây ấn tượng mạnh
không có mặt trong những trang viết của ông. Những nhân vật miền núi đáng
nhớ của Tô Hoài, là sự ám ảnh còn lại của họ nằm ở số phận nhiều hơn là cá
tính.
2.1. Những con người cần cù lao động
Tô Hoài xây dựng hình tượng các nhân vật của mình với những đường
nét chân thật đời thường, gần gũi như chính họ. Trong tác phẩm Kim Đồng,
hình ảnh những người nông dân cần cù lao động hiện lên rất rõ nét và chân
thực.
Hình ảnh người dân làng Nà Mạ hiện lên với những vất vả lam lũ trong
cuộc sống hàng ngày nhưng vẫn là những con người tần tảo chịu thương chịu
khó. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh trời, đất Hà Quảng trong xanh nhưng khô
cằn, sơ xác, thời tiết khắc nghiệt như đã báo hiệu một năm đói kém mất mùa:
“Trời Hà Quảng trong xanh, ruộng Hà Quảng đất lẫn đá bốn mùa khô xác,
không giữ được một hạt nước, một hạt màu” [6, tr10]. nhưng người dân nơi

đây vẫn tần tảo sớm hôm trên những cánh đồng, từng ngày cố gắng chống
chọi với thiên tai để hy vọng thay đổi tình cảnh của ruộng đồng, tạo ra lương

16


thực nuôi sống con người: “Mưa lụt, nắng han, đất nghiêng đi đâu mà nghiêng
mãi, lúc nào cũng chỉ thấy người tháo, người đắp giữ nước ngoài đồng”
[6,tr10].
Không chỉ quẩn quanh với việc đồng áng, người dân làng Nà Mạ còn cần
mẫn làm thêm nhiều công việc trong cuộc sống hàng ngày của họ như dệt vải,
vặn thừng bo, làm giấy và nhều việc khác chỉ mong kiếm được đồng tiền.
Hình ảnh mẹ Dền cặm cụi ngồi dệt vải cho ta thấy sự cần cù của người dân
nơi đây: “Rồi hai anh em di ngủ lúc nào. Mẹ đem guồng sợi đánh vải trong
bóng trăng” [6, tr17].
Hình ảnh người nông dân trong sáng tác của Tô Hoài là những con người
cần cù lao động, không chỉ là hình ảnh của người bố, người mẹ tất tả với công
viêc mà còn là hình ảnh của những đứa trẻ cũng chăm chỉ, ham làm. Sau khi
bố Dền bị bắt đi phu,thương mẹ đau chân không làm được việc nặng, hai anh
em Dền đã biết tự phân việc ra để gánh vác mọi chuyện trong gia đình: “Nói
phân phát công việc như thế, anh nghĩ mình đã lớn hơn mọi khi và cảm thấy
bây giờ phải xốc vác, thay bố đi vắng” [6, tr12]. Hai anh em đều cảm thấy
mình đã lớn và cần phải giúp mẹ. Dền bắt đầu đi chăn vịt. Em thấy mình lớn
hẳn lên từ lúc nhận công việc đó: “Nhưng, từ lúc nhận chăn vịt, Dền thấy
minhfbaay giờ lớn rồi, khác hẳn, khác nhất bởi vì Dền chưa chăn vịt bao giờ”
[6,tr13]. Mới là một đứa trẻ nhưng khi nhận được công việc của mình Dền lại
rất siêng năng và chăm chỉ. Vào những ngày mưa, không thả được vịt, Dền
còn biết đi đào giun bắt dế về cho vịt ăn.
Sự vất vả lam lũ của con người nơi đây còn được thể hiện ở cường độ
lao động. Họ làm việc không kể thời gian, người ta đi làm từ sáng sớm tới

khuya: “Ba anh em đi lấy cây dó sớm hôm sau. Chưa có người ra đường,
những ngọn lau sáng sớm còn đẫm sương” [6, tr33]. Cuộc sống của người dân
nơi đây không chỉ có người lớn phải thức khuay, dậy sớm mà những đứa trẻ

17


nơi đây ngay từ khi còn nhỏ đã biết đi rừng lúc trời còn chưa sáng. Những
người dân nơi đây, mỗi người đều toát lên vẻ đẹp của đức tính cần cù chịu
thương, chịu khó.
Con người nơi đây vốn chịu thương chịu khó như thế, từ người lớn đến
trẻ nhỏ ai cũng đều tất tả với công việc của mình. Mỗi năm đến vụ giáp hạt,
cả xóm phải lên rừng nhưng mẹ Dền bị bệnh nên không theo kịp người ta, bố
con Dền lại thay mẹ đi làm: “Bố con phải đổ sức ra đẽo chân núi mới được
một vạt mấy hàng lúa” [6, tr 33]. Hình ảnh những con người cần cù lao động
không ngại khó, ngại khổ vẫn miệt mài, cần mẫn trồng lúa, gieo hạt trên
những cánh đồng đã đi vào trang viết của Tô Hoài một cách dung dị và mộc
mạc, mang đến nét đẹp gần gũi của người dân tỉnh Cao Bằng. Mẹ Dền bị
bệnh không thể theo mọi người lên núi vào những ngày giáp hạt nhưng ở nhà
bà vẫn là một người phụ nữ tần tảo, lo toan mọi việc trong gia đình: “Có lần
bố lên núi Lục Khu, đem về được cách làm giấy bằng cây dó, cây trúc của
người Dao. Từ đấy, mẹ Dền ở nhà, khi làm giấy, khi kéo sợi” [6, tr33]. Hình
ảnh mẹ Dền ngồi trong đêm trăng sáng dệt vải hay khi bà ngồi trước chậu
ngâm vỏ dó, tước dó để làm giấy cũng cho người đọc cảm nhận được bà là
một người phụ nữ rất đảm đang, mặc dù ốm đau bệnh tật không thể đi làm
nhưng ở nhà bà vẫn lao động không ngừng nghỉ để kiếm thêm đồng ra đồng
vào cho gia đình.
Không chỉ làm lụng trên ruộng trên ruộng, trên đồng như: cày cấy, chăn
vịt, quăng chài,…Người dân còn chịu khó khi tìm những công việc có thể
kiếm được cái ăn. Hình ảnh những người thợ đẽo đá người dân tộc Nùng tuy

khuôn măt xám bạc vì đói ăn nhưng vẫn chăm chỉ cần mẫn đi đẽo đá kê chân
cột cho nhà người ta: “Mấy người Nùng cởi trần ngồi trước chân cột đá –
những người làm nghề đẽo đá kê chân cột. Trông mặt hốc hác thì biết người
đói, có lẽ cả đời chỉ đi làm chân cột cho nhà người ta, chưa bao giờ được đẽo

18


hòn đá kê chân cột nhà mình” [6, tr18]. Và còn rất nhiều người, dân tộc khác
như người Tày, người Mèo, người Dao cũng đang tất bật với công việc của
mình: “Từ hai bên triền núi xanh, từng đám người Mèo, người Nùng cõng về
chợ những thùng rượu ngô, lại giắt theo con bò long vàng mỡ” [6, tr18].
Những việc họ làm để mong ước có cuộc sống khấm khá, dễ chịu hơn.
Thời gian sống gắn bó cùng ăn, cùng làm với người dân các dân tộc của
tỉnh Cao Bằng đã giúp Tô Hoài có cái nhìn sâu sắc về con người nơi đây. Chỉ
bằng những đường nét đơn giản không cường điệu nhưng người đọc có thể dễ
dàng hình dung ra những nét đẹp truyền thống của những con người lam lũ
mà cần cù lao động.
2.2. Những con người giàu lòng yêu nước đi theo cách mạng
Con người miền núi được Tô Hoài nhìn nhận theo quan niệm mới.
Người dân trước đây sống trong chế độ cũ, bị các thế lực cường quyền đầy
đoạ, xô đẩy họ đến bước đường cùng. Tưởng như không có lối thoát, nhưng
với sức sống mãnh liệt và nhất là khi có ánh sáng Cách mạng soi đường, họ
đã vùng dậy. Tô Hoài đã chỉ ra quá trình vận động và trưởng thành của đồng
bào các dân tộc thiểu số cũng như người dân cả nước trong tư thế đứng lên
chung của đất nước trong thời đại mới. Ở Truyện Kim Đồng, Tô Hoài đã miêu
tả cuộc đời thống khổ của người dân miền núi tỉnh Cao Bằng dưới ách thực
dân và quan quân phong kiến. Bọn thống trị đã kết hợp bộ máy đàn áp của
chúng với sức mạnh của thần quyền để đè nén ức hiếp nhân dân. Đâu đâu
cũng là cảnh sống ngột ngạt, u uất. Nhưng ý tưởng chủ đạo của tác phẩm

không chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh hiện thực mà Tô Hoài đã mô tả hiện
thực và con người trong quá trình phát triển cách mạng, trong triển vọng
tương lai tốt đẹp của dân tộc. Tuy phải sống trong ách kìm kẹp của thực dân
phong kiến nhưng người dân làng Nà Mạ vẫn tiềm ẩn một sức sống và khả
năng cách mạng mạnh mẽ.

19


Tô Hoài đã cho con người nơi đây thấy được ánh sáng của niềm tin, của
tia hi vọng về một tương lai tốt đẹp hơn khi có ánh sáng của cách mạng soi
đường. Người dân đã được giác ngộ Cách mạng Hình ảnh anh cán bộ Đức
Thanh là đại diện cho niềm tin ấy, là người nhóm lên ngọn lửa Cách mạng nơi
núi rừng tăm tối đó. Người cán bộ Cách mạng đã giúp cho người dân đến với
ánh sáng của cách mạng: “Cán bộ là người Cách mạng về dạy quân sự, dạy
khai hội, dạy chữ, bảo ta biết ngĩ điều đúng” [6, tr61].
Cách mạng giúp con người nhận ra bộ mặt của kẻ thù, khơi dậy ở họ
lòng căm thù đã tích tụ lâu nay. Lòng căm thù cường hào ác bá, căm thù bọn
giặc của người dân được Tô Hoài thể hiện qua những chi tiết cụ thể. Đó là
những ý nghĩ, hành động của Dền nói với anh trai mình: “Thằng lính lấy cái
bu vịt, chém cái dấu chỗ này. Thằng lính bắt bố đi cho cướp đánh chết ở chợ
Sóc, em chém chỗ này. Hôm nay, thằng lính đánh em, em chém cái dấu chỗ
này. Chém thế để nhớ, anh ạ” [6, tr50]. Chỉ mới là một đứa trẻ nhưng trước
tội ác của kẻ thù, em không thể quên. Dền ghi nhớ tất cả những tội ác mà
chúng gây ra cho gia đình em. Nó nung nấu trong tâm hồn em như chờ dịp là
bùng cháy: “Không được, nếu bao giờ làng Nà Mạ nhà mình có hội đánh
cướp thì không thể tha cái thằng lính cướp lồng vịt được” [6, tr27]. Tô Hoài
đã không để người đọc cũng như người dân làng Nà Mạ thất vọng khi xây
dựng nên hình ảnh của những người dân giác ngộ Cách mạng. Câu chuyện
của người dân đi chợ về việc tàu bay ném bom tan mỏ sắt của bọn Tây cũng

khiến cho người dân trong làng cảm nhận được sự thay đổi của những việc
đương diễn ra.
Và người đọc càng thích chí hơn khi Dền và Thàn phát hiện các đội
thanh niên du kích đang tập trận vào những đêm trăng sáng: “Mãi sau nhận ra
những bóng đen nhấp nhô trên các tảng đá quanh đấy đều là người ngồi. Ánh
trăng sáng tỏ, thấy rõ hơn mười người đương chụm lại. Mỗi lúc lại nhìn thêm

20


×