TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
--------------
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Liêm
ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC
CÔNG TY WALMART
NHẬN XÉT CỦA THẦY
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Liêm
………………………………………………………………………………………
Danh sách nhóm:
Nguyễn Thiện Danh
………………………………………………………………………………………
37K16.1
Nguyễn Thanh Thoại Nhi 37K16.1
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Nguyễn Văn Hoàng
37K16.1
Nguyễn Thị Như Ý
37K07.2
………………………………………………………………………………………
Lê Thị Kim Loan
37K16.1
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Thực hiện: NHÓM DELTA AIR LINES
Đà Nẵng,
tháng
năm 2014
Nguyễn
Phú3Quốc
35K02.1
Ngô Thị Hạnh
Nguyễn Thị Kim Anh
Nguyễn Hoàng Tuấn
35K02.1
35K02.2
35K02.2
Mục lục
WALMART
Lĩnh Vực
Bán lẻ
Thành lập:
Rogers, Bang Arkansas, Hoa Kỳ (1962)
Trụ sở chính:
Bentonville, Arkansas, Hoa Kỳ
Sản phẩm:
Các cửa hàng truyền thống, cửa hàng tạp phẩm, siêu
trung tâm mua sắm và kho mua sắm
Doanh Thu:
469,2 tỷ USD (2013)
Tổng nhân viên:
2,2 triệu (2013)
Trang web:
www.walmart.com
Thị Trường hoạt động:
Mỹ, Mexio, Anh, Nhật, Argentina, Braxin, Canada,
Trung Quốc, Puerto Rico,… Wal-Mart hoạt động với
hơn 3800 cơ sở ở nước Mỹ và hơn 2600 cơ sở ở nước
ngoài1
Wal-Mart là tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới. Về quy mô Wal-Mart lớn hơn
cả các hãng bán lẻ Home Depot, Kroger, Sears, Costco và Kmart cộng lại. Wal-Mart
hoạt động trên 50 tiểu bang của Hoa Kỳ và có mặt ở 27 quốc gia trên toàn thế giới
với số lượng lên đến 11.000 cửa hàng khác nhau, tiêu biểu là: Cửa hàng truyền
thống, trung tâm mua sắm và kho mua sắm.
Wal-Mart liên tục giữ vị trí số 1 trong 500 công ty có doanh thu lớn nhất theo
xếp hạng của tạp chí Fortune. Nếu Wal-Mart là một quốc gia, đế chế bán lẻ này sẽ
trở thành nên kinh tế lớn thứ 26 trên thế giới. Doanh thu của Wal-Mart bỏ xa các đối
thủ khác trong lĩnh vực bán lẻ. Năm 2013, Wal-Mart có tổng doanh thu khoảng
469,2 tỷ USD, 60% doanh thu của tập đoàn đến từ thị trường nội địa, doanh thu mỗi
ngày của Wal-Mart gấp đôi doanh thu của tập đoàn bán lẻ lớn thứ nhì là Carrefour
(Pháp)
Điểm nổi bật của Wal-Mart là cung cấp các mặt hàng chất lượng tốt với mức
giá thấp, tiết kiệm tiền cho người tiêu dùng để có thể tận hưởng cuộc sống một cách
tốt hơn, đúng như Wal-Mart đã đề cập trong sứ mệnh của mình.
Sở dĩ Wal-Mart có được sự phát triển hùng mạnh như ngày hôm nay, đồng
thời được xem là một biểu tượng thành công trong lịch sử kinh doanh nước Mỹ, là
nhờ vào sự dẫn dắt của nhà sáng lập Sam Walton. Sự khác biệt, độc đáo của WalMart so với đối thủ cạnh tranh nằm ở triết lí kinh doanh, niềm tin mạnh mẽ mà Sam
Walton đã kiên định hành động để duy trì và phát triển: giá thấp hơn đối thủ cạnh
tranh, cho dù một ít nhưng luôn luôn phải duy trì. Xuyên suốt trong quá trình hình
thành Wal-Mart, triết lí kinh doanh này thấm nhuần trong mỗi hành động, phát
ngôn, phương thức để đối phó với những thay đổi từ môi trường bên ngoài của Sam
Walton.
A. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHIẾN LƯỢC:
I. Lịch sử hình thành2:
Sam Walton sinh ngày 29-3-1918 gần Kingfisher, Oklahoma, một vùng quê
nhỏ của nước Mỹ. Từ nhỏ Sam Walton đã có dịp chứng kiến sự đau khổ, khốn cùng
của những nông dân phải mất đi mảnh đất gắn bó với họ vì hệ quả của thời kì đại
khủng hoảng. Ám ảnh vế sự nghèo khổ đã nung nấu cho Sam Walton quyết tâm
không bao giờ phải đối mặt với tình cảnh này trong cuộc đời.
Trong suốt thời gian đi học, Sam Walton đã phải đấu tranh giữa việc học và
bỏ học để tìm một công việc ổn định. Sau khi suy nghĩ kĩ, nhìn lại những khó khăn
gia định đã phải chống chọi, Sam đã quyết định tiếp tục theo học chuyên ngành
kinh tế Đại Học Missori. Vì không đủ tiền, Sam đã phải làm vô số công việc ngoài
giờ như nhân viên cứu hộ tại bể bơi của trường kiêm nhân viên giao báo buổi sáng,
nhân viên phục vụ nhà hàng… Vậy nên, Sam Walton trân quý công sức lao động
của bản thân và mọi người, không bao giờ cho phép bản thân và gia định lối sống
1 Nguồn: />2 Nguồn: />
hoang phí, xa hoa ngay cả khi ông trở thành người giàu có nhất nước Mỹ những
năm 1980. Đối với Sam Walton, một đồng đô la có giá trị to lớn của nó: “Chỉ khi
biết đánh giá đúng giá trị của đồng đô la, lúc ấy mới có thể thu về những đồng đô la
khác”. Và triết lí đó đã được áp dụng triệt để trong kinh doanh vĩ đại của ông: một
đồng đô la tiết kiệm được tại Wal-Mart là một đồng đô la làm lợi cho khách hàng.
Mọi hoạt động của Wal-mart đều gắn liền với từng chiến lược. Mọi việc làm
Sam Walton làm đều cố gắng suy nghĩ đưa Wal-mart lên tầm cao mới. Trong khi các
tập đoàn bán lẻ lớn như Kmart và Sears chỉ tập trung ở khu vực thành phố hay
ngoại ô thì chiến lược phát triển lâu dài của Wal-Mart chủ trương tấn công vào
những khu dân cư bé, ít người, chẳng có “đại gia bán lẻ” nào quan tâm đến với niềm
tin rằng các cửa hàng chiết khấu có thể phát triển tốt ở các thị trấn nhỏ với dân số
khoảng 10.000 người hoặc ít hơn.
Mùa thu năm 1945, Sam Walton và vợ đã mua lại một cửa hàng tạp hóa
Ben Franklin, một cửa hàng nhượng quyền của Butlet Brothers với giá 25.000 ở
Newport, nơi chỉ có 7000 dân và tự đứng ra quản lí. Mục đích lúc đó của ông chỉ là
“làm cho cửa hàng nhỏ trở thành tốt nhất, có lợi nhuận cao nhất khu vực trong vòng
năm năm tới”. Ông đã bắt đầu phát triển các khái niệm về cửa hàng chiết khấu mà
sau này đã giúp ông trở thành người giàu nhất thế giới. Các cửa hàng của ông luôn
đưa một lượng lớn các sản phẩm đa dạng hóa với giá rẻ trên cùng một kệ, tổ chức
khuyến mãi và chiết khấu. Walton cũng lập các phương pháp cung cấp hàng giảm
giá bằng cách mua lại những sản phẩm từ các nhà cung cấp khác với mức giá thấp.
Điều này đã thu hút khách hàng và mang lại lợi nhuận to lớn cho ông. Một yếu tố
thêm vào sự thành công cho Chiến lược bán hàng giá rẻ là những cửa hàng của ông
luôn được đặt ở những vị trí trung tâm. Doanh số bán hàng vào năm 1945 đạt được
$72.000 và đến năm 1950 đã đạt đến $250.000.
Năm 1950, Ben Franklin trở thành địa điểm kinh doanh thành công nhất
trong vùng nhưng Sam Walton bị buộc phải từ bỏ quyền quản lí cửa hàng. Để tiếp
tục con đường kinh doanh của mình, ông mua lại cửa hàng khác của Ben Franklin
tại Bentonville, Arkansas với hơn 3000 dân và đổi tên thành Walton’s Five & Dime
( Cửa hàng năm xu, một hào). Tại đây, Sam Walton cho áp dụng hình thức tự phục
vụ, nơi không có những nhân viên chỉ đi lấy hàng cho khách khi có yêu cầu và
những máy đếm tiền ở đầu cửa hàng như phần lớn những cửa hàng lúc bấy giờ, mà
thay vào đó là những chiếc máy bán hàng tự động đặt tại quầy. Cửa hàng trưng bày
tất cả hàng hóa lên kệ để khách hàng tự chọn lựa hàng hóa và so sánh giá cả.
Trong vòng 15 năm, hệ thống cửa hàng của Sam đã trở thành cửa hàng tạp
phẩm lớn nhất nước Mỹ, một bước khỏi đầu hoàn hảo cho mọi dự định bay xa. Tuy
vậy nhưng hệ thống cửa hàng nhỏ này vẫn có những mặt hạn chế. Vì vậy Sam
Walton đã thử nghiệm triết lí xây dựng những cửa hàng có quy mô lớn hơn tại
Rogers, Arkansas. Không lâu sau, khả năng tiên đoán của Sam Walton về việc kinh
doanh hàng giảm giá đã đúng. Một thời đại mới của Wal-Mart đã bắt đầu.
Ngày 2-7-1962,Cửa hàng Wal-mart đầu tiên được Sam Walton mở ra tại
Rogers, Arkansas Đây được xem là một trong những cửa hàng đầu tiên áp dụng
mô hình siêu thị tự phục vụ, nơi cung cấp hàng hóa với trình độ chuyên nghiệp hơn.
Năm 1962 là năm ra đời ngành công nghiệp chiết khấu. Từ một cái tên
không mấy biết đến giữa các đại gia của ngành bán lẻ. Nhưng sau 30 năm, WalMart đã duy trì thành công của mình và đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Wal-mart
chỉ còn lại Kmart. Thời gian ngắn sau, Kmart cũng “sập tiệm”.
Mặt khác, Sam Walton đã áp dụng một chiến lược khôn ngoan cho đường đi
của mình: “Chiếm lĩnh toàn bộ thị trường bằng cách trải rộng, sau đó tìm cách lắp
đầy”. Wal-mart đi những bước chậm rãi và chắc chắn, thiết lập những vành đai gồm
các cửa hàng bao quanh thành phố, chờ đợi cho đến khi thành phố phát triển đến tận
nơi. Việc đưa ra những chiến lược này phát huy hiêu quả giúp giảm số tiền đầu tư
vào quảng cáo. Chỉ cần quảng cáo hàng tháng, sức lay động đã lan đến những nơi
hẻo lánh nhất.
II. Lịch sử chiến lược:
* Ngày 31-10-1969,Wal-Mart Stores, Inc đã chính thức được thành lập với
trụ sở chính đặt tại Arkansas, Hoa Kỳ. Từ những cửa hàng nhỏ mà 2 anh em nhà
Walton đã gây dựng, đến thời gian này Walmart mới chính thức được thành lập.
Sam Walton đã tuyên bố viễn cảnh và sứ mệnh cho Walmart và hi vọng Wal-Mart
luôn được nhắc đến với chiến lược “Delivering Everyday Low Price” (DELP)-các
cửa hàng luôn cung cấp cho khách hàng với “giá thấp mỗi ngày”. Walton đã giữ
một mức giá thấp nhất có thể và vẫn thu được lợi nhuận thông thông qua doanh số
bán hàng và chiến lược tiếp thị phổ biến.
* Năm 1971: Trung tâm phân phối đầu tiên và Trụ sở chính mở tại
Bentonville, Ark.
Trung tâm phân phối của Wal-mart được xây dựng trên nguyên tắc tất cả các
cửa hàng của Wal-mart chỉ được xây dựng trong phạm vi 12 tiếng đồng hồ lái xe,
tính từ trung tâm phân phối. Cung ứng hàng hóa theo từng cụm với những lớp tạo ra
vành đai các cửa hàng bao quanh trung tâm phân phối trong vòng bán kính 200
dặm. Mỗi trung tâm phân phối được xây dựng một cách khoa học được phân ra
nhưng khu vực khác nhau trên cơ sở số lượng hàng hóa nhận được.
Nhà cung ứng giao hàng trực tiếp đến các trung tâm phân phối, được phân
loại và chuyển đến trực tiếp đến các cửa hàng mà không qua các khâu trung
gian. Ti lệ vòng quay hàng tồn kho rất cao, khoảng một lần trên hai tuần cho
hầu hết các chủng loại hàng hóa nên lượng hàng tồn kho được quản lí một
cách chặt chẽ ,cắt giảm chi phí tồn kho và vận chuyển đến mức tối đa, hàng
hóa tại trung tâm phân phối luôn dồi dào và ổn định.
• Năm 1972: Cổ phiếu của Wal-mart được niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khoán New York.
Wal-mart không ngừng mở rộng thị trường, phát triển chuỗi cửa hàng và vấn đề
đặt ra là công ty cần một lượng vốn lớn. Các khoản nợ của Wal-mart lên đến hàng
triệu đô la, Wal-Mart cần tiền mặt để thanh toán các khoản nợ của mình và mở thêm
cửa hàng. Sam buộc phải vay tiền từ ngân hàng và người quen để đù bắp vào khoản
thiếu hụt. Ông cảm thấy quá mệt mỏi vì cứ phải chạy khắp nơi vay tiền rồi đến đúng
hạn lại phải tìm đến những nơi khác để đắp vào. Hướng đi tốt nhất lúc này là đưa
Wal-mart lên sàn giao dịch chứng khoán.
Năm 1972, 300.000 cổ phiếu của Wal-mart được niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khoán New York với mức giá là 15 đô la nhưng đã bán được 16.50 đô la mỗi cổ
phiếu. Khi đó gia đình Walton chỉ còn sở hữu 61 phần trăm số cổ phiếu nhưng Walmart đã trang trải được tất cả nợ nần và từ đó trở đi không còn phải vay mượn bất
cứ nơi nào nữa. Bằng cách huy động vốn trên thị trường sơ cấp cũng như thứ cấp,
Wal-mart nhanh chóng giải quyết các vấn đề về nợ, mở rộng thị trường hướng đến
xây dựng công ty hàng đầu thế giới. Cổ phiếu của Wal-mart luôn được các nhà đầu
tư đánh giá cao vì tỷ suất lợi tức cao và ổn định. Từ năm 1977 đến năm 1987, lợi
tức trung bình hang năm là 46%, thậm chí giữa cơn khủng hoảng năm 1991, con số
này vẫn là 32%.
Khi Wal-mart ngày càng lớn mạnh, việc quản lí giám sát cũng như đưa ra những
quyết định cho cả một hệ thống lớn là không đủ chính xác hiệu quả. Như vậy vấn đề
đặt ra là song song với sự bành trướng, Wal-mart phải đơn giản hóa mọi thứ. Một
trong những chiến lược Wal-mart áp dụng trong giai đoạn này là đầu tư mạnh vào
công nghệ. Có thể ngày nay, việc quản lý như vậy đã trở thành hiển nhiên nhưng
trong giai đoạn này, hầu như tất cả các tập đoàn bán lẻ khác đều chưa chú ý đến việc
quản lý bằng công nghệ và Wal-mart đã tiến xa hơn khi nhìn ra điều ấy.
Năm 1980: Walmart là cửa hàng bán lẻ giảm giá đầu tiên thử nghiệm hệ thống
mã vạch vào việc bán hàng và quản lí hàng tồn kho.
Lần đầu tiên Wal-mart ứng dụng công nghệ RFID nhận dạng hàng hóa bằng tần
số radio. Các con chip nhỏ được gắn vào các sản phẩm hoặc bao bì sản phẩm và
phát ra sóng vô tuyến ở khoảng cách 50cm đến 10m tới thiết bị máy thu cầm tay.
Bằng cách nay một nhân viên có thể nhanh chóng biết chính xác đó là sản phẩm gì,
nằm ở đâu, hạn sử dụng đếm được các sản phẩm đang ở trên giá, bằng những thông
tin lưu trữ trên chip
Bước tiến đổi mới khoa học này giúp nhân viên thu ngân tăng năng suất
làm việc lên 50%. Tăng hiệu quả cho việc lưu kho hàng hóa, hạn chế
nhằm lẫn đơn hàng, nâng cao khả năng hoặc định sản lượng cho các nhà
sản xuất và tăng khả năng kiểm soát nguồn gốc và hạn sử dụng của sản
phẩm. Walmart đã cho áp dụng kỹ thuật này trên toàn hệ thống.
* Năm 1981, Wal-Mart lắp đặt một hệ thống chỉ huy điện tử trong các cửa
hàng của mình. Năm 1987, lắp đặt hệ thống thông tin vệ tinh tư nhân lớn nhất
nước Mỹ,
Wal-Mart bắt đầu áp dụng phương pháp quản lý, điều hành qua vệ tinh và chỉ huy
điện tử (Video-Cart). Tất cả đều được kết nối và điều khiển tại trung tâm ở
Bentonville. Điều này không những có thể truyền thông điệp tới các khách hàng đang
đi dạo và xem hàng, mà còn quan sát cách họ mua sắm và thu nhập thông tin về cách
thức, xu hướng mua hàng của họ để truyền về Bentonville. Bên cạnh đó còn cho phép
các văn phòng công ty theo dõi hàng tồn kho và tình hình bán hàng và ngay lập tức
liên lạc với các cửa hàng. Wal-mart còn hợp tác với công ty Hughes của Mỹ để
phóng lên một vệ tinh chuyên giám sát hệ thống tin tức vận chuyển hàng hóa trên
toàn cầu, tình hình của 3000 chi nhánh trên toàn cầu cũng như việc đặt và vận chuyển
hàng. Tất cả xe kéo vận chuyển hàng hóa của công ty đều được lắp đặt hệ thống định
vị toàn cầu, vị trí của từng xe ở đâu, đích đến ở đâu thì nhân viên trong trung tâm
điều khiển có thể biết được hết. Đồng thời sắp xếp số lượng vận chuyển và lộ trình
của từng xe một cách hợp lý. Thông qua hệ thống này, ban giám đốc có thể kiểm soát
mọi hoạt động ở khắp mọi nơi tất cả các trung tâm phân phối, các chi nhánh bán
hàng, kho bãi và lượng phí vận chuyển cũng như các đối tác trên toàn thế giới đều
được quản lý bởi hệ thống đã hình thành nên một mạng lưới phân phối, tiêu thụ, sản
xuất hàng hóa một cách có hiệu quả. Vào năm 1987, Walmart lắp đặt hệ thống truyền
thông vệ tinh nội bộ lớn nhất Hoa Kì, kết nối dữ liệu tất cả các cửa hàng Walmart trên
toàn quốc. Khác với các đối thủ, Walmart cho phép các nhà cung cấp truy cập hệ
thống dữ liệu này.
Với một loạt đầu tư trong lĩnh vực công nghệ đã tạo điều kiện thuận lợi để công ty
tiếp xúc, quản lý khách hàng cũng như hoạt động kinh doanh tại các cửa hàng tốt
hơn, từ đó nắm bắt được tình hình và đưa ra các dự đoán, kế hoạch phát triển theo
xu hướng thị trường. Hệ thống này đã giúp nâng cao hiệu quả tái cấp hàng tồn kho,
giảm thiểu chi phí vận chuyển, giảm từ 5 đến 10 phần trăm chi phí hàng hóa so với
các đối thủ cạnh tranh.
* Năm 1983: Sam’s Club được mở tại thành phố Midwest, Oklahoma
Sam’s Club là một câu lạc bộ được Sam Walton lấy ý tưởng từ Price Club
của Sol Price, là một trong những người tiên phong trong lĩnh vực bán hàng giảm
giá. Theo như Sam nhận xét, Sam’s Club là “một nền văn hóa tách hẳn ra khỏi văn
hóa Wal-Mart từ trước tới nay”.
Là một trong 3 phân khúc của Wal-mart, Sam ‘s Club giống như một kho
hàng giảm giá hoạt động song song với Wal-Mart và chỉ dành riêng cho những
khách hàng đăng ký trở thành thành viên câu lạc bộ. Những thành viên có thể là các
doanh nghiệp nhỏ, các đại lý, nhà hàng, hộ gia đình. Sam ‘s Club đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của các khách hàng, những người muốn mua hàng hóa với số lượng
lớn. Diện tích mỗi Club thường 110.000 đến 130.000 feet vuông, và cung cấp hơn
4.000 mặt hàng, từ cửa hàng tạp hóa mới để cung cấp tự động, quần áo, và dược
phẩm đến các dịch vụ bổ sung như một hiệu thuốc đặt hàng qua thư, câu lạc bộ du
lịch, Internet, và các dịch vụ đường dài, và chiết khấu khi thanh toán bằng thẻ tín
dụng. Khách hàngcó thể lấy hàng không cần phí giao hàng. Hàng hóa được sắp xếp
trên những kệ nâng hoặc trên những giá thép, đặt trên trần, phạm vi mà tay có thể
vươn tới. Việc trưng bày được thể hiện đơn giản bằng cách chất lên cao và được
đóng gói, ở đây không có chỗ cho sự rườm rà. Sam ‘s Club đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của các khách hàng muốn mua hàng với số lượng lớn. Sự ra đời của Câu
lạc bộ bán sỉ Sam được xem là một điều tất yếu, vẽ nên một hình ảnh thành phố
mua sắm thu nhỏ và thành công song hành cùng với những cửa hàng bán lẻ WalMart. Kể từ đó, Sam ‘s Club ngay lập tức tạo được niềm tin của khách hàng vào văn
hóa mới của mình và phát triển nhanh chóng, mở ra hơn 600 club ở Mỹ và 100 club
quốc tế, phục vụ cho hơn 47 triệu khách hàng. Bằng cách cung cấp giá cả phải
chăng, hàng hóa bán buôn cho các thành viên, Sam ‘s Club giúp mua hàng đơn
giản tiết kiệm cho các gia đình và doanh nghiệp nhỏ. Sam ‘s Club tin rằng các
doanh nghiệp nhỏ nhất phải có cơ hội để đạt được tiềm năng của mình, phát triển
mạnh và thành công như một tác động lớn, nâng cao vị thế gia đình, cộng đồng và
nền kinh tế.
Để đối phó với thâm hụt thương mại của Mỹ tăng cao cũng như những chỉ
trích đối với Wal-mart. Sam Walton ra mắt chương trình "Mua hàng Mỹ". Chương
trình là một nỗ lực hợp tác giữa các nhà bán lẻ và nhà sản xuất trong nước để thiết
lập lại vị thế cạnh tranh về giá cả và chất lượng hàng hoá Mỹ trên thị trường. WalMart đã chủ động làm việc và lập kế hoạch với các nhà sản xuất Mỹ và nhà cung
cấp để có được hàng hóa có sức cạnh tranh về giá cả và chất lượng so với hàng
nhập khẩu từ nước ngoài. Cần lưu ý rằng 1,6 triệu việc làm ở Mỹ đã bị mất từ năm
1981 đến 1984, ông công bố chiến dịch trong một lá thư đến 3.000 nhà cung cấp
Wal-Mart tại Mỹ. Wal-Mart nhận được nhiều sự ủng hộ tích cực cho chiến dịch.
Nhưng thực tế là phức tạp, như Walton thừa nhận trong cuốn tự truyện của mình.
"Các biện pháp khắc phục chúng tôi hình dung không phải là một số ý tưởng yêu
nước mù quáng mà rao giảng mua Mỹ bất cứ giá nào", ông nhớ lại. "Chúng tôi,
giống như bất kỳ nhà bán lẻ khác, sẽ chỉ mua hàng Mỹ nếu những hàng hoá đó
được sản xuất một cách hiệu quả, đủ để cung cấp giá trị tốt". Hành động này của
Sam Walton được cộng đồng đánh giá cao, nó không chỉ cứu vớt cho tình trạng
thâm hụt thương mại Mỹ mà còn tạo ra nhiều việc làm, tăng doanh thu trong thời
điểm khó khăn đó. Nó giúp Wal-mart cải thiện hình ảnh trong bối cảnh bị chỉ trích
từ người tiêu dùng do tận dụng quá mức các nguồn cung bên ngoài nước Mỹ.
Wal-Mart luôn cởi mở tiếp thu những ý tưởng mới và các kỹ thuật tiếp thị đã
dẫn Wal-Mart đến những gì mà người ta đã gọi là mấu chốt của thị trường bán lẻ
Mỹ. Năm 1988, Các Walmart Supercenter đầu tiên được mở tại Washington,
Missouri, kết hợp hàng hóa nói chung và một siêu thị với quy mô đầy đủ để cung
cấp sự tiện lợi khi mua sắm. Dưới một mái nhà, siêu thị cung cấp cả một cửa hàng
đầy đủ với các dòng hàng hóa nói chung. Sự tăng lên của cửa hàng thức ăn nhanh
tạo ra một "trung tâm không tường" có hiệu quả. Wal-mart supercenter kết hợp các
cửa hàng giảm giá Wal-mart với cấu trúc trình bày siêu thị hoàn chỉnh dưới một mái
nhà. Cho dù đó là việc di dời các cửa hàng Wal-mart của địa phương, việc lắp đặt
một hệ thống thứ hai trong một trung tâm phân phối hoặc phát triển khái niệm hoàn
toàn mới, nhưng Supercenter vẫn có một mục tiêu là phục vụ khách hàng.
Sự đa dạng hóa các hình thức cửa hàng đã góp phần đưa người tiêu dùng
hòa nhập hơn với hệ thống bán lẻ của Walmart. Nhờ đó, Walmart đã từng bước mở
rộng và củng cố lòng trung thành của đại bộ phận khách hàng.
Cùng với sự phát triển không ngừng nghỉ ở thị trường nội địa, Walmart cũng
gặp không ít khó khăn. Những thành phố như Lake Placid ở New York và
Fredericksburg ở Virginia tìm cách không cho Wal-mart thâm nhập, vì đây là những
trung tâm mua sắm lớn với nhiều cửa hàng kinh doanh theo phong cách cũ đồng
thời cũng là bộ mặt của ngành công nghiệp du lịch. Một số thành phố khác lại cản
trở không cho Walmart đặt chân lên những khu vực thương mại nào đã có sự hiện
diện của các cửa hàng tương tự như Kmart hay Target.
Năm 1990 : Wal-mart trở thành tập đoàn bán lẻ lớn nhất nước Mỹ và Walmart bắt đầu mở rộng việc kinh doanh ra toàn Châu Mỹ cũng như toàn thế giới.
Điều này là do những nhà quản lý Wal-Mart tính toán rằng đến đầu năm 2000 cơ
hội tăng trưởng nội địa sẽ bị giới hạn bởi sự bão hòa của thị trường. Vì thế công
ty quyết định mở rộng việc kinh doanh của mình ra thế giới . Mở đầu là sự kiện
Walmart liên doanh với Cifara một công ty bán lẻ lớn nhất Mexico ở thời điểm
hiện tại điều này là do vào năm 1991 một hiệp định thương mại tự do giữa Mỹ và
Mexico được ký kết, tạo điều kiện cho thu hút đầu tư từ bên ngoài. Thị trường
Mexico rất lớn và tiềm năng với dân số đông, số công ty bán lẻ chưa nhiều, vị trí
địa lý gần với Mỹ. Việc liên doanh với Cifara đã tạo nên một bước tiến mới cho
Wal-mart đó là bắt đầu xâm nhập vào thị trường quốc tế .Vào năm 1992, Sam
Walton tuyên bố “Chúng tôi làm việc để giảm chi phí sinh hoạt cho mọi người,
chúng tôi sẽ mang đến cho thế giới cơ hội để tiết kiệm và có cuộc sống tốt đẹp
hơn.” Điều này càng làm khẳng định thêm mục tiêu tiến ra thế giới của Walmart.
Walmart muốn tiến ra bên ngoài để không chỉ người dân Mỹ mà cho thế giới có
một cuộc sống tốt đẹp hơn với triết lý tiết kiệm tối đa cho khách hàng của mình.
Để cụ thể hóa mục tiêu trên năm 1994 : Wal-mart thâm nhập thị trường Canada
bằng việc mua lại 120 cửa hàng Woolco - dạng Wool Worth và chuyển nó thành
dạng cửa hàng chiết khấu của mình. Năm 1996: Công ty đã có mặt tại Brazil
thông qua việc liên doanh với Lojas Americanas. Cũng trong thời gian này Walmart cũng tiến sang Agentina bằng cách mở một số Sam's Club đồng thời
WalMart mua lại 21 chuỗi cửa hàng Wertkauf và tiếp theo đó là mua lại 21 cửa
hàng Interspar tại Đức. Năm 1999 : Ở Anh, mua lại chuỗi siêu thị Asda Store với
232 của hàng được mua với giá 10,8 tỉ USD.
Năm 1996: Sau những lần mở rộng việc kinh doanh của mình ra khắp
châu Âu, châu Mỹ... cuối cùng thì Wal-Mart đã tiến đến Trung Quốc. Điều này
được đánh giá như một chiến lược khôn ngoan nhất, cần thiết nhất trong bối cảnh
toàn cầu hóa như hiện nay. Nhiều chuyên gia đã dự báo rằng: “Trận địa sẽ không
còn chỗ cho bất kỳ người lính nào nhảy dù vào nữa khi Wal-Mart đến đây”. Nền
kinh tế thuộc loại sôi động nhất đã mở cửa để chào đón một công ty thuộc loại
năng động nhất. Khi tiến sang Trung Quốc lãnh đạo nước này đã tuyên bố gần
như chắc chắn rằng: “Hãy vào làm ăn với đất nước tôi”. Hiệu ứng của Wal-Mart
có thể chính là thứ mà người Trung Quốc đang cần. Những nhà cung cấp ở đây
cũng nhìn nhận Wal-Mart đã có những ảnh hưởng tích cực, thay đổi trong tất cả
các lĩnh vực, từ các hệ thống cung cấp, mạng lưới phân phối, đến các dịch vụ
khách hàng. Sự phổ biến của các cửa hàng Wal-Mart đang góp phần gia tăng số
lượng các nhà cung cấp. Các quan chức chính phủ coi Wal-Mart như một phương
thức hiệu quả để thúc đẩy sự chuyển giao của Trung Quốc từ kế hoạch nhà nước
sang thị trường tự do. Tuy nhiên để tránh những thất bại như đã từng gặp phải tại
một số quốc gia như Đức hay Hàn Quốc Wal-Mart buộc phải thích nghi để không
vuột mất thị trường tiềm năng này. Ngoài việc chấp nhận những luật lệ bất thành
văn của giới kinh doanh Trung Quốc, lần đầu tiên Wal-Mart phá bỏ lập trường
được lập ra dưới thời Sam Walton đến nay: cho phép thành lập liên minh trong
các cửa hàng. Lý do là tại Trung Quốc, các công đoàn có tầm ảnh hưởng rất lớn.
Không cho phép công đoàn phát triển nghĩa là Wal-Mart đành chấp nhận tự loại
bỏ gần như 50% tốc độ phát triển của mình. Thị trường bán lẻ Trung Quốc có
quy mô trên 840 tỉ đôla đang là môi trường cạnh tranh khốc liệt. Càng khốc liệt
hơn nữa khi nước này quyết định dỡ bỏ rào cản với các hang bán lẻ nước ngoài
theo cam kết với WTO. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đang
tăng cao, động thái mở rộng kinh doanh của Wal-Mart được xem là rất táo bạo
nhưng hết sức đúng đắn để tiếp tục giữ vững vị thế của mình tại đây. Nó cũng
minh chứng rằng, việc phá vỡ hàng rào, luôn mở rộng lãnh thổ của Wal-Mart từ
bao nhiêu năm qua vẫn chưa chịu dừng lại.
Cùng với những thành công khi phát triển thị trường ra thế giới thì
Walmart cũng gặp không ít khó khăn thất bại. Năm 1997, khi tiến vào nước Đức
thay vì vui mừng trước những nụ cười thái độ niềm nở lịch sự của các nhân viên
Wal- Mart người Đức lại tỏ ra e dè và nghi ngờ. Kết quả là Wal-Mart bị thua lỗ
liên tục và đến năm 2006 buộc phải bán chuỗi bán lẻ lại cho Metro – một đại gia
bán lẻ của nước Đức.Tại Hàn Quốc vào năm 2006 Wal-mart đã phải bán mười
sáu siêu thị cho Shinsega với giá 882 triệu đôla.
Tuy gặp một số thất bại nêu trên tuy nhiên có thể thấy Walmart luôn thay
đổi và thích ứng để duy trì năng lực cạnh tranh của mình. Các hoạt động này
đã làm gia tăng sự có mặt của các cửa hàng ra bên ngoài nước Mỹ, quảng bá
rộng rãi chiến lược “giá thấp mỗi ngày” ra thế giới. Bên cạnh đó, việc mở rộng
việc kinh doanh ra bên ngoài bằng cách tiếp cận thị trường quốc tế đã mang lại
cho công ty rất nhiều lợi thế cạnh tranh cũng như các bài học kinh nghiệm quý
báu đó là:
•
Tính lợi ích kinh tế theo quy mô đem về cho Wal-Mart sức mạnh trong đàm phán
rất lớn đối với các nhà cung cấp. Wal-Mart tận dụng quy mô khổng lồ của mình để
yêu cầu chiết khấu nhiều hơn từ các nhà bán lẻ toàn cầu tại địa phương. Nhờ vậy
làm tăng khả năng đưa ra mức giá thấp cho người tiêu dùng, giành được thị phần,
và thu được nhiều lợi nhuận hơn.
• Nghiên cứu kĩ khi muốn thâm nhập vào thị trường mới. Công ty cần hiểu rõ nền văn
hóa tại đó đồng thời hiểu được mong muốn và nhu cầu thực sự của người dân.
• Công ty cũng học tập và khai thác các ý tưởng kinh doanh tại các nước mà WalMart đang cạnh tranh.
Năm 2000: Trong bối cảnh Công nghệ và Internet thực sự đã tác động và có sức
ảnh hưởng lớn tới cuộc sống cũng như hoạt động của con người. Nó giúp mọi người
kết nối với nhau dễ dàng hơn từ đó cũng tác động đến cách mua hàng của họ chính
vì thế Walmart hướng dến mục tiêu trở thành người dẫn đạo trong thị trường mới:
thị trường thương mại điện tử với chương trình bán lẻ trực tuyến- Walmart Online.
Phó chủ tịch Walmart, Eduardo Castro-Wright đã phát biểu: “Chúng tôi đang tích
cực mở rộng phạm vi hoạt động trên lĩnh vực thương mại điện tử đang phát triển
nhanh chóng hiện nay. Các mạng xã hội và ứng dụng di động đang ngày càng thể
hiện được vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, và tạo ra ảnh
huởng không nhỏ tới quyết định mua sắm của khách hàng.” Vào năm 2000 Walmart đã hình thành một mối quan hệ với công ty Accel Partners tại thung lũng
Silicon thành lập trang wep Walmart.com đặt một bước tiến mới cho bán hàng trực
tuyến của công ty đáp ứng nhu cầu mua sắm trực tuyến của khách hàng và dần tiến
tới mục tiêu mang đến cho thế giới cơ hội để tiết kiệm và có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Wal-mart dự kiến sẽ mang lại sự tăng trưởng về giá trị cho Cổ Đông bằng cách tiếp
tục đẩy mạnh mô hình bán lẻ trực tuyến, mô hình cung cấp cơ hội tăng trưởng
doanh số bán hàng và lợi nhuận lớn hơn trong tưởng lai cho Cổ Đông3.
3 Nguồn: 2000-annual-report-for-walmart-stores-inc_130199460083383743-trang 7
Việc khai thác tiềm lực về công nghệ để phát triển thị trường bán lẻ trực tuyến
cho thấy công ty tiếp tục duy trì và phát triển mục tiêu trở thành một nhà dẫn đạo
thế giới trong thị trường bán lẻ. Theo báo cáo năm 2012, Walmart tuyên bố rằng
thương mại điện tử sẽ ngày càng trở nên quan trọng hơn và được chú trọng để phục
vụ khách hàng trong những năm tới. Walmart có đủ nguồn lực để tin rằng họ có thể
xây dựng và cung cấp một trải nghiệm mua sắm đa dạng trong tất cả các thị trường.
“Chúng tôi đang đầu tư để phục vụ nhiều khách hàng hơn nữa trên toàn cầu, đặc
biệt là trong thương mại điện tử. Chúng tôi đang đặt một lớn nỗ lực đảm bảo rằng
chúng tôi có khả năng bán lẻ tốt nhất ở mọi cấp của tổ chức. Chúng tôi đang dùng
mô hình của mình để thực hiện một sự khác biệt và áp dụng nó theo những cách
mới ở một số thách thức khó khăn nhất của xã hội.” 4. Wal-mart tin nếu họ cung cấp
các loại hàng cần thiết với giá thấp nhất và kinh nghiệm tốt nhất khách hàng sẽ lựa
chọn Walmart bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào họ mua sắm. Bằng cách đưa bán
hàng trực tuyến, thông qua điện thoại di động và mạng xã hội Walmart có thể cung
cấp khách hàng một trải nghiệm thực sự liền mạch, trao quyền cho họ mua sắm một
cách thuận tiện nhất - bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào. Trong năm qua, Walmart đã
thực hiện đầu tư rất lớn vào công nghệ để đẩy nhanh tiến độ hướng tới mục tiêu này.
Wal-mart có khả năng kết nối tất cả các sản phẩm trên thế giới với tất cả các khách
hàng trên thế giới vì vậy Wal-mart sẽ có thể đẩy nhanh việc mở rộng hoạt động
thương mại điện tử của mình.
Walmart tiếp tục đầu tư vào tiết kiệm để đạt mức giá thấp hơn và cải thiện lợi
nhuận. Họ đang đi đúng hướng để đạt được mục tiêu làm giảm chi phí hoạt động,
giúp cải thiện giá cả nhằm thực hiện sứ mệnh “Save money, Live better” mà họ theo
đuổi tron hơn 50 năm qua và duy trì vị thế dẫn đầu trên toàn thế giới ở lĩnh vực bán
lẻ, đặc biệt là thị trường thương mại điện tử.
1. Viễn cảnh:
Năm 1992, Sam Walton đã tuyên bố viễn cảnh của tập đoàn với sự khẳng
định những giá trị cốt lõi và mục đích cốt lõi làm nền tảng định hướng cho các tiêu
thức hành động của Walmart, đó là:
“The secret of successful retailing is to give your customers what they want.
And really, if you think about it from your point of view as a customer, you want
everything: a wide assortment of good-quality merchandise; the lowest possible
prices; guaranteed satisfaction with what you buy; friendly, knowledgeable service;
convenient hours; free parking; a pleasant shopping experience. To become the
worldwide leader in retailing, our first responsibility is to provide all consumers
with the best products and services with guaranteed satisfaction under one roof.”
Tạm dịch:
“Bí quyết của bán lẻ thành công là mang đến cho khách hàng những gì họ
muốn. Và thật sự, nếu bạn nghĩ về bán lẻ với quan điểm của một khách hàng, bạn
muốn mọi thứ: hàng hóa đa dạng với chất lượng tốt, giá cả thấp nhất có thể, được
đảm bảo sự thỏa mãn với những gì bạn mua; dịch vụ thân thiện và thấu đáo; giờ
giấc thuận tiện; bãi đỗ xe miễn phí; trải nghiệm mua sắm dễ chịu. Để trở thành
người dẫn đầu toàn cầu trong lĩnh vực bán lẻ, trách nhiệm hàng đầu của chúng tôi
4 Nguồn: Annual report năm 2013
là cung cấp cho tất cả khách hàng những sản phẩm và dịch vụ với sự thỏa mãn
được đảm bảo dưới một mái nhà”.
Vào ngày 1 tháng 6 năm 2004, Lee Scott – CEO của Walmart đã tuyên bố
viễn cảnh của tập đoàn, đó là:
“The vision of Walmart is to promote ownership of Walmart’s ethical culture
to all stakeholders globally.”
“Viễn cảnh của Walmart đó là thúc đẩy sự sở hữu văn hóa đạo đức của
Walmart cho tất cả các bên liên quan trên toàn cầu.”
1.1. Tư tưởng cốt lõi:
a. Giá trị cốt lõi:
Giá trị thứ nhất: Tiết kiệm để chuyển giao giá trị cho khách hàng với
việc bán hàng với giá thấp nhất có thể
Điều này thể hiện rất rõ thông qua phương châm DELP (Delievering
Everyday Low Price)- Giá rẻ mỗi ngày và triết lí Một đô la của Sam Walton.
Trong suốt chiều dài hoạt động của mình, Walmart luôn cố gắng giảm thiểu tối đa
chi phí hoạt động, nâng cao chất lượng hàng hóa để có thể cung cấp cho khách hàng
những sản phẩm với giá rẻ nhất có thể. Khi Wal-Mart mở cửa, một mức giá thấp
hơn bắt đầu được áp dụng. Điều này tạo nên một cơn địa chấn điên cuồng đối với
người tiêu dùng. Cho ví dụ, một mức giá bán lẻ thấp được niêm yết tại một nơi xa
xôi như Oklahoma, mọi người bắt đầu đổ xô đi du lịch từ Tulsa đến Springdale chỉ
để ghé vào đây mua hàng hóa. Đây là điểm mấu chốt của việc bán hàng chiết khấu.
Lợi nhuận thu được từ nhiều món đồ được bán ra sẽ nhiều hơn lợi nhuận từ những
món đồ bán ra ít hơn và vẫn giữ mức giá cũ. Bên cạnh đó, Walmart đã tạo dựng
được lòng tin của khách hàng đối với chất lượng của sản phẩm thông qua chương
trình: “Đảm bảo sự thoả mãn”. Sam Walton từng tâm sự: “Những doanh nhân vẫn
đang cố gắng đẩy giá lên cao ở bất cứ mặt hàng nào sẽ nhanh chóng chuốc lấy thất
bại. Bởi đơn giản, họ đã không hề quan tâm đến khách hàng và không đặt lợi ích
của khách hàng lên trên. Họ là những kẻ tham lam và rồi chắc chắn sẽ bị đào thải.
Chiến lược buôn bán của chúng tôi là thu hút khách hàng bằng cách bán cho họ
hàng hóa có chất lượng cao nhất với giá thấp nhất có thể”.
Sam Walton đã từng nói: "We learned how much hard work it took to get
your hands on a dollar, and that when you did it was worth something."5
“Chỉ khi biết đánh giá đúng giá trị của, dù chỉ, một đồng đô la, lúc ấy mới có
thể thu về những đồng đô la khác”.
Một đồng đô la tiết kiệm được tại Walmart là một đồng đô la làm lợi cho
khách hàng. Đôi khi mọi người thắc mắc tại sao Walton lại ở trong một phòng trọ rẻ
tiền khi mà Wal-Mart đã đạt đến doanh thu trên 50 tỉ đôla. Thật đơn giản! Vì Sam
Walton biết cách đánh giá giá trị của đồng đô la. Nhiệm vụ tồn tại để cung cấp giá
trị cho khách hàng của mình. Điều ấy có nghĩa là ngoài chất lượng và dịch vụ,
Walmart còn tiết kiệm tiền cho khách hàng của họ. Mỗi khi Wal-Mart tiêu xài một
đô la hoang phí, nghĩa là tiêu đi số tiền lấy từ túi của khách hàng.
5 Nguồn: ( link: />
Không những thế, Walmart còn đem lại cho khách hàng trải ngiệm mua sắm
tuyệt vời nhất thông qua dịch vụ bán hàng của mình, Sam Walton đã thúc đẩy, cổ
vũ, truyền kinh nghiệm cho nhân viên đem đến niềm vui cho mọi người với một câu
thần chú: “Tôi trân trọng thề và tuyên bố rằng: bất cứ khách hàng nào đứng đối diện
với tôi trong khoảng cách 10 bước chân trở lại, tôi sẽ tươi cười, nhìn thẳng vào mắt
họ, hoan hô họ. Tất cả đều thỏa mãn tối đa và làm hài lòng những khách hàng của
Walmart”.
Giá trị thứ hai: Xem nhân viên là công sự.
Walmart luôn luôn lắng nge mọi đóng góp ý kiến từ nhân viên; tạo cơ hội
trao quyền để họ thể hiện được năng lực bản thân, thúc đẩy sự phát triển nhân viên
và tạo dựng lòng trung thành. Ông dự báo rằng, trong tương lai các công ty thành
đạt sẽ làm theo những gì mà Wal-Mart luôn cố gắng làm: Trao ngày càng nhiều
trách nhiệm có tính quyết định cho những người tiếp xúc với khách hàng thường
xuyên. Chính những người này là những người biết rõ ràng nhất khách hàng đang
muốn gì, cần gì và nên thay đổi theo hướng nào để có thể đáp ứng nhu cầu khách
hàng tuyệt vời nhất. Người quản lý giỏi nhất phải là người tin tưởng họ, biết tập hợp
những ý kiến này lại và ra một quyết định chung, phổ biến cho mọi người thực hiện.
Đầu tiên là việc ông gọi những nhân viện của mình là cộng sự như một sự tôn trọng,
đề cao nhân viên của mình. Sự việc tưởng chừng như rất nhỏ nhặt nhưng lòng tin
của nhân viên với Sam được nhân lên rất nhiều. Hiểu được công ty sẽ không bao
giờ làm việc thực sự hiệu quả khi mà nhân viên không hiểu được mục tiêu, định
hướng, tình hình của công ty. Chính vì cậy mà mọi báo cáo đều được đưa đến tận
tay nhân viên ở cấp thấp nhất, Ban quản lý sẽ giải thích và giao nhiệm vụ rõ ràng để
nhân viên hiểu và hoàn thành tốt vai trò của mình, cùng nhau chia sẻ để tạo thành
một tổ chức gắn kết, vững mạnh. Mặc dù ban đầu, Sam Walton thừa nhận nhân viên
làm việc không được hưởng bất kì phúc lợi nào, nhưng qua thời gian ông đã nhận ra
mình đã sai. Sam Walton sau này đã nói rằng: “Càng chia sẻ nhiều lợi nhuận cho
các cộng sự thì càng nhiều lợi nhuận đổ về công ty”. Tại sao lại như thế? Bởi vì
cách người quản lý đối xử với cộng sự cũng sẽ là cách người cộng sự đối đãi lại
khách hàng của họ. Phải có đầy đủ tiền lương, ưu đãi, tiền thưởng..., những người
cộng sự mới hết lòng phục vụ cho công ty, tất cả vì mục tiêu chung của công ty. Tại
Wal-Mart, lương trả cho nhân viên điều hành luôn ít hơn tiêu chuẩn ngành. Tuy
nhiên, họ lại nhận được những khoản thưởng bằng cổ phần côngty cũng như số tiền
khuyến khích họ làm việc có liên quan đến kết quả hoạt động kinh doanh.
Có lẽ, Walmart là công ty duy nhất trên giới không thành lập Công Đoàn bởi
thông điệp mà Sam Walton đứa ra đó là: “Bất cứ khi nào thực sự gặp khó khăn, hay
xuất hiện khả năng sắp sửa thành lập một côngđoàn, có nghĩa là đội ngũ quản lý của
chúng tôi đã thất bại. Chúng tôi đã khôngbiết cách lắng nghe cộng sự hoặc đã đối
xử không tốt với họ. Tôi chắc chắn rằng: hễ nhân viên đứng lên phát biểu họ muốn
có công đoàn có nghĩa là Ban quản lý đã thực hiện công tác giám sát và cộng tác
với nhân viên quá kém cỏi… Công ty chúng ta không cần đến công đoàn. Nhưng
chúng ta vững mạnh vì sự việc vừa xảy ra. Các bạn là cộng sự của chúngtôi. Chúng
tôi hứa sẽ cởi mở lắng nghe ý kiến”.
b. Mục đích cốt lõi:
Từ những ngày đầu thành lập, Sam Walton đã xác định mục đích cốt lõi cho
công việc kinh doanh của mình là “Cung cấp hàng giá rẻ - Tiết kiệm tiền cho người
tiêu dùng.” Gắn với câu slogan “ We save people money so they can live better”.
Walmart luôn mong muốn đem lại những sản phẩm thiết yếu cho cuộc sống
của con người với mức giá rẻ nhất có thể, phục vụ cuộc sống nhưng cũng giúp họ
tiết kiệm chi phí, góp phần cải thiện cuộc sống, hướng họ đến một cuộc sống tốt đẹp
hơn. Walmart tin rằng họ có thể đem lại cho những người nghèo, những người có
thu nhập trung bình có khả năng mua sắm như những người giàu. “To give ordinary
folk the chance to buy the same things as rich people”
Mục đích này đã thấm sau và dẫn dắt con đường kinh doanh của Walmart, dù
Walmart đang ở trong giai đoạn lịch sử nào, hoạt động ở địa phương quốc gia nào
và được dẫn dắt, thực hiện bởi bất cứ ai. Walmart sẽ luôn luôn được nhắc đến như
một cửa hàng chiết khấu cung cấp sản phẩm với giá rẻ mỗi ngày, tiết kiệm tiền để
có được cuộc sống tốt hơn.
1.2. Hình dung tương lai:
Tính cho đến nay (theo Annual Report 2013), doanh thu của Walmart U.S đã
tăng lên đến 247,5 tỉ USD với hơn 10700 đơn vị bán lẻ thuộc 27 quốc gia trên toàn
thế giới; Walmart International phục vụ hơn 105 triệu khách mỗi tuần trên 26 quốc
gia với doanh thu thuần đạt đến 135,2 tỉ USD và Sam’s Club đạt doanh thu là 56,4 tỉ
USD. Walmart có tầm nhìn xa, biểu lộ một khả năng to lớn để đạt được những mục
tiêu thách thức, táo bạo. Những mục tiêu này đều hướng về tăng trưởng tài chính:
• Vào năm 1945, Sam Walton đã đặt ra mục tiêu là: “Làm cho cửa hàng
nhỏ Newport của tôi trở thành cửa hàng tốt nhất, có lợi nhuận cao nhất
trong khu vực Arkansas trong vòng 5 năm tới.”
• Vào năm 1990, Sam Walton tuyên bố một mục tiêu mới là: “Đạt doanh số
125 tỉ USD vào năm 2000”.
• Vào ngày 25 tháng 11 năm 2013, Doug McMillion – CEO của Walmart,
tuyên bố: “Đến năm 2020, Walmart sẽ trở thành tập đoàn có doanh thu đạt
1000 tỷ đô la.”
“I am optimistic about our future because I know that customers everywhere will
continue to depend on Wal-Mart to save them money so they can live better”- Lee
Scott đã phát biểu trong báo cáo hằng năm Annual Report 2008
Tạm dịch:
“Tôi rất lạc quan về tương lai của Walmart bởi tôi biết răng khách hàng của chúng
tôi ở mọi nơi sẽ tiếp tục phụ thuộc, gắn bó với Walmart để tiết kiệm tiền và có được
một cuộc sống tốt đẹp hơn.” 6
2. Sứ mệnh:
2.1. Tuyên bố sứ mệnh:
6 />
Sứ mệnh của Walmart được Sam Walton tuyên bố lần đầu tiên vào năm
1992.
Tuyên bố sứ mệnh năm 1992:
“If we work together, we’ll lower the cost of living for everyone…we’ll give
the world an opportunity to see what it’s like to save and have a better life.” 7
Tạm dịch:
“ Nếu chúng ta cùng nhau hợp tác làm việc, chúng ta sẽ giảm được chi phí cho mọi
người… chúng ta sẽ đem đến cho thế giới cơ hội thấy được như thế nào để có một
cuộc sống tốt đẹp hơn.”
Văn hóa độc đáo của Wal-mart là thúc đẩy các nhà lãnh đạo luôn đuổi mục
đích của việc tiết kiệm tiền và đem lại cuộc sống tốt hơn cho mọi người, và đó là
nền tảng văn hóa của sự cam kết mang tính toàn vẹn, trung thực của chúng tôi.
2.2. Định hướng khách hàng và định hướng kinh doanh:
Kinh Doanh của chúng ta là gì?
Wal-mart là công ty hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ. Wal-mart đã mở ra hàng
ngàn cửa hàng ở Mỹ và trên thế giới. Thông qua sự cải tiến, chúng tôi đang tạo một
sự trải nghiệm mua sắm của khách hàng bất cứ lúc nào và ở bất cứ nơi nào. Chúng
tôi tạo ra cơ hôi và mang lại giá trị cho khách hàng và cộng đồng trên toàn thế giới 8.
Công ty hoạt động trong lĩnh vực của hàng bán lẻ với nhiều mặt hàng khác
nhau với 3 bộ phận kinh doanh chính: The Wal-Mart U.S, The Wal-Mart
International và The Sam’s Club.
Bộ Phận Wal-Mart U.S hoạt động trên 50 Tiểu Bang của Hoa Kỳ và Puerto
Rico chiếm khoảng 59% trong tổng Doanh Thu với các trung tâm từ 39.000 m 2181.000 m2. Kinh doanh các loại mặt hàng: Cửa hàng tạp hóa, hàng tiêu dùng, vật
dụng giải trí,Y tế và sức khỏe, trang phục, vật dụng gia đình.
Bộ phận Wal-Mart International có hoạt động bán lẻ tại 26 Quốc Gia,
chiếm khoảng 29% trong tổng doanh thu. Hoạt động với 3 loại hình kinh doanh:
Bán lẻ, bán buôn và các loại khác với các trung tâm từ 390 m 2 – 23.000 m2. Bao
gồm các cửa hàng giảm giá, siêu thị, trung tâm lớn, các trang web bán lẻ, nhà hàng,
cửa hàng may mặc
Bộ phận Sam’s Club bao gồm 47 kho hàng thành viên hoạt động ở 47 Tiểu
Bang ở Hoa Kỳ và Puerto Rico vớ các cơ sở giao động 133.000 m 2. Cung cấp các
thiết bị nhập khẩu, hàng hóa tieu dùng và các mặt hàng được các nhãn hiệu tư nhân
lựa chọn. Gồm các loại hàng hóa tiêu dùng, y tế và chăm sóc sức khỏe, nhiên liệu,
giải trí, vật dụng gia đình.9
Hoạt động của chúng ta là gì?
7 Nguồn: />
8 />9 Nguồn: />
Wal-mart không chỉ hoạt động với mục đích lợi nhuận, Wal-mart luôn gắn
liền với sự cung cấp hàng hóa với một mức giá thấp nhằm tiết kiệm chi phí cho mọi
người và làm cho cuộc sống của mọi người trở nên tốt đẹp hơn.
2.3. Cam kết với giới hữu quan:
Nhân viên:
Walmart cam kết tạo sự gắn kết và liên lạc thường xuyên với nhân viên
thông qua các kênh khác nhau bao gồm mywalmart.com, tạp chí hàng tháng dành
cho nhân viên.
Các khảo sát ý kiến của nhân viên để trau dồi và hoàn thiện những kĩ năng
nghề nghiệp cho họ. Đồng thời ghi nhận các đóng góp, ý tưởng và tạo cơ hội trao
quyền bình đẳng để các nhân viên thể hiện năng lực bản thân.
Mỗi năm, căn cứ theo ngày đã được tuyển dụng, mỗi nhân viên đều được
nhận một bảng đánh giá năng lực từ công ty.
Khách hàng:
Walmart không ngừng nâng cao giá trị của khách hàng.
Với phương châm “Bán hàng tốt nhất với mức giá thấp nhất có thể!”.
Walmart mong muốn cắt giảm chi phí cho khách hàng góp phần cải thiện được chất
lượng cuộc sống của họ, giúp họ sống tốt hơn hạnh phúc hơn.
Các cuộc khảo sát sự hài lòng của khách hàng cũng được tiến hành và cập
nhật thường xuyên nhằm phát huy và khắc phục những điểm mạnh và điểm yếu
trong quá trình phục vụ khách hàng của công ty nhằm đem đến cho khách hàng sự
thoải mái hài lòng nhất khi đến Walmart mua sắm.
Xã Hội:
Trong nhiều năm qua, các hiệp hội tại Mỹ và Canada đã gây quỹ tài trợ cho
nhiều trẻ em tại các bệnh viện trên khắp Bắc Mỹ thông qua Children’s Miracle
Network.
Tài trợ cho các nghiên cứu y tế, cung cấp điều trị y tế cho trẻ em địa phương
và cung cấp tiền cho các bệnh viện mua thiết bị mới.
Khởi động và tài trợ cho một chương trình học bổng đặc biệt để gửi trẻ em ở
vùng trung nước Mỹ đến các trường đại học ở Arkansas.
Xây dựng các chươngtrình bảo vệ môi trường, hội cựu chiến binh, phát triển
kinh tế, doanh nghiệp tự do, trườnghọc cônglập, tư thục, học viện, đại học...
Walmart đã thiết lập mục tiêu phát triển bền vững: sử dụng 100% năng lượng
tái tạo, không tạo ra chất thải môi trường và bán sản phẩm thân thiện với con người
và môi trường10.
Nhà cung cấp:
10 Nguồn: />
Wal-mart cam kết xây dựng niềm tin lâu dài và phát triển bền vững với nhà
cung cấp bằng cách hoạt động dựa trên các nguyên tắc công bằng, minh bạch giúp
đỡ nhau cùng phát triển. Cam kết này được thực hiện qua:
• Cam kết phát triển nền nông nghiệp bền vững: hỗ trợ nông dân ở đây trong các
khâu sản xuất nhằm tạo ra những sản phẩm đạt tiêu chuẩn về bảo vệ sức khỏe và
môi trường, tạo nên nguồn thu nhập ổn định cho người nông dân.
• Cam kết 3 bên giữa nhà cung cấp - Walmart - người tiêu dùng với chất lượng và độ
tin cậy của sản phẩm qua chương trình “Đảm bảo sự thoả mãn” - trả lại hàng hóa vô
điều kiện.
Cổ đông:
Walmart cam kết không ngừng làm tăng giá trị cho cổ đông, cung cấp cho
các cổ đông các báo cáo tài chính hàng quý, hàng năm, các cuộc họp cổ đông
thường niên, thư cá nhân định kì và hội nghị giữa các lãnh đạo cấp cao, các nhà đầu
tư và các nhà phân tích cũng như các tổ chức xếp hạng.
2.4. Các giá trị:
Với nền tảng văn hóa độc đáo của Wal-mart và sự cam kết về tính toàn vẹn của
mình. Wal-mart luôn đi đúng với giá trị, niềm tin và hành vi mà Wal-mart đã theo
đuổi suốt 50 năm qua. Đó là nguồn lực hằng ngày giúp Wal-mart đưa ra những
quyết định trung thực, công bằng và khách quan hơn để phù hợp với những gì mình
đã cam kết nhằm mang đến những tiêu chuẩn cao nhất, lòng tin của khách hàng và
cộng đồng địa phương nơi chúng tôi đang hoạt động. Chúng tôi tin rằng, việc chi
phí thấp hằng ngày và giá thấp hằng ngày sẽ được xây dựng trên sự cam kết đó.
• Đạo đức: “Đưa ra những quyết định khách quan. Cư xử với mọi người một
cách công bằng.”
• Trung thực : “Nói sự thật. Giữ lời hứa. Và luôn làm đúng.”
• Khách quan: “ Đưa ra các quyết định kinh doanh dự trên lợi ích của Walmart.”
• Công bằng: “Đối xử với nhau bằng sự tôn trọng. Lắng nghe và đáp ứng với
một sự trung thực.” 11
Kết luận:
Trải qua hơn 51 năm hình thành và phát triển, Walmart không những luôn
duy trì vị trí số một của mình trong ngành công nghiệp bán lẻ, mà còn lưu giữ
những giá trị truyền thống của công ty, đó là:
• Luôn gắn bó với hệ thống bán lẻ
Từ khi thành lập đến nay, Walmart không đầu tư sang các lĩnh vực khác mà chỉ gắn
bó với hệ thống bán lẻ . Sam Walton đã đi từng bước vững chắc, phát triển Walmart
từ một cửa hàng nhỏ bé ban đầu thành một hệ thống siêu thị bán hàng giảm giá.
• Nỗ lực thỏa mãn khách hàng
11 Nguồn: />
Walmart lấy khách hàng là trung tâm. Một trong những chiến lược tốt nhất mà Sam
Walton làm cho Wal-Mart lớn mạnh là làm vừa lòng khách hàng, cho họ cảm thấy
tuyệt vời khi đến mua sắm và cảm nhận cách vận hành của Wal-Mart. Ông ấy tin
tưởng rằng họ sẽ quay trở lại khi thấy thích thú với môi trường làm việc ở WalMart. Sam Walton luôn tạo ra không khí thoải mái mỗi khi có thể. Ông từng nói:
“Chúng tôi đặt khách hàng lên trên hết. Nếu bạn không phục vụ khách hàng hoặc hỗ
trợ cho những ai phục vụ khách hàng, thì bạn không phải là người chúng tôi cần”.
Khách hàng của Wal-Mart cũng được phục vụ vô điều kiện, được giúp đỡ và luôn
nhận được nụ cười thân thiện từ nhân viên. Bên cạnh đó Wal-Mart luôn thực hiện
theo nguyên tắc của Sam Walton đó là “Đáp ứng nhiều hơn những gì bạn hứa”.
Điều này nghĩa là đáp ứng trên cả mong đợi của khách hàng, đem lại những gì họ
muốn và còn hơn thế nữa. Nếu có lỗi lầm, hãy xin lỗi và chịu trách nhiệm với
những điều đã làm. Được như vậy, họ sẽ mãi là khách hàng của bạn.
• Tích cực trong văn hóa đối xử với nhân viên
Wal-mart đề cao tầm quan trọng của nhân viên đối với công ty. Người sáng lập Walmart, Sam Walton, cho rằng: “Không nên phân biệt quan hệ chủ tớ, mà ngược lại,
coi tất cả mọi người như là cộng sự của mình. Như vậy, họ cũng sẽ coi bạn là cộng
sự của họ. Chia sẻ niềm vui và động viên họ vượt qua thất bại. Công ty của bạn sẽ
trở thành một khối gắn kết chặt chẽ.” Quan điểm trên đã được tích cực hiện thực
hóa trong suốt quá trình hoạt động của tập đoàn Wal-mart. Wal-mart xây dựng các
chính sách để thúc đẩy động cơ làm việc của nhân viên. Nhân viên của Walmart
được lắng nghe, chia sẻ, đóng góp ý kiến và được khen thưởng, khuyến khích khi
đạt được thành tích và hưởng quyền lợi một cách công bằng.
Các khả năng đặc biệt:
• Xây dựng và quản lí hệ thống logistics hiệu quả.12
Wal-mart đã xây dựng một hệ thống logistics quy mô lớn. Trung tâm phân phối
cao tự động của Wal-mart, hoạt động 24 giờ một ngày và được phục vụ bởi đội xe
của Wal-mart, là nền tảng của chiến lược phát triển và mạng lưới cung cấp. Hoạt
động phân phối hàng hóa được phục vụ bởi hạm đội của 6.500 xe tải chuyên dụng
và hơn 50.000 trailer (biên tập viên SC Digest, 2011). Hàng hóa của Wal-Mart được
vận chuyển trực tiếp từ kho của nhà sản xuất, do đó loại trừ trung gian và tăng đáp
ứng. Xe tải không phải đi xa đến các cửa hàng bán lẻ để thực hiện giao hàng,
khoảng cách ngắn hơn giảm chi phí vận chuyển và thời gian, và thời gian ngắn hơn
có nghĩa là tổ chức an toàn hàng tồn kho ít hơn. Nếu tình trạng thiếu thực xảy ra, bổ
sung có thể được thực hiện nhanh chóng hơn vì các cửa hàng nhận giao hàng hàng
ngày từ trung tâm phân phối. Hoạt động vận tải an toàn, chính xác này đã giúp cho
hàng hóa đến đúng nơi và đúng thời điểm cần thiết, giúp giảm chi phí hàng tồn kho
và đẩy nhanh tốc độ cung ứng. 13
• Khả năng thương lượng với nhà cung cấp
12 Nguồn: />13 />
Walmart có khả năng xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các nhà cung ứng
nhằm mang đến lợi thế vượt trội cho mình. Wal-Mart đặt áp lực giá cả với các nhà
cung cấp, và khuyến khích họ tăng cường sản xuất sản phẩm. Bên cạnh đó Walmart
chia sẻ dữ liệu bán hàng với các nhà sản xuất và tập trung làm việc với nhà cung
cấp để có thể hiểu được cấu trúc chi phí của họ từ đó đề xuất những điều chỉnh
trong quá trình sản xuất, cắt giảm chi phí trên chuỗi cung ứng của mình. Walmart
chỉ mua hàng trực tiếp từ nhà sản xuất, không chấp nhận trung gian.
• Không ngừng thay đổi để phát triển
Trong môi trường bán lẻ cạnh tranh khốc liệt, để không bị tụt lại phía sau, Walmart luôn thay đổi và thích ứng để duy trì năng lực cạnh tranh của mình. Khả năng
thích ứng nhanh của Wal-mart không đơn thuần chỉ là kết quả của tầm nhìn xa và
việc lập kế hoạch về chiến lược. Đây là kết quả của một quá trình căn bản: thực
hiện nhiều thử nghiệm, nắm bắt cơ hội, giữ lại những thử nghiệm thành công. Sam
Walton luôn cổ vũ những ý tưởng mới, nếu ông cảm thấy chắc chắn thì ông sẽ quyết
định thực hiện ý tưởng đó mặc dù đã có các kế hoạch đã lên sẵn trước đó. Như vậy,
khả năng thay đổi linh hoạt, dám thử và dám sửa khi sai đã giúp Walmart chuyển
bại thành thắng, chiếm lĩnh được những thị trường khó tính và giữ vững được vị trí
số một của mình trên thị trường bán lẻ.