Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Phản ứng của ngân hàng nhà nước khi tỷ giá hối đoái thay đổi mô hình DSGE bằng chứng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỚI HUYỀN NGÂN

PHẢN ỨNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC KHI
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THAY ĐỔI
MÔ HÌNH DSGE – BẰNG CHỨNG TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỚI HUYỀN NGÂN

PHẢN ỨNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC KHI
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI THAY ĐỔI
MÔ HÌNH DSGE – BẰNG CHỨNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành

: Tài chính – Ngân hàng

Mã số

: 60340201


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ VIỆT QUẢNG

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Thới Huyền Ngân, tác giả của luận văn thạc sĩ “Phản
ứng của Ngân Hàng Nhà Nước khi tỷ giá hối đoái thay đổi. Mô hình DSGE –
Bằng chứng tại Việt Nam”.
Tôi xin cam đoan: nội dung của luận văn là kết quả nghiên cứu của cá
nhân dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Việt Quảng. Tất cả các số liệu
là trung thực và được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy, kết quả nghiên cứu
được lấy từ phần mềm kinh tế lượng, tài liệu tham khảo được sử dụng trong
luận văn này đều có trích dẫn rõ ràng.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2015

Người cam đoan

Nguyễn Thới Huyền Ngân


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục hình và đồ thị
Tóm tắt ....................................................................................................... 1
1. Giới thiệu ................................................................................................... 1
1.1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................. 2
1.3. Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................. 2
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 2
1.5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 2
2. Tóm lược các nghiên cứu trước đây........................................................ 3
2.1. Tóm lược các lập luận trong khuôn khổ Keynesian Mới ..................... 3
2.2. Tóm lược các nghiên cứu về phản ứng của các Ngân Hàng trên thế
giới khi tỷ giá hối đoái thay đổi thiết lập trong mô hình nền kinh tế
mở ......................................................................................................... 6
2.3. Tóm lược các nghiên cứu về phản ứng của các Ngân Hàng trên thế
giới khi tỷ giá hối đoái thay đổi ứng dụng mô hình DSGE ................ 13
3. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 18
3.1. Giới thiệu mô hình DSGE .................................................................. 18
3.2. Các trường phái trong mô hình DSGE .............................................. 19
3.3. Ưu điểm của mô hình DSGE .............................................................. 20
3.4. Nhược điểm của mô hình DSGE ........................................................ 22
3.5. Giới thiệu mô hình nền tảng .............................................................. 23
3.6. Mô hình cụ thể hóa............................................................................. 29
3.7. Phương pháp ước lượng Bayesian ..................................................... 32



3.8. Phân phối tiền nghiệm ....................................................................... 33
3.9. Các bước chạy mô hình...................................................................... 34
3.10. Mô tả dữ liệu ...................................................................................... 36
4. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm .......................................................... 41
5. Kết luận .................................................................................................... 51
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AR

: Auto Regressive (Tự hồi quy)

CPI

: Consumer Price Index (Chỉ số giá tiêu dùng)

DSGE

: Dynamic Stochastic General Equilibrium
(Cân bằng tổng thể động ngẫu nhiên)

ĐLC

: Độ lệch chuẩn

ECB

: Ngân hàng Trung Ương Châu Âu


FED

: Federal Reserve System (Cục Dự trữ Liên bang Mỹ)

GDP

: Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)

GMM

: Generalized Method of Moments.

IMF

: International Monetary Fund (Quỹ tiền tệ quốc tế)

IRF

: Impulse Response Function (Hàm phản ứng đẩy)

NEER

: Nominal Effective Exchange Rate
(Tỷ giá hối đoái hiệu lực danh nghĩa)

NHNN : Ngân Hàng Nhà Nước
NHTM

Ngân Hàng Thương Mại


PPP

: Purchasing Power Parity (Ngang giá sức mua)

RBC

: Real Business Cycle (Chu kỳ kinh doanh thực)

SOE

: Small Open Economy (Nền kinh tế nhỏ, mở)

SVAR

: Structural Vector Auto-Regression
(Vectơ tự hồi quy cấu trúc)

VAR

: Vector Auto-Regression (Vectơ tự hồi quy)

VECM : Vector Error Correction Model
(Mô hình vectơ hiệu chỉnh sai số)


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Tóm tắt các nghiên cứu về phản ứng của các NHTW lên tỷ giá hối
đoái .................................................................................................. 15
Bảng 3.1 So sánh các mô hình ước lượng ..................................................... 20

Bảng 3.2 Phân bổ giá trị cho các thông số trong mô hình nghiên cứu ........ 35
Bảng 4.1 Kết quả ước lượng hậu nghiệm với giả thuyết H0 ....................... 41
Bảng 4.2 Kết quả ước lượng hậu nghiệm với giả thuyết H1 ....................... 42
Bảng 4.3 Bảng Harold Jeffreys ................................................................... 44


DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
Hình 3.1 GDP thực bình quân đầu người từ tháng 01/2000 – 12/2014 ...... 37
Hình 3.2 Chỉ số giá tiêu dùng từ tháng 01/2000 – 12/2014 ........................ 38
Hình 3.3 Diễn biến của lạm phát theo CPI từ tháng 01/2000 – 12/2014 .... 38
Hình 3.4 Diễn biến của lãi suất tái cấp vốn từ tháng 01/2000 – 12/2014 ... 39
Hình 3.5 Tỷ giá hiệu lực danh nghĩa từ 01/2000 – 12/2014........................ 40
Hình 4.1 Tác động của cú sốc ngoại sinh hàm chính sách tiền tệ với giả
thuyết H0 ...................................................................................... 45
Hình 4.2 Tác động của cú sốc ngoại sinh hàm chính sách tiền tệ với giả
thuyết H1 ...................................................................................... 46
Hình 4.3 Tác động của cú sốc ngoại sinh trong cải tiến điều khoản thương
mại với giả thuyết H0 ................................................................... 47
Hình 4.4 Tác động của cú sốc ngoại sinh trong cải tiến điều khoản thương
mại với giả thuyết H1 ................................................................... 48
Hình 4.5 Tác động của cú sốc ngoại sinh sản lượng thế giới với giả thuyết
H0 ................................................................................................. 49
Hình 4.6 Tác động của cú sốc ngoại sinh sản lượng thế giới với giả thuyết
H1 ................................................................................................. 50


1

Phản ứng của Ngân Hàng Nhà Nước khi tỷ giá hối đoái thay đổi
Mô hình DSGE – Bằng chứng tại Việt Nam

Tóm tắt
Luận văn này được thực hiện nhằm xem xét phản ứng của Ngân Hàng Nhà
Nước (NHNN) Việt Nam khi tỷ giá hối đoái thay đổi, sử dụng mô hình DSGE – áp
dụng tại Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 01/2000 – 12/2014. Dựa trên nền tảng
nghiên cứu của nhóm tác giả Lubik Thomas và Schorfheide Frank (2007). Kết quả
ước lượng đưa ra bằng chứng rằng: Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam có phản ứng
khi tỷ giá thay đổi hay NHNN đã sử dụng chính sách tiền tệ để can thiệp vào tỷ giá
hối đoái.
Từ khóa: chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đoái, DSGE, New Keynesian.
1.

Giới thiệu
1.1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, mức độ giao thương của nhiều nước trên thế giới ngày càng sâu

rộng. Do đó, vấn đề về chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái ngày càng được quan
tâm, nghiên cứu nhiều hơn. Trên thực tế, các nhà kinh tế học đã tạo lập nhiều công
cụ cũng như mô hình kinh tế lượng để các nhà điều hành chính sách tham chiếu,
ứng dụng nhằm thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả, điều tiết tỷ giá, ổn định mức
giá, giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế bền vững. Song, không phải Quốc
gia nào cũng đạt được hiệu quả mong muốn, bởi các yếu tố kinh tế vĩ mô biến động
khá phức tạp. Theo Frederic S. Mishkin (2001) cho rằng, các Ngân Hàng Trung
Ương (NHTW) nên quan tâm đến biến động tỷ giá vì lý do liên quan đến lạm phát,
cán cân thanh toán và khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, New Zealand đã rơi vào
suy thoái khi chính sách tiền tệ tập trung quá nhiều vào kiểm soát biến động tỷ giá
hối đoái ảnh hưởng đến lạm phát. Ngược lại với New Zealand, chính sách tiền tệ
của Ngân hàng Dự trữ Australia lại không can thiệp vào tỷ giá và đã kiềm chế được
lạm phát. Từ đó, nghiên cứu tiến hành điểm qua các ước lượng về chính sách tiền tệ
và tỷ giá hối đoái tại Việt Nam, nhìn chung các nghiên cứu này xem xét tác động
của kênh truyền dẫn tỷ giá và chính sách tiền tệ thông qua các mô hình VECM,



2

VAR, SVAR… và rất ít nghiên cứu sử dụng mô hình Dynamic Stochastic General
Equilibrium (DSGE). Vì thế, bài nghiên cứu này áp dụng mô hình DSGE, nhằm
góp phần tiên phong trong việc phân tích chính sách tiền tệ đã được nhiều NHTW
trên thế giới sử dụng; để lý giải: liệu Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam có sử dụng
chính sách tiền tệ để can thiệp vào tỷ giá hối đoái hay không? Bài nghiên cứu đi
vào tìm hiểu và giải quyết câu hỏi trên dựa vào mô hình ước lượng đưa ra.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của bài nghiên cứu là đưa ra kiểm định thực nghiệm vấn đề về
phản ứng của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam có sử dụng chính sách tiền tệ để can
thiệp vào tỷ giá hối đoái hay không, trong giai đoạn 2000 - 2014. Với phương pháp
tiếp cận đầy hứa hẹn đã được Lukib và Schorfheide (2007) sử dụng để xem xét khía
cạnh này.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Bài nghiên cứu thực hiện nhằm trả lời cho câu hỏi:
Liệu Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam có sử dụng chính sách tiền tệ để can
thiệp vào tỷ giá hối đoái hay không?
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là bộ dữ liệu của Việt Nam cho các biến:
tăng trưởng sản lượng (DY), lạm phát (PI), lãi suất (R), biến động trong tỷ giá hối
đoái (DE), sự thay đổi của điều khoản thương mại (DQ). Sử dụng dữ liệu từ tháng
01/2000 đến tháng 12/2014, được thu thập và tổng hợp từ các nguồn: GSO, IMF,
World Bank.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Sau khi tập hợp và xử lý dữ liệu chuỗi thời gian, nghiên cứu tiến hành xây
dựng khía cạnh quan trọng của mô hình chính sách tiền tệ tại Việt Nam, được dựa
trên cơ sở tiếp cận Bayesian (bao gồm phương trình: đường IS, đường cong Phillips

và lãi suất). Từ phân phối tiền nghiệm đã thiết lập, nghiên cứu xác định phân phối
hậu nghiệm Odds nhằm kiểm định quy tắc chính sách tiền tệ đưa ra và trả lời câu
hỏi: liệu Ngân hàng Nhà Nước có hay không sử dụng chính sách tiền tệ để can


3

thiệp vào tỷ giá hối đoái?. Sau đó, sử dụng hàm phản ứng đẩy giúp minh chứng rõ
nét hơn phản ứng của các biến trước các cú sốc. Quá trình thực hiện thông qua công
cụ DSGE trên phần mềm Matlab.
Phần còn lại của nghiên cứu được trình bày như sau:
Phần 2: trình bày tóm lược các nghiên cứu trước đây.
Phần 3: giới thiệu phương pháp nghiên cứu và mô tả dữ liệu.
Phần 4: báo cáo kết quả thực nghiệm.
Phần 5: đưa ra kết luận nghiên cứu.
2.

Tóm lược các nghiên cứu trước đây
Để hiểu về phản ứng của chính sách tiền tệ đối với tỷ giá hối đoái trong nền

kinh tế mở, nhỏ chương này sẽ tóm lược khung lý thuyết có liên quan đến mô hình
Keynesian Mới, các kết quả thực nghiệm trong nền kinh tế mở và cuối cùng là các
kết quả của việc vận dụng mô hình DSGE trong các nghiên cứu trước.
2.1. Tóm lược các lập luận trong khuôn khổ Keynesian Mới1
Việc tìm hiểu và đưa ra những nguyên nhân giải thích cho sự dao động trong
sản lượng và thất nghiệp như một sứ mệnh của các nhà phân tích kinh tế vĩ mô,
điều này bắt đầu rõ nét hơn từ những năm 1930. Khi nền kinh tế rơi vào đại suy
thoái (1929 – 1933) tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ lên đến 25% năm 1933 so với 3% trong
năm 1929. Lúc này, chứng kiến và nghiền ngẫm những sai lệch trong lý thuyết Cổ
Điển, năm 1936, Keynes đã xuất bản tác phẩm “Lý thuyết tổng quát” (Gerneral

Theory) mở đường cho trường phái mới – trường phái Keynes. Keynes đưa ra
những lập luận khiến các nhà kinh tế học phải xem xét lại lý thuyết Cổ Điển và mở
màn cho sự bùng nổ những cuộc tranh luận, hình thành nên những trường phái khác
nhau sau này để đưa ra những bằng chứng thực nghiệm tối ưu nhằm lý giải những
biến động trong nền kinh tế2.

: Trích lọc từ Phạm Chung và Trần Văn Hùng (2011): Kinh tế vĩ mô phân tích và Nguyễn Hoài
Bảo (2005): Sự tranh luận giữa các trường phái trong lý thuyết kinh tế vĩ mô.
2
: Tranh luận của Milton Friedman - đại diện cho trường phái trọng tiền và Robert Lucas – người
được coi là nhà lãnh đạo cho trường phái Tân Cổ Điển.
1


4

Đặc biệt, những năm gần đây, khuôn khổ Keynesian Mới đã trở thành khuôn
khổ chi phối trong phân tích chính sách tiền tệ. Được mài giũa từ lý thuyết
Keynesian truyền thống, trường phái Keynes Mới nổi lên từ cuối thập niên 70, đại
diện nổi bật là Olivier Blanchard, Gregory Mankiw, John Taylor... Những nhà kinh
tế trong trường phái Keynes Mới thường phân tích các mô hình nhỏ, trong tình
huống thị trường thất bại cụ thể để đi sâu những vấn đề mà họ quan tâm chứ không
tiếp cận bằng các mô hình đầy đủ, chứa đựng nhiều lý thuyết phức tạp. Linh hồn
trong các lý thuyết của trường phái Keynes Mới là phân tích trên nền tảng kinh tế vi
mô. Theo lý thuyết Keynesian Mới, hành động hợp lý của chủ thể kinh tế trên góc
độ vi mô có thể ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế vĩ mô: kinh tế suy thoái, thất
nghiệp… Để lý giải khuynh hướng nghiên cứu của mình, những người theo trường
phái Keynesian Mới đưa ra ba vấn đề điển hình: mô hình Fischer, lý thuyết chi phí
thực đơn, lý thuyết tiền lương hiệu quả.
Theo Sargent và Wallace (1975) và nhiều nhà kinh tế Tân Cổ Điển cho rằng

chính sách tiền tệ được dự đoán không có tác dụng đối với sản lượng, đây cũng
chính là mệnh đề PIP. Tuy nhiên, mô hình Fischer (1977) dựa trên giả thuyết dự
đoán hợp lý và tiền lương danh nghĩa được ấn định bởi khế ước dài hạn, cho thấy,
chính sách tiền tệ hệ thống có thể tác dụng đối với sản lượng. Fischer giả sử thị
trường lao động cân bằng trong kỳ t-1. Đến đầu kỳ t, tiền lương được thương lượng
cho cả kỳ t. Việc thương lượng và ra quyết định của các tác nhân kinh tế không
phải cùng một lúc và đều giống nhau nên không thể tác động như là một hợp lực
cùng chiều đến chu kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, giả sử khế ước tiền lương kéo dài
hai kỳ và công nhân chia làm hai nhóm bằng nhau: một nhóm có khế ước thương
lượng vào đầu kỳ t và một nhóm có khế ước thương lượng vào đầu kỳ t-1. Fischer
lý giải, vào đầu kỳ t, nhóm công nhân có khế ước thương lượng vào đầu kỳ t-1 có
thông tin về cung tiền thực (mt) nhưng không thể khai thác thông tin này vì khế ước
còn hiệu lực thêm một kỳ. Vì vậy, chính sách tiền tệ có thể dùng để bù trừ sự tác
động về phía cầu hay cung đã xảy ra trong kỳ t-1 để ổn định sản lượng trong kỳ t.
Do đó, với khế ước có hiệu lực trong hai kỳ thì chính sách tiền tệ hệ thống có tác
dụng đối với sản lượng.


5

Một lập luận tiếp theo ủng hộ quan điểm Keynesian về sự cứng nhắc danh
nghĩa trong cơ chế truyền dẫn của cú sốc tiền tệ là chi phí thực đơn. Theo các nhà
kinh tế Keynesian Mới thì không những tiền lương danh nghĩa có tính cứng nhắc
mà giá sản phẩm cũng vậy. Bởi vì việc điều chỉnh giá còn tuỳ thuộc vào chi phí cơ
hội. Nguyên nhân dẫn đến tính cứng nhắc trong mức giá là chi phí để điều chỉnh
giá (hay chi phí thực đơn) của xí nghiệp cạnh tranh độc quyền. Khi chi phí cơ hội
không điều chỉnh giá nhỏ hơn chi phí điều chỉnh giá thì không có động cơ để các xí
nghiệp điều chỉnh và ngược lại. Theo mô hình chi phí thực đơn, chi phí điều chỉnh
giá tuy nhỏ nhưng có thể gây ra tác động lớn nếu trong nền kinh tế có đa số các
doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền. Bởi vì, khi cung tiền giảm làm giảm tổng cầu

danh nghĩa, đáng lý ra mức giá cũng phải được điều chỉnh nhưng vì chi phí điều
chỉnh có thể cao hơn chi phí cơ hội của việc điều chỉnh thì doanh nghiệp sẽ giảm
sản lượng để có thể tối đa hoá lợi nhuận. Nếu như các doanh nghiệp đều hành xử
như vậy thì sẽ làm tổng sản lượng giảm và dẫn đến nhân dụng cũng giảm theo.
Tiếp theo là lý thuyết tiền lương hiệu quả, góp phần quan trọng trong dòng
chảy Keynesian Mới. Lý thuyết tiền lương hiệu quả nhằm giải thích sự cứng nhắc
của tiền lương thực và thất nghiệp không tự nguyện. Bởi vì các xí nghiệp sẽ không
thay đổi tiền lương ngay khi cả cầu lao động giảm, xí nghiệp sẽ chọn biện pháp cắt
giảm công nhân hơn là giảm tiền lương. Sở dĩ điều này xảy ra là vì giả sử cầu sản
phẩm giảm thì xí nghiệp giảm nhân dụng nhưng vẫn giữ nguyên tiền lương thì chi
phí tiền lương trên mỗi đơn vị hiệu lực của lao động sẽ tăng và chi phí tiền lương
của mỗi đơn vị sản phẩm tăng. Như vậy, lý thuyết tiền lương hiệu quả có thể giải
thích dao động lớn của nhân dụng qua chu kỳ kinh doanh và tiền lương thực không
thay đổi. Đặc biệt, lý thuyết đưa ra vấn đề then chốt chính là tương quan dương
giữa hiệu quả sản xuất của công nhân và tiền lương thực. Khi tăng tiền lương thực
sẽ làm tăng dinh dưỡng và sức khỏe của lao động, lực lượng lao động khỏe mạnh sẽ
có năng suất cao hơn (Leibenstein (1957)). Tuy nhiên lý thuyết này cũng gặp phải
những chỉ trích. Cho dù tiền lương thực có thể là cứng nhắc nhưng điều đó vẫn
không lý giải được những tình huống đặc biệt. Chẳng hạn, khi cung tiền giảm
nhưng cùng lúc đó tỷ lệ giảm của giá cũng bằng với tỷ lệ giảm của tiền lương danh


6

nghĩa (nghĩa là vẫn đảm bảo tiền lương thực không đổi) thì vẫn không giảm sản
lượng và nhân dụng. Do vậy, lý thuyết tiền lương hiệu quả thường kết hợp với một
số lý thuyết khác như chi phí thực đơn và khế ước dài hạn để lý giải cho từng
trường hợp cụ thể.
Tóm lại, các nhà kinh tế trong lý thuyết Keynes Mới thường lý giải các hành
vi vi mô để minh chứng cho sự cứng nhắc của tiền lương và mức giá. Tất cả đều

dựa trên điều kiện tối đa hoá lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế: xí nghiệp,
công nhân và người tiêu dùng.
2.2. Tóm lược các nghiên cứu về phản ứng của các Ngân Hàng trên thế
giới khi tỷ giá hối đoái thay đổi thiết lập trong mô hình nền kinh tế mở
Trải qua các cuộc biến động trong nền kinh tế, các nhà kinh tế học càng khao
khát tìm hiểu và đưa ra những quy tắc chính sách mang tính khoa học và thực tiễn
cao. Trong đó có thể kể đến John Brian Taylor - nhà kinh tế học nổi tiếng người
Mỹ, đưa ra quy tắc mang tên mình - Quy tắc Taylor, lần đầu tiên công bố vào năm
1993. Theo đó, NHTW nên điều hành lãi suất danh nghĩa như thế nào để có thể đáp
ứng với thay đổi của lạm phát, sản lượng cũng như các điều kiện kinh tế khác. Quy
tắc Taylor khuyến nghị một mức lãi suất tương đối cao để giảm áp lực lạm phát
trong trường hợp lạm phát cao hơn mức mục tiêu hoặc sản lượng vượt trên mức sản
lượng tiềm năng. Trong trường hợp ngược lại, quy tắc đưa ra một mức lãi suất
tương đối thấp để thúc đẩy tăng trưởng. Mishkin (2004) cho rằng lãi suất được điều
hành theo quy tắc Taylor đã phản ánh tương đối chính sách tiền tệ của FED trong
khoảng bốn thập kỷ qua.
Sau đó, Taylor (2001) đã mở rộng nghiên cứu bằng cách thêm vào biến tỷ giá
hối đoái. Ông đã tổng hợp và tóm tắt các nghiên cứu trước đây của Ball (1999),
Lars Svensson (2000) và Taylor (1999b) về vai trò của tỷ giá hối đoái trong quy tắc
chính sách theo công thức:
it = fπt + gyt + h0et + h1et-1
Trong đó: it là lãi suất danh nghĩa ngắn hạn được đưa ra bởi NHTW, πt là tỷ lệ
lạm phát, yt là chênh lệch của GDP thực và GDP tiềm năng, et là tỷ giá hối đoái


7

thực (et tăng có nghĩa là sự tăng giá trị đồng nội tệ). Khi áp đặt dấu cho các thông
số: f > 1, g > 0, và h0 = h1 = 0, lúc này quy tắc chính sách ước lượng trở thành quy
tắc mà Taylor đề xuất năm 1993 hay không phản ứng với tỷ giá hối đoái. Một câu

hỏi quan trọng về vai trò của tỷ giá trong quy tắc chính sách được đưa ra là liệu
rằng các thông số h có nên bằng không và nếu như vậy thì giá trị và dấu của chúng
như thế nào.
Theo Obstfeld và Rogoff (1995) lý giải rằng nên cho h0 < 0 và h1 = 0. Một tỷ
giá cao hơn so với mức độ chuẩn sẽ dẫn đến NHTW giảm lãi suất ngắn hạn, thông
qua chính sách tiền tệ nới lỏng. Một giải thích khác cũng đưa ra bởi Obstfeld và
Rogoff là h0 < 1 và h1 = - h0, khi đó, lãi suất phản ứng trước sự thay đổi trong tỷ giá
hối đoái; điều này có thể là một giải thích tốt hơn trong lập luận rằng sự gia tăng
của tỷ giá hối đoái sẽ dẫn đến nới lỏng tiền tệ, thế nhưng điều này lại không có mô
hình cấu trúc để mô phỏng quy tắc một cách ngẫu nhiên và thật sự khó khăn để tìm
ra lời giải thích nào tốt hơn.
Ball (1999) đưa ra h0 = - 0.37 và h1 = 0.17, đây là các giá trị thông số chính
sách tối ưu sử dụng trong mô hình nền kinh tế mở đơn giản với điều kiện giá cả
cứng nhắc “sticky prices”. Kết quả đưa ra hàm ý, một sự tăng tỷ giá 10% làm cắt
giảm lãi suất 3.7%, kéo theo sự bù đắp 1.7%, hay phản ứng dài hạn của lãi suất sẽ
giảm 2%. Ngoài ra, khi tỷ giá tăng có hiệu ứng ngược lại đối với tổng cầu; hàng
hóa nước ngoài rẻ hơn hàng hóa trong nước, dẫn đến xuất khẩu ròng giảm. Chính vì
vậy, việc cắt giảm lãi suất làm giảm bớt hiệu ứng ngược lại này. Sử dụng một mô
hình khác với các tác nhân hướng tới tương lai (forward-looking agent) và một số
nền tảng vi mô, kết quả tương tự như Ball (1999), Svensson (2000) đã tìm ra h0 = 0.45 và h1 = 0.45.
Ngoài ra, Taylor (1999b) đề xuất h0 = - 0.25 và h1 = 0.15 cho quy tắc chính
sách tiền tệ của NHTW Châu Âu (ECB). Bài nghiên cứu này đã cố gắng giải thích
cho kết quả tìm ra bằng cách khẳng định hiệu ứng gián tiếp của tỷ giá hối đoái lên
lãi suất. Hiệu ứng gián tiếp này tồn tại thậm chí nếu NHTW thực thi quy tắc chính
sách mà không có hiệu ứng tỷ giá hối đoái trực tiếp. Khi tính ì kết hợp với các kỳ


8

vọng hợp lý dẫn đến hiệu ứng gián tiếp. Hiệu ứng gián tiếp có ưu điểm khi so sánh

với hiệu ứng trực tiếp ở đặc điểm là biến động lãi suất ít hơn và ổn định hơn
(Taylor 2001).
Nghiên cứu liên quan đến nền kinh tế mở, nhỏ có thể được xem là bắt nguồn
từ Obstfeld và Rogoff (1995), sử dụng mô hình cân bằng tổng thể dưới giả định thị
trường cạnh tranh không hoàn hảo và giá cứng nhắc danh nghĩa đã trở thành một
làn sóng cho các nghiên cứu sau này. Nghiên cứu của Obstfeld và Rogoff (1995)
dựa trên nền tảng vi mô và mô hình tối ưu hóa cơ bản nhằm phân tích chính sách
tiền tệ trong nền kinh tế. Từ đó, nghiên cứu cung cấp những dự đoán đơn giản và
trực quan về tỷ giá hối đoái, tài khoản vãng lai và đặc biệt, nhấn mạnh vai trò của
các điều khoản thương mại trong việc truyền dẫn của chu kỳ kinh doanh.
Richard Clarida, Jordi Galí và Mark Gertler (2001) xem xét mô hình nền kinh
tế mở, nhỏ trong điều kiện cạnh tranh không hoàn hảo và giá cả cứng nhắc, tương
tự như Lars Svensson (2000), Maurice Obstfeld và Kenneth Rogoff (2000), Gali và
Monacelli (2000)... Một trong những khác biệt quan trọng là ngoài giá cả cứng
nhắc danh nghĩa trong việc thiết lập mô hình, nghiên cứu cho phép áp đặt hạn chế
trong thị trường lao động để có thể giới thiệu sự đánh đổi trong ngắn hạn giữa lạm
phát và sản lượng. Ngoài ra, chỉ có hàng hóa tiêu dùng được sản xuất và trao đổi.
Hộ gia đình tiêu thụ hàng hóa nội địa và nước ngoài mà không có sự thay thế hoàn
hảo. Đối với hàng hóa nội địa thì có nhiều loại khác nhau, được sản xuất bởi các
nhà độc quyền trong nước. Nền kinh tế gia đình có quy mô nhỏ và không ảnh
hưởng lên sản lượng, giá cả, lãi suất nước ngoài; tuy nhiên điều kiện thương mại sẽ
phụ thuộc vào cả yếu tố trong nước và nước ngoài. Việc mở cửa nền kinh tế làm
phức tạp thêm vấn đề về quản lý chính sách tiền tệ của NHTW, chẳng hạn, phải
quan tâm đến mức độ tác động của tỷ giá hối đoái và lạm phát, hay làm thế nào để
đưa tỷ giá thành một phần trong việc thiết kế tổng thể của chính sách tiền tệ tương
ứng trở thành mối quan tâm chung. Ở đây, nghiên cứu chỉ ra rằng dưới những điều
kiện cụ thể, vấn đề về thiết kế chính sách tiền tệ cho nền kinh tế mở, nhỏ là “đẳng
cấu” (isomorphic) với nền kinh tế đóng mà nhóm tác giả đã xem xét trước đó (năm
1999). Độ mở cửa thương mại ảnh hưởng lên hệ số của mô hình định lượng dẫn



9

đến các lý giải khác nhau. Ngoài ra, độ mở cũng đặt ra vấn đề về đặc điểm khác
biệt giữa lạm phát trong nước và CPI. Do đó, cần có một mức lãi suất hoàn hảo để
NHTW có thể đặt ra mức lạm phát mục tiêu và giải quyết các vấn đề xoay quanh tỷ
giá thả nổi.
Dib, Ali (2003) phát triển và ước lượng mô hình tối ưu hóa động trong nền
kinh tế mở, nhỏ (SOE) với giá cả hàng hóa trong nước và nhập khẩu cứng nhắc, chi
phí vốn điều chỉnh. Quy tắc chính sách tiền tệ cho phép các NHTW quản lý có hệ
thống bằng lãi suất danh nghĩa ngắn hạn để đáp ứng với độ lệch của lạm phát, sản
lượng... Sử dụng dữ liệu Canada và Hoa Kỳ và tiến hành maximum-likelihood với
bộ lọc Kalman. Kết quả mô phỏng cho thấy rằng, những tác động của các cú sốc
chính sách tiền tệ trong một nền kinh tế mở, nhỏ là rất giống với những với một nền
kinh tế đóng. Như vậy, kết quả chính này hỗ trợ vấn đề tranh luận của Clarida, Galí
và Gertler (2001) rằng chính sách tối ưu cho một nền kinh tế mở, nhỏ là bản sao
của một nền kinh tế đóng. Vì vậy, mặc dù Canada là một nền kinh tế mở nhỏ, sử
dụng khuôn khổ trong nền kinh tế đóng là rất hữu ích để ước lượng như một mô
hình cân bằng tổng thể để giải quyết những vấn đề không đòi hỏi trong nền kinh tế
mở. Kết quả phân rã phương sai cho thấy tầm quan trọng của những cú sốc cầu
trong nước bị giảm đi khi đưa vào mô hình các cú sốc ngoại. Ngoài ra, tác động
“expenditure-switching” do thay đổi tỷ giá hối đoái thực và điều khoản thương mại,
dẫn đến một tác động nhỏ về tiêu dùng và sản lượng. Để tỷ giá hối đoái thực biến
động mạnh và liên tục, giống như những quan sát trong các dữ liệu, giá nhập khẩu
vẫn phải không thay đổi ít nhất khoảng 3,5 năm. Trong tương lai, tác giả đề nghị
mở rộng mô hình SOE bao gồm tiền lương cứng nhắc, tách biệt giá cả trên thị
trường trong và ngoài nước, mức độ khác nhau của giá cứng nhắc trong nước và
nhập khẩu. Đồng thời cũng sẽ mở rộng mô hình SOE để có những cú sốc trong
nước và ngoài nước nhiều hơn để ước lượng mô hình.
Bergin, Paul (2003) nghiên cứu phỏng theo phương pháp maximum likelihood

để ước lượng và khảo sát nền kinh tế mở, nhỏ liên thời gian với những cú sốc tiền
tệ trong giả thiết giá cả và tiền lương cứng nhắc. Các mô hình ước lượng cũng chỉ


10

ra vai trò nổi bật của những cú sốc chính sách tiền tệ trong truyền dẫn biến động
của tỷ giá hối đoái thực và danh nghĩa.
Esanov và cộng sự (2005) tiến hành thiết lập công cụ chính sách tiền tệ dựa
trên quy tắc Taylor cho NHTW Nga, dữ liệu bao gồm cả theo tháng và quý trong
giai đoạn 1993 - 2002. Nghiên cứu đã sử dụng các quy tắc chính sách tiền tệ khác
nhau và kiểm nghiệm NHTW Nga phản ứng như thế nào với những thay đổi trong
lạm phát, lỗ hổng sản lượng và tỷ giá hối đoái. Kết quả chỉ ra rằng, NHTW Nga sử
dụng chính sách tiền tệ kết hợp và tỷ giá hối đoái được sử dụng như một công cụ để
điều hành chính sách. Điều này tương đồng với kết quả nghiên cứu trước đó bởi
Mohanty và Klau (2004) đưa ra trong nền kinh tế mở, nhỏ lãi suất trong quy tắc
chính sách tiền tệ phản ứng một cách mạnh mẽ đối với các cú sốc tỷ giá hối đoái.
Batini Nelson (2000) mô phỏng ba phương trình trong bối cảnh nền kinh tế
mở, nhỏ bao gồm: phương trình đường IS hướng tới tương lai, đường cong Phillips
và ngang giá lãi suất. Vai trò của NHTW là thiết lập mức lãi suất tối ưu để giảm
thiểu các biến động gây ra trong lạm phát và sản lượng, xoay quanh mức mục tiêu
nhắm tới. Nghiên cứu nhằm giải thích NHTW nên phản ứng như thế nào tới biến
động tỷ giá hối đoái trong quá trình thiết lập mức lãi suất. Kết quả cho rằng, nền
kinh tế chỉ phụ thuộc vào ba cú sốc cấu trúc (tổng cầu, tổng cung và ngang giá lãi
suất), và chính sách tiền tệ không có phản ứng rõ ràng tới tỷ giá hối đoái. Việc xem
xét thêm tỷ giá trong quy tắc chính sách có thể khiến NHTW “bối rối”. Cho dù,
chênh lệch tỷ giá được đưa vào quá trình thiết lập chính sách có thể làm giảm biến
động lạm phát. Nhưng lãi suất là hành động chủ yếu để giảm biến động sản lượng
và lạm phát. Việc đưa biến động của tỷ giá vào dự báo sẽ tạo ra sự biến động sản
lượng lớn hơn.

Richard Dennis (2001) cho rằng cả biến động lãi suất và tỷ giá hối đoái có thể
dẫn đến biến động sản lượng thực. Ngoài ra, đối với nền kinh tế nhỏ, mở nên nhắm
vào thước đo lạm phát mục tiêu không bao gồm giá của hàng hóa thương mại. Tuy
nhiên, nghiên cứu đề xuất các nhà hoạch định chính sách không nên đưa biến động
tỷ giá khi thiết lập chính sách. Tất nhiên điều này không dễ dàng thực hiện vì


11

không chỉ có những hàng hóa có thể giao dịch trên thị trường thế giới giá mà cả
những hàng hóa trong nước cũng sẽ bị tác động bởi tỷ giá. Nếu các nhà hoạch định
chính sách lo ngại về những tác động thực sự của các cú sốc trong nền kinh tế, họ
có thể chuẩn bị sẵn sàng mọi phương án ứng phó để đưa lạm phát quay trở lại với
tỷ lệ mục tiêu theo từng bước, sau khi biến động lãi suất và biến động tỷ giá hối
đoái được ổn định.
Joseph E. Stiglitz (2001) thảo luận về chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đoái và
những rủi ro tài chính có liên quan đến các nền kinh tế nhỏ, mở trong môi trường ít
áp đặt các hạn chế nhất và tăng mức độ dòng vốn dịch chuyển cho trường hợp của
Iceland. Nghiên cứu cho rằng, nền kinh tế nhỏ, mở rất dễ bị khủng hoảng tài chính
tiền tệ. Kết quả ở Iceland chỉ ra, chính sách tiền tệ của nước này phản ứng chậm
chạp và không có tác động tích cực với những biến động của nền kinh tế cũng như
không thể ngăn chặn hiệu quả các rủi ro. Chính vì thế, cần phải quản lý các rủi ro,
bằng cách thiết kế chính sách tiền tệ có tính hệ thống và chế độ tỷ giá hối đoái phù
hợp nhằm làm giảm khả năng dẫn tới khủng hoảng và giảm các chi phí phát sinh
nếu khủng hoảng xảy ra.
Hilde Bjornland (2011) phân tích cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ trong
nền kinh tế Na Uy. Theo Hilde Bjornland, đối với một nền kinh tế mở nhỏ, tỷ giá
đóng một vai trò trung tâm các mối quan hệ trong chính sách tiền tệ và nhiều nước
khi theo đuổi lạm phát mục tiêu đã phải bỏ chế độ tỷ giá cố định và chuyển sang tỷ
giá thả nổi. Kết quả của Na Uy cho thấy mối liên kết khá chặt chẽ giữa chính sách

tiền tệ và tỷ giá hối đoái. Đặc biệt, sau một cú sốc chính sách tiền tệ thắt chặt, tỷ giá
hối đoái thực phản ứng tăng cao ngay lập tức và sau đó dần dần giảm trở lại đường
cơ sở. Ngoài ra, khi so sánh với kỳ trước, sự biến động tỷ giá hối đoái đối với
những cú sốc chính sách tiền tệ tăng lên trong giai đoạn lạm phát mục tiêu.
Brenner và Sokoler (2010) đã nghiên cứu trường hợp của Israel trong hai giai
đoạn khác nhau: từ tháng 02:1996 - 06:1997, Ngân hàng Israel đã sử dụng chính
sách tiền tệ can thiệp mạnh mẽ vào tỷ giá hối đoái và từ tháng 07:1997 - 03:2001
khi Ngân hàng Israel ngưng can thiệp vào thị trường ngoại hối, các nhà nghiên cứu


12

phát hiện rằng sự kết hợp của các quyết định áp dụng lạm phát mục tiêu và can
thiệp vào tỷ giá hối đoái thì không tương thích với chính sách tiền tệ đáng tin cậy
và hiệu quả. Đặc biệt, trong thời gian can thiệp đầu tiên, lãi suất không có tác động
đáng kể vào lạm phát mục tiêu. Tuy nhiên, sau khi Ngân hàng Israel dừng can thiệp
vào thị trường ngoại hối, lãi suất ảnh hưởng đến lạm phát mục tiêu. Trong ngắn
hạn, kết quả thực nghiệm cho thấy rằng lạm phát mục tiêu cần được tiến hành trong
một chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do.
Clarida, Gali và Gertler (1998) ước lượng hàm phản ứng của chính sách tiền tệ
với lãi suất áp dụng cho hai nhóm quốc gia là G3 (Đức, Nhật, Mỹ), E3 (Anh, Pháp,
Italia) bằng việc sử dụng phương pháp GMM. Kết quả chỉ ra rằng, NHTW của các
quốc gia nhóm G3 đã theo đuổi chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu “ẩn” hay ngầm
định. Trong khi các nước trong nhóm E3, NHTW đã sử dụng mức lãi suất cao hơn
mức có thể để làm ổn định nền kinh tế. Kết quả cũng hỗ trợ cho giả thuyết rằng các
NHTW khối E3 là Anh, Pháp và Italia nhắm đến mục tiêu lạm phát song song với
tỷ giá cố định.
Ball (1999) đưa ra 3 phương trình: đường IS, đường cong Phillips và liên hệ
giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái dựa trên một phần mở rộng của Svensson (1997) và
Ball (1997) cho nền kinh tế mở, nhỏ. Mô hình này tương tự với mô hình kinh tế

lượng phức tạp của nhiều NHTW. Qua đó, Ball (1999) kết luận, trong nền kinh tế
đóng, lạm phát mục tiêu và quy tắc Taylor thực hiện tốt ổn định sản lượng và lạm
phát. Tuy nhiên, trong nền kinh tế mở, các chính sách lại không phát huy hiệu quả,
trừ khi được điều chỉnh. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các nhà điều hành nên đưa MCI
(Monetary Conditions Index – chỉ số trạng thái của chính sách tiền tệ) dựa trên lãi
suất và tỷ giá hối đoái vào trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ.
Bergin, Paul (2002) dùng hàm maximum likelihood với bộ dữ liệu của Mỹ và
các quốc gia trong khu vực G7. Mô hình đưa ra dự báo khá tốt và có thể đánh bại
được mô hình bước đi ngẫu nhiên (random walk) đối với các dự báo của tỷ giá hối
đoái và tài khoản vãng lai, đây là những biến chủ chốt đối với nền kinh tế mở. Mô
hình này chỉ ra rằng các cú sốc ngang giá lãi suất không thật sự hữu ích trong việc


13

giải thích độc lập về những sự thay đổi của tỷ giá quan sát được từ bộ dữ liệu.
Nhưng mặt khác, những cú sốc này thì hữu ích trong việc giải thích những thay đổi
trong tài khoản vãng lai.
Clarida, Galí, Gertler (2000) ước lượng hàm phản ứng của chính sách tiền tệ
đối với nền kinh tế Mỹ sau chiến tranh (trước và sau khi Volcker được bổ nhiệm
làm chủ tịch Fed vào năm 1979). Sử dụng mô hình kinh tế vĩ mô, thực hiện so sánh
các tác động theo nguyên tắc ước lượng về các đặc tính cân bằng của lạm phát và
sản lượng. Nghiên cứu kết luận rằng chính sách lãi suất trong giai đoạn Volcker Greenspan (Greenspan là chủ tịch Fed sau Volcker) nhạy cảm hơn với sự thay đổi
trong lạm phát kỳ vọng, so với giai đoạn trước Volcker thế nhưng điều này vẫn phù
hợp với nguyên tắc Taylor.
2.3. Tóm lược các nghiên cứu về phản ứng của các Ngân Hàng trên thế
giới khi tỷ giá hối đoái thay đổi ứng dụng mô hình DSGE
Trong vài năm trở lại đây, nhiều nhà kinh tế học đã bắt đầu quan tâm đến mô
hình DSGE trong nhiều nghiên cứu học thuật, để đưa ra những lý giải thỏa đáng
hơn về biến động vĩ mô và dự báo kinh tế.

Frank Smets và Raf Wouters (2002) phát triển và ước lượng mô hình DSGE
trong điều kiện giá cả và tiền lương cứng nhắc cho khu vực đồng Euro. Mô hình
ước lượng sử dụng bảy biến vĩ mô quan trọng: GDP, tiêu dùng, đầu tư, giá cả, tiền
lương thực tế, việc làm và lãi suất danh nghĩa. Đồng thời nghiên cứu nguồn gốc của
chu kỳ kinh doanh động trong khu vực đồng Euro. Phân tích một số các tính năng
nổi bật của mô hình Gali (2000) trong một thực nghiệm được thiết lập thỏa đáng.
Sau đó, các mô hình ước lượng được sử dụng để phân tích chính sách tiền tệ tối ưu.
Kết quả chỉ ra cả lạm phát chỉ số giá và mức lương phụ thuộc vào độ trễ của chính
nó, do đó, vấn đề đặt ra là cần phải quan tâm thêm thành phần quá khứ trong mô
hình ước lượng. Tuy nhiên, thành phần tương lai hoàn toàn chiếm ưu thế, đặc biệt
là trong mô hình về chỉ số giá. Ước lượng của tác giả về mức độ ảnh hưởng của
một cú sốc chính sách tiền tệ khá phù hợp với bằng chứng hiện tại tại khu vực đồng
Euro.


14

Clarida, Galí, và Gertler (2001) đưa ra mô hình xác lập đầy đủ - mô hình cân
bằng tổng thể động ngẫu nhiên (DSGE) cho thấy rằng các vấn đề chính sách tiền tệ
trong nền kinh tế mở là đẳng cấu (isomorphic) với nền kinh tế đóng của mình. Mục
tiêu chính sách là làm mượt (smoothing) sản lượng. Trước đó Clarida, Galí, và
Gertler (1998) cũng đã thực hiện quy tắc chính sách nền kinh tế mở. Họ tìm thấy
rằng tỷ giá hối đoái ở các nước công nghiệp lớn đã đóng một vai trò trong việc thiết
lập chính sách tiền tệ, nhưng tầm quan trọng về định lượng của nó là nhỏ.
Del Negro, Marco (2003) phân tích chính sách tiền tệ cho nền kinh tế Mexico
trước và sau khi khủng hoảng Peso năm 1994. Nghiên cứu sử dụng mô hình DSGE
để ước lượng quy tắc chính sách tiền tệ, theo phương pháp tiếp cận Bayesian. Sau
khi phân tích thực nghiệm, nghiên cứu chỉ ra rằng NHTW Mexico đã không phản
ứng mạnh mẽ với những biến động của tỷ giá hối đoái. Ngoài ra, việc truyền tải
chính sách tiền tệ quan sát trong mô hình chỉ ra rằng khi một cú sốc chính sách tiền

tệ thắt chặt dẫn đến lạm phát suy giảm, đồng thời đánh giá cao nội tệ, dẫn tới sự sụt
giảm đột ngột trong điều khoản của thương mại. Tuy nhiên, những cú sốc chính
sách tiền tệ trong mô hình không tồn tại dài hơn năm kỳ. Bên cạnh đó, các thông số
cấu trúc của mô hình quan sát khi kinh tế mở cửa thương mại như Mexico có thể
phù hợp để mở rộng nghiên cứu ở các thị trường mới nổi khác. Kết quả cũng đưa ra
mức độ thấp của tỷ giá mục tiêu sau cuộc khủng hoảng năm 1994. Về điều này tác
giả nghi ngờ do truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến lạm phát ở Mexico và đây cũng
chính là vấn đề đặt ra cho lần nghiên cứu sau.
Lubik và Schorfheide (2007) ước lượng khía cạnh nhỏ của mô hình cấu trúc
cân bằng tổng thể của một nền kinh tế mở, nhỏ bằng phương pháp Bayesian. Thay
vì ước lượng hàm phản ứng chính sách trong thiết lập đơn biến nhóm tác giả đã
theo đuổi một cách tiếp cận đa biến bằng cách ước tính toàn bộ mô hình cấu trúc.
Mục tiêu chính của nghiên cứu là xây dựng chính sách tiền tệ trong nền kinh tế tại
Úc, Canada, New Zealand và Vương quốc Anh được qui định bởi lãi suất danh
nghĩa. Phát hiện chính của nghiên cứu là các NHTW Australia, New Zealand và
Anh đều không ứng phó được với sự dịch chuyển tỷ giá hối đoái. Trong khi đó,
Ngân hàng Canada đã bao gồm tỷ giá hối đoái danh nghĩa trong quy tắc chính sách


15

tiền tệ, kết quả này phù hợp bởi Ngân Hàng Canada đã xây dựng chính sách tiền tệ
có tham chiếu rõ ràng, theo đó tỷ giá được đo lường dựa vào chỉ số điều kiện tiền tệ
tích hợp trong một thời gian dài. Tuy nhiên, kết quả cũng nói lên rằng tỷ giá không
phải là một phần của tiến trình ra quyết định. Ngoài ra, dựa trên phân rã phương sai
của các mô hình ước lượng cho thấy việc thay đổi điều khoản thương mại không
đóng góp đáng kể vào chu kỳ kinh doanh trong nước.
Tingguo Zheng, Huiming Guo (2013) xem xét chính sách tiền tệ của Trung
Quốc với các biến động vĩ mô được phân tích trong mô hình DSGE. Sử dụng dữ
liệu theo quý, 1992:Q1 – 2011:Q4. Nghiên cứu tìm ra lãi suất phản ứng không chỉ

trước chênh chệch của lạm phát và lỗ hổng sản lượng, mà còn trước sự thay đổi của
tỷ giá hối đoái RMB. Chính sách tiền tệ khi đưa tỷ giá vào phù hợp với các dữ liệu
trong thực tế hơn là khi không xem xét tỷ giá. Những kết quả này hỗ trợ quan điểm
rằng, NHTW ở các quốc gia mới nổi nên xem xét đến vấn đề về tỷ giá khi ban hành
chính sách tiền tệ. Ngoài ra, cú sốc chính sách tiền tệ tác động có ý nghĩa lên nền
kinh tế động trong ngắn hạn, nhưng khi ở dài hạn, nó chỉ ảnh hưởng đến các biến
danh nghĩa: lạm phát và tỷ giá hối đoái mà không ảnh hưởng đến sản lượng thực.
Mặc dù, Chính phủ có thể kích thích tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn
bằng cách nới lỏng chính sách tiền tệ, tuân thủ theo chiến lược điều chỉnh cấu trúc
và ngành công nghiệp mới nổi để duy trì một sự phát triển nhanh và bền vững trong
dài hạn.
Bảng 2.1: Tóm tắt các nghiên cứu về phản ứng của các NHTW lên tỷ giá
hối đoái:
Tác giả

Mẫu nghiên cứu

Kết quả

Del Negro, NHTW Mexico, trước NHTW Mexico không phản ứng mạnh
Marco

và sau khủng hoảng mẽ với những biến động của tỷ giá.

(2003)

Peso 1994.

Esanov
cộng


và NHTW Nga, dữ liệu Tỷ giá được sử dụng là công cụ điều
sự theo tháng và quý từ hành chính sách tiền tệ. Điều này tương


16

đồng với kết quả của Mohanty và Klau

1993 - 2002.

(2005)

(2004).
Hilde
Bjornland

Sử dụng mô hình VAR Đưa ra mối liên kết khá chặt chẽ giữa
chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái.
cho NHTW Na Uy.

(2011)

Dennis

Sử dụng nghiên cứu Các nhà hoạch định chính sách không
cho
Fed,
NHTW nên đưa biến động tỷ giá khi thiết lập


(2001)

Australia, từ 1984:Q1 – chính sách tiền tệ.

Richard

2001:Q2
Joseph

Sử

dụng

dữ

Stiglitz

NHTW Iceland

liệu Cần thiết kế chính sách tiền tệ có tính hệ
thống và chế độ tỷ giá phù hợp nhằm
giảm khả năng dẫn tới khủng hoảng và

(2001)

giảm chi phí phát sinh nếu khủng hoảng
xảy ra.
Ball (1999)

Sử dụng cho Ngân Trong nền kinh tế đóng, lạm phát mục

Hàng Dự Trữ New tiêu và quy tắc Taylor thực hiện tốt ổn
Zealand và Canada và định sản lượng và lạm phát. Tuy nhiên,
trong nền kinh tế mở, các chính sách tiền
Australia.
tệ lại không phát huy hiệu quả, trừ khi
được điều chỉnh. Nghiên cứu đề xuất các
nhà điều hành nên đưa chỉ số MCI dựa
trên lãi suất và tỷ giá vào quá trình thực
thi chính sách tiền tệ.

Dib,
(2003)

liệu Tác động của các cú sốc chính sách tiền
Canada và Hoa Kỳ từ tệ trong một nền kinh tế mở, nhỏ là rất
giống với những với một nền kinh tế
1981:Q3 - 2002:Q4.

Ali Sử

dụng

dữ

đóng.
Frank
Smets

Sử dụng bảy biến: Cần phải quan tâm thành phần quá khứ
và GDP, tiêu dùng, đầu trong mô hình. Đặc biệt, kỳ vọng tương



17

Raf

tư, giá cả, tiền lương lai hoàn toàn chiếm ưu thế. Ước lượng

Wouters

thực tế, việc làm và lãi mức độ ảnh hưởng của một cú sốc chính

(2002)

suất danh nghĩa cho sách tiền tệ khá phù hợp với bằng chứng
khu vực đồng Euro.

Bergin,
Paul (2002)

hiện tại tại khu vực đồng Euro.

Sử dụng dữ liệu cho Các cú sốc ngang giá lãi suất không thật
Mỹ và các quốc gia sự hữu ích trong việc giải thích độc lập
trong khu vực G7 từ về những sự thay đổi của tỷ giá quan sát
1973:Q2 đến 2000:Q4. được từ bộ dữ liệu. Nhưng mặt khác,
những cú sốc này thì hữu ích trong việc
giải thích những thay đổi trong tài khoản
vãng lai.


Clarida,
Galí,
Gertler
(2000)

Bộ dữ liệu của Mỹ sau Chính sách lãi suất trong giai đoạn
chiến tranh (trước và Volcker - Greenspan (Greenspan là chủ
sau khi Volcker được tịch Fed sau Volcker) nhạy cảm hơn với
bổ nhiệm làm chủ tịch sự thay đổi trong lạm phát kỳ vọng, so
Fed vào năm 1979).

với giai đoạn trước Volcker thế nhưng
điều này vẫn phù hợp với nguyên tắc
Taylor.

Clarida,

Các nước trong khối

Tỷ giá hối đoái ở các nước công nghiệp

và G3 (Đức, Nhật, Mỹ) và lớn đã đóng một vai trò trong việc thiết
E3 (Anh, Pháp, Italia). lập chính sách tiền tệ, nhưng tầm quan
Gertler
Galí,

trọng về định lượng của nó là nhỏ.

(1998)
Lubik


và NHTW Australia, New NHTW Australia, New Zealand không

Schorfheide Zealand, Anh, Canada ứng phó được khi tỷ giá thay đổi. Mặt
(2007)

từ 1983:Q1 – 2002:Q4, khác, NHTW Anh và Canada đã xây
riêng New Zealand từ dựng CSTT bao gồm tỷ giá danh nghĩa
1988:Q1

Tingguo
Zheng

và tỷ giá được đo lường theo chỉ số MCI.

NHTW Trung Quốc, từ CSTT khi đưa tỷ giá vào phù hợp với
và 1992:Q1 – 2011:Q4.

các dữ liệu trong thực tế hơn là khi


×