1
Mục lục
Lời nói đầu.............................................................................................................3
I/ Khái quát về “Chảy máu chất xám”...................................................................4
II/ Thực trạng vấn đề chảy máu chất xám cảu nước ta..........................................5
1. Đặt vấn đề....................................................................................................5
2. Thực trạng vấn đề chảy máu chất xám của nước ta.....................................6
• Nguyên nhân...........................................................................................9
• Giải pháp..............................................................................................11
III/ Kết luận.........................................................................................................12
Tài liệu tham khảo...............................................................................................14
Lời nói đầu
2
Nhiều năm qua, "chảy máu chất xám" được coi là một hiện tượng phức
tạp, buộc nhiều quốc gia cần xem xét và điều chỉnh, từ đó có chính sách, biện
pháp khắc phục. Bởi, dù thế nào thì trong thế giới hiện đại, sự phát triển của mỗi
quốc gia luôn cần tới vai trò của tri thức, trí tuệ. Ở đây, vấn đề đặt ra cho mỗi
người lao động trí óc là tâm nguyện cống hiến cho Tổ quốc, là sự đồng cảm và
chia sẻ với những khó khăn của đất nước; bên cạnh đó là vai trò của Nhà nước
trong việc tạo điều kiện tốt nhất để các chủ nhân của "chất xám" sống và cống
hiến một cách tốt nhất.
Lâu nay, khi nói về tình trạng chảy máu chất xám, người ta vẫn thường
hình dung về việc nguồn chuyên gia, nhân lực khoa học, trí thức, văn nghệ sĩ từ
các nước có mức sống thấp, rời bỏ Tổ quốc, sang sinh sống tại những quốc gia
có điều kiện để hoạt động khoa học, có chế độ đãi ngộ cao hơn như Hoa Kỳ,
Nhật Bản và các nước phương Tây (theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này bao
gồm cả các quốc gia có điều kiện kinh tế phát triển của Liên minh châu Âu như
Anh, Pháp, Ðức, Na Uy, Thụy Ðiển, Thụy Sĩ...). Ðiều này là không thể phủ
nhận, và chỉ nhìn vào danh sách những người đoạt giải thưởng Nobel cũng có
thể thấy rõ. Tính từ khi được thành lập vào năm 1911 đến nay, giải thưởng
Nobel đã được trao trong 109 "mùa" với hơn 800 cá nhân, tổ chức được nhận
thuộc các lĩnh vực Vật lý, Văn học, Kinh tế, Hóa học, Hòa bình và Y học. Bài
tiểu luận này trình bày thực trạng và các vấn đề liên quan tới việc chảy máu chất
xám của du học sinh Việt Nam.
I/ Khái quát chung về chảy máu chất xám.
3
Chảy máu chất xám (tiếng Anh: human capital flight hoặc brain drain)
là thuật ngữ dùng để chỉ vấn đề di cư quy mô lớn của nguồn nhân lực có kiến
thức và kĩ thuật từ một nước qua những nước khác. Mặc dù thuật ngữ ban đầu
dùng để chỉ những công nhân kĩ thuật đi qua những nước khác, ý nghĩa của nó
đã mở rộng thành: "sự ra đi của những người có kiến thức hoặc có chuyên môn
từ một quốc gia, khu vực kinh tế, hoặc các lĩnh vực khác, vì điều kiện sống
hoặc tiền lương tốt hơn".
Chảy máu chất xám là một hiện tượng mang tính toàn cầu, tuy xảy ra số
lượng lớn ở những nước đang phát triển nhưng tại những nước phát triển cũng
diễn ra hiện tượng này, gây thiệt hại đến quá trình phát triển kinh tế. Chính
quyền các nước đã đề ra những chính sách nhằm kìm hãm hiện tượng này và thu
hút chất xám quay về bằng nhiều biện pháp.
Các nguyên nhân chính của lực hút chất xám ở các nước có điều kiện là:
1. Lương cao, mức sống cao
2. Nền khoa học - công nghệ cao
3. Môi trường học tập và làm việc tốt
4. Cơ chế tuyển dụng công bằng
5. Có chính sách ưu đãi đối với người tài.
Hiện tượng chảy máu chất xám diễn ra chủ yếu ở các nước đang phát triển
còn do tác động của nhu cầu thị trường lao động thế giới: dư thừa lao động phổ
thông nhưng khan hiếm nhân lực lao động trí thức cấp cao. Tình trạng này dẫn
đến các chính sách cạnh tranh thu hút nhân tài chủ yếu ở châu Âu và Mỹ, bao
gồm: sửa đổi luật di dân, cấp visa việc làm, đề mức lương cao, đầu tư các chế độ
đãi ngộ, xây dựng các quỹ nghiên cứu hoặc quỹ học bổng,...
4
Tình trạng chảy máu chất xám tại các quốc gia nghèo là một nguyên nhân
quan trọng khiến khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia ngày càng rõ rệt và
gây ra những hậu quả khó lường cho các nước đang phát triển. Nguồn chất xám
bị chảy máu khiến kinh phí đào tạo của quốc gia không ngừng thất thoát, đồng
thời phải bỏ ra một nguồn kinh phí lớn để trả lương cho các chuyên gia nước
ngoài mời về. Đây là một sự lãng phí lớn về tài sản quốc gia, làm chậm tốc độ
phát triển nền kinh tế.
II/ Thực trạng vấn đề chảy máu chất xám ở Việt Nam
1, Đặt vấn đề
Lâu nay, khi nói về tình trạng chảy máu chất xám, người ta vẫn thường
hình dung về việc nguồn chuyên gia, nhân lực khoa học, trí thức, văn nghệ sĩ từ
các nước có mức sống thấp, rời bỏ Tổ quốc, sang sinh sống tại những quốc gia
có điều kiện để hoạt động khoa học, có chế độ đãi ngộ cao hơn như Hoa Kỳ,
Nhật Bản và các nước phương Tây (theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này bao
gồm cả các quốc gia có điều kiện kinh tế phát triển của Liên minh châu Âu như
Anh, Pháp, Ðức, Na Uy, Thụy Ðiển, Thụy Sĩ...). Ðiều này là không thể phủ
nhận, và chỉ nhìn vào danh sách những người đoạt giải thưởng Nobel cũng có
thể thấy rõ. Tính từ khi được thành lập vào năm 1911 đến nay, giải thưởng
Nobel đã được trao trong 109 "mùa" với hơn 800 cá nhân, tổ chức được nhận
thuộc các lĩnh vực Vật lý, Văn học, Kinh tế, Hóa học, Hòa bình và Y học.
Như vậy, ngoại trừ giải Nobel Hòa bình mà dường như là thuộc khu vực
chịu ảnh hưởng của đời sống chính trị, giải Nobel Văn học là giải thưởng duy
nhất thuộc lĩnh vực nghệ thuật, còn lại, giải Nobel chủ yếu là một giải thưởng
hướng tới lĩnh vực khoa học. Căn cứ theo danh sách những quốc gia sở hữu
nhiều giải thưởng Nobel nhất trong tất cả các lĩnh vực, đứng đầu vẫn là các quốc
gia phương Tây: Anh (116 giải), Ðức (102), Pháp (65) và nhiều nhất là Hoa Kỳ
(337 giải). Ở những quốc gia này đã thật sự tạo nên một môi trường tốt cho các
5
hoạt động nghiên cứu khoa học (tạm thời không nói đến các hoạt động sáng tạo
văn học - nghệ thuật, bởi lĩnh vực này vận hành theo những logic khác). Lấy
riêng trường hợp Hoa Kỳ, trong số hơn 300 giải thưởng dành cho các công dân
quốc gia này, có đến 82 trường hợp trao cho những công dân sinh ra tại những
quốc gia khác tới sinh sống tại Hoa Kỳ, chiếm gần 25%. Ðấy là chưa nói tới
trường hợp công dân mới nhập cư tại Hoa Kỳ trong khoảng một, hai thế hệ mà
dấu vết "cố quốc" vẫn còn có thể nhận biết qua tên tuổi của họ. Chỉ riêng việc đó
cũng đủ nói lên sức hút mạnh mẽ đến mức nào của Hoa Kỳ đối với những bộ óc
đến từ các quốc gia khác. Quy luật này cũng đúng với những lĩnh vực khác như
kinh tế, kỹ nghệ, nghệ thuật. Một hiện tượng rõ nét là nhiều quốc gia phát triển
đã trở thành "đất hứa" thu hút nghệ sĩ, chuyên gia, khoa học gia, trí thức từ
những quốc gia đang hoặc chậm phát triển. Tất nhiên, cuộc sống tại "đất hứa" ra
sao lại là chuyện hoàn toàn khác.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, đã có không ít giai đoạn chúng ta được chứng
kiến cuộc trở về của những trí thức từ những nơi đầy đủ nhất trên thế giới. Ðầu
thế kỷ hai mươi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chúng ta đã có
một thế hệ trí thức như thế, từ bỏ tất cả, không phải chỉ tiện nghi, không phải chỉ
vật chất, đãi ngộ, điều kiện mà quan trọng hơn là từ bỏ cả chính "cái tôi", lột xác
về tư tưởng để có thể trở về với Dân tộc và Tổ quốc một cách đúng nghĩa. Phải
chăng, chính mỗi người trở về hôm nay cũng nên đặt câu hỏi: Liệu chúng ta đã
dám từ bỏ những gì để đánh đổi, lấy lại những gì quan trọng nhất làm nên phẩm
giá trí thức? Phải chăng, đã đến lúc, tinh thần của Trần Ðại Nghĩa, Trần Ðức
Thảo, Lương Ðịnh Của, Nguyễn Khắc Viện,... một lần nữa cần được nhân lên
trong mỗi người lao động trí óc hôm nay?
2, Thực trạng vấn đề chảy máu chất xám ở Việt Nam.
Ở hầu hết mọi nơi trên thế giới, hiện tượng “ chảy máu chất xám” là hiện tượng
được nhiều người trong chính quyền cũng như ngoài xã hội đặc biệt quan tâm.
6
Hiện nay nước ta có tới 50 000 sinh viên Việt Nam đang du học ở các nước trên
thế giới. Trong đó có tới 70-75 % trường hợp du học tự túc, khoảng 20% đi theo
học bổng của các nước kí với Việt Nam thông qua các hiệp định, hoặc sự liên
kết, trao đổi sinh viên giữa các trường đại học cao đẳng trong nước với nước
ngoài. Số sinh viên được cử đi học bằng 100% tiền từ ngân sách nhà nước chỉ
chiếm khoảng 5%. Nhưng có đến 80% du học sinh Việt Nam sau khi học xong
không muốn trở về nước. Theo số liệu mới nhất của Sở Giáo dục- Đào tạo, hiện
số lượng du học sinh của nước ta cho dù có học bổng hay tự túc, thậm chí du
học bằng ngân sách nhà nước... thì số lượng du học sinh học xong quay trở về là
rất ít. Chất xám của Việt Nam bị thất thoát đến giật mình. Chỉ với 80% du học
sinh “một đi không trở lại” như hiện nay, số chất xám thất thoát lên đến 40.000
người. Còn số người trở về Việt Nam ngay sau khi tốt nghiệp thì cũng vì có
nhiều lý do như: Có vị trí tốt đang chờ sẵn, bị buộc trở về theo hợp đồng cơ
quan cử đi, không thể tìm việc ở nước ngoài, muốn “ xả hơi” sau mấy năm học
hành cực khổ, muốn đoàn tụ với gia đình hoặc có lý tưởng và lòng tự tin vào khả
năng bản thân có thể vượt khó xây dựng sự nghiệp, tạo dựng thành công.
Vấn nạn “ chảy máu chất xám” ở các du học sinh của nước ta là vấn đề lớn,
nhưng nhiều năm qua đã chưa được đặt ra một cách nghiêm túc. Những ưu đãi
hiện hành với “ người tài” mới chỉ mang tính nhỏ lẻ, do các địa phương, các cơ
quan đặt ra, tùy theo tình hình mà thực hiện, không phải một cơ chế ở tầm vĩ mô
có khả năng khuyến khích những người có năng lực phấn đấu trong học tập và
cống hiến yêu cầu ở các lĩnh vực kinh tế xã hội.
Là á quân của cuộc thi "Đường lên đỉnh Olympia" năm đầu tiên, năm
2002, Nguyễn Thành Vinh có học bổng sang Australia du học ngành hóa học tại
Đại học New South Wales tại Sydney. Kết thúc chương trình cử nhân, Vinh tiếp
tục chương trình tiến sĩ về hóa hữu cơ tại Đại học Quốc gia Australia (ANU).
Phản ứng trước con số 70% du học sinh Việt Nam không trở về nước sau khi tốt
nghiệp, Vinh nói: "Nếu 30% quay trở về làm đất nước phát triển rực rỡ thì thế
đã là quá đủ. 70% nữa quay trở về chỉ làm môi trường thêm chật chội. Nếu 30%
7
đã quay về chẳng làm được gì hết thì 70% nữa quay về liệu có làm được gì
không? ".
Ông Phạm Sỹ Tiến, Trưởng ban Điều hành Đề án 322 trăn trở: "Điều
đáng buồn nhất của các đề án đầu tư đưa học sinh, sinh viên đi du học là người
học được Nhà nước đầu tư rất tốt, nhưng sau khi về nước không phát huy được
năng lực của mình, không có môi trường để phát triển nghiên cứu tiếp". Ông
Tiến nhận xét: "Đề án có tốt nhưng "đầu ra" không tốt thì hiệu quả cũng bị giảm
sút. Một số du học sinh sau khi về nước đã xin thôi việc ở cơ quan cũ để sang cơ
quan khác làm việc hoặc làm việc cho doanh nghiệp. Nhiều người ở lại nước
ngoài".
Không chỉ vậy, với thạc sĩ, tiến sĩ... được đào tạo bài bản và có trình độ
chuyên môn, việc đãi ngộ thông qua lương bổng cũng vô cùng bất cập. Với trình
độ cao học, một người cần bỏ ra 20-30 triệu cho 2 năm học (trong đó tiền học
phí chỉ dao động 13-15 triệu), còn nếu muốn học tiếp lên tiến sĩ thì số tiền này
sẽ còn nhiều hơn bởi một loạt các loại phí khác nằm ngoài chuyện học tập, như
"phí bảo vệ luận án, phí quà cáp"... Và nếu trừ 10 triệu đồng/năm được Nhà
nước hỗ trợ, hầu hết nghiên cứu sinh đều phải bỏ thêm tiền túi ra để phục vụ
nghiên cứu. Đối với nghiên cứu sinh khối xã hội còn đỡ, khối kỹ thuật có người
phải tốn cả trăm triệu đồng để trang bị các điều kiện nghiên cứu. Thế nhưng đến
thời điểm này, theo Nghị định 205/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính
phủ quy định hệ thống thang lương, bảng lương và chế độ phụ cấp lương trong
các công ty Nhà nước thì không có thang lương cho học vị thạc sĩ hay tiến sĩ.
Anh Nguyễn Hùng, giảng viên một trường đại học ở Hà Nội cho biết, sau
khi làm xong tiến sĩ theo Đề án 322 ở Trường đại học Paris 6 ở Pháp về, anh có
cảm giác "khủng hoảng". Đang từ cuộc sống đầy đủ, lúc về nước anh nhận mức
lương 2,5 triệu/tháng trong 6 tháng đầu do chưa tham gia nhiều hoạt động khác
của khoa. Hiện giờ, mức lương của anh là 3,6 triệu đồng/tháng, không thay đổi
so với trước lúc đi học.
Khá hơn anh Hùng, anh Trần Văn Long, giảng viên một trường đại học kỹ
thuật tại Hà Nội đã hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh vào năm 2011 và
8
được hưởng hệ số lương là 3,33. Tuy nhiên, anh cho biết, nếu không dạy vượt
tiết, tất tần tật thu nhập của anh ở trường chỉ là 3,5 triệu đồng/tháng. Nếu dạy
vượt tiết, giờ hành chính anh được trả 25.000 đồng/tiết, ngoài giờ là 50.000
đồng/tiết. Anh nói: "Lương giảng viên thì thấp, chúng tôi còn phải lo cho vợ
con, nhà cửa, thế này thì thạc sĩ hay tiến sĩ cũng có khác gì cử nhân mới ra
trường đâu?".
Chia sẻ về tình trạng "chảy máu chất xám" và đãi ngộ người tài ở nước ta
hiện nay, GS Phạm Minh Hạc (nguyên Bộ trưởng Bộ GD&ĐT) cho rằng:
"Nhiều người đi học ở nước ngoài về vẫn phải tự thân vận động, tự bỏ tiền túi để
nghiên cứu khoa học, một phần do thủ tục hành chính, chế độ, chính sách chưa
thỏa đáng. Họ không về do hệ thống nghiên cứu khoa học trong nước chưa đủ
hấp dẫn cho người có tài làm việc trong nước, chưa đủ mức tin cậy cho những
nhà khoa học trẻ thấy rằng, mình làm trong nước có thể tiến bộ và cống hiến
được như nước ngoài. Chúng ta cần chú trọng đội ngũ trí thức trong nước ở các
viện khoa học, các trường đại học, các tổ chức... Có một điểm không thể thiếu
được là chú trọng kêu gọi những nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài trở về
nước hợp tác, cộng tác thường xuyên để có sự gắn bó, hợp tác. Nhà nước không
cần có một chính sách gì quá đặc biệt với trí thức Việt kiều mà hãy tập trung vào
những chính sách tốt cho trí thức trong nước".
Rõ ràng, chuyện lương bổng và trên hết là quá nhiều bất cập trong chính
sách trọng dụng, đãi ngộ nhân tài khiến du học sinh khi trở về không có cơ hội
phát triển nghề nghiệp lẫn thăng tiến. Và nếu chúng ta cứ tiếp tục "vô tư" không
nghĩ đến một giải pháp thu dụng những tri thức trẻ có năng lực, bao gồm cả
những sinh viên tốt nghiệp trong nước và du học sinh, thì một ngày không xa
con số "chảy máu chất xám" của đất nước sẽ còn tăng theo cấp số nhân.
• Nguyên nhân
Có nhiều lý do để khiến du học sinh băn khoăn trăn trở về quyết định về
hay ở của mình. Trước hết là các quyến rũ vật chất ở xứ du học sinh đang sống.
Dù mang theo một tinh thần yêu nước nồng nàn đến đâu đi nữa, du học sinh
9
không thể chối cãi được những tiến bộ về khoa học kỹ thuật của thế giới mình
đang sống. Thư viện, các phòng thí nghiệm, các hệ thống máy vi tính và các
phương tiện truyền thông khác như các trang web đủ lọai đã gíup cho du học
sinh dễ dàng trong việc học tập cũng như làm việc. Về nước những phương tiện
tối tân, hiện đại như thế làm sao có được và du học sinh trở về có “đất dụng võ”
để mang những điều mình học hỏi về phát triển đất nước hay không. Tiếp theo
là vấn đề lương bổng, thu nhập hàng tháng cũng làm du học sinh so sánh về khả
năng xây dựng cho gia đình và bản thân mình khi làm việc tại nước ngoài hay
khi trở về Việt Nam . Một khía cạnh đáng để ý nữa là các quốc gia tân tiến như
Mỹ chẳng hạn thường có chính sách đãi ngộ xứng đáng những khoa học gia,
những kỹ thuật gia của các quốc gia khác. So sánh việc đào tạo một kỹ sư trong
nước hay nhận một kỹ sư nước ngoài vào làm việc thì các nhà kinh tế, các người
quản lý doanh nghiệp đều nhận chân được rằng việc sử dụng một chuyên viên
nước ngoài có lợi ích kinh tế nhiều hơn vì không phải tốn chi phí đào tạo. Một
điều đáng lưu tâm nữa sau khi tốt nghiệp trở về tốn rất nhiều tiền của, công sức
học hành và thời gian các du học sinh không được trọng dụng, có khi làm trái
ngành nghề, những vị trí cao trong công ty thì các du học sinh không được tuyển
dụng vì họ còn trẻ và thiếu kinh nghiệm làm việc điều này đã khiến họ quyết
định ở lại nơi đã học tập để có công việc tốt và sự đãi ngộ xứng đáng. Hơn nữa,
khi ở lại các nước sở tại các du học sinh có nhiều cơ hội việc làm với mức thu
nhập cao, điều kiện sống tốt như : y tế, giáo dục…, môi trường làm việc tốt và
đặc biệt là sự rút ngắn khoảng cách trưởng thành và cơ hội sáng tạo vì khi trở về
Việt Nam nếu họ là những người trẻ, họ ít được công nhận tài năng, ít có sự ủng
hộ của cấp trên hay đồng nghiệp và bị cho rằng họ là những con “ ngựa non háu
đá”. Điều này đã làm giảm đi nhiệt huyết của họ khi những ý tưởng đóng góp
của họ không được công nhận. Và một nguyên nhân nữa từ chính những du học
sinh, sau khi trở về việc tái hòa nhập của những du học sinh du học từ khi còn là
học sinh cấp III hoặc vừa tốt nghiệp phổ thông sẽ khó hơn những người đi học
sau đại học. Đi du học khi còn quá trẻ, các bạn chưa có được những kiến thức
sâu rộng về xã hội, kinh tế Việt Nam. Tuổi trẻ vốn dễ thích nghi, dễ hòa nhập. Ở
10
nước ngoài, các bạn được học những điều hoàn toàn mới, thích nghi với một
cuộc sống mới có nhiều khác biệt so với quê nhà. Bận học hành, không còn thời
gian để cập nhật những thông tin mới về đất nước, trở về sau bốn, năm năm ở
nước ngoài, một số bạn dễ trở nên lạc lõng, khó thích nghi, và vì thế khó phát
huy hết khả năng của mình. Các du học sinh khi đang học tập tại các nước sở tại
thiếu thông tin toàn diện và chính xác về quê nhà, không biết ngành nào cần
người, lo sợ khi trở về không được trọng dụng làm nhiều du học sinh băn khoăn
khi quyết định trở về hay ở lại. Đây là một vấn đề đáng quan ngại nếu như nhà
nước không có những biện pháp kéo nguồn “chất xám” này trở lại đặc biệt đối
với một nước đang phát triển như nước ta thì việc các du học sinh không trở về
làm việc tại quê nhà là tổn thất, sự lãng phí “ chất xám cao” để theo kịp với các
nước trong khu vực.
• Giải pháp khắc phục nạn “ chảy máu chất xám” ở các du học sinh
của Việt Nam.
Vấn đề thu hút trí thức trẻ Việt Nam ở nước ngoài đang được dư luận xới
lên kịp thời, như một nhận thức tích cực ngăn chặn tình trạng chảy máu chất
xám trong tương lai. Sau đây là những biện pháp để ngăn chặn nạn “ chảy máu
chất xám” ở các du học sinh của Việt Nam:
- Nhà nước có những chính sách chặt chẽ áp dụng với những người đăng
kí nộp hồ sơ đi du học.
- Có những quy định, chế tài xử phạt đối với những du học sinh sử dụng
ngân sách nhà nước học nhưng ở lại nước ngoài.
- Lập những đề án theo dõi, nuôi dưỡng “ nhân tài tương lai” .
- Lập các chương trình giao lưu giữa các bạn du học sinh, có các trang
web cung cấp các thông tin về quê nhà, cơ hội làm việc trong nước, các câu lạc
bộ kết nối với các học sinh, sinh viên trong nước để họ trao đổi thông tin cho
nhau làm cầu nối cho tinh thần yêu nước từ đó sẽ kéo được những du học sinh
trở về sau khi học tập tại các nước sở tại.
11
- Cần lập một cơ quan riêng chuyên trách về việc quản lý lưu học sinh.
- Xây dựng hệ thống giáo dục, đào tạo chất lượng cao trong nước hoặc
liên kết với các trường đại học nước ngoài đào tạo trong nước để thu hút chất
xám quay về.
- Nhà nước thiết lập những cơ chế tạo điều kiện, môi trường làm việc,
nghiên cứu cho những du học sinh có tài khi trở về nước có thể phát huy hết khả
năng của mình khi áp dụng các kiến thức đã được học ở nước ngoài.
- Có chế độ đãi ngộ, chế độ lương bổng xứng đáng sẽ thu hút được “chất
xám về nguồn”.
- Có các kênh thông tin chính thức cung cấp những thông tin về quê nhà,
về cơ hội tìm kiếm việc làm… cho các du học sinh.
- Nhà nước có các đề án thu hút nhân tài ở tầm quốc gia khơi dậy lòng
yêu nước trong mỗi du học sinh .
III/ Kết luận
Như vậy, vấn đề "chảy máu chất xám" không chỉ là những vết "ngoại
thương" khi người được đào tạo rời bỏ Tổ quốc, di dân đến các quốc gia phát
triển, mà còn là những vết "nội thương" khi nguồn chất xám chất lượng cao
không phục vụ cho các mục tiêu phát triển khoa học, công nghệ, mà nhiều khi bị
lãng phí trong những mục đích tầm thường của cuộc sống (nhưng không hề tầm
thường với mỗi cá nhân). Nhìn một cách sâu xa, những vết "nội thương" để lại
những hậu quả tai hại còn hơn cả những vết "ngoại thương". Bởi lẽ một chuyên
gia, một nhà khoa học nếu còn có những liên hệ với đất nước thì đến một lúc
nào đó, sau khi vượt qua được những vấn đề trước mắt, họ vẫn có thể có những
đóng góp quan trọng cho Tổ quốc. Nhưng nếu một nhà khoa học bị "chết mòn"
trong những điều nhỏ nhặt của cuộc mưu sinh hoặc bị những cơ chế bảo thủ, trì
trệ trói buộc, thì rất nhiều khả năng, chỉ sau một khoảng thời gian mươi năm,
giới khoa học sẽ mất đi một nhà khoa học.
12
Trở lại với một trường đại học hàng đầu của Việt Nam hiện nay trong
lĩnh vực khoa học xã hội. Cách đây chưa lâu, một tiến sĩ trẻ xuất thân từ một gia
đình trí thức có nhiều đóng góp cho nền giáo dục của nước Việt Nam được đào
tạo cao học và nghiên cứu sinh tại những trường đại học hàng đầu thế giới, đã
buộc phải từ bỏ cơ sở đào tạo này sau quá trình học tập tại nước ngoài. Ðiều
đáng nói là sau khi trở về, vị tiến sĩ trẻ này đã góp phần thành lập nên một trong
những ngành khoa học hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Một trong các lý do phải rời
bỏ nơi chị đã dành nhiều tâm huyết, chính là việc nhà trường không dành cho
chị bất cứ ưu đãi nào khi vẫn buộc chị phải tham dự kỳ thi tuyển dụng công
chức. Ðiều này cho thấy con đường "cầm máu" những "vết thương" chất xám
cần phải được bắt đầu từ hai phía. Một mặt, như đã được nói, từ phía cơ sở đón
nhận người lao động trở về từ nước ngoài, cần phải có một hệ thống chính sách
cân bằng được giữa nhiều mặt: tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khoa học;
cải thiện hệ thống đãi ngộ (cả vật chất lẫn tinh thần) đồng thời với một hệ thống
kiểm soát hiệu quả công tác thật sự hữu hiệu, chính xác. Dẫu vậy, vẫn cần phải
nói rằng, trong hoàn cảnh của Việt Nam hay bất cứ một quốc gia nào có cùng
điều kiện kinh tế - xã hội như Việt Nam, những chính sách theo kiểu "trải thảm
đỏ tiếp đón" sẽ mãi mãi có một khoảng cách với các quốc gia phát triển. Ðến
đây, sẽ lại đặt ra vấn đề từ phía khác. Nhìn lại lịch sử Việt Nam, đã có không ít
giai đoạn chúng ta được chứng kiến cuộc trở về của những trí thức từ những nơi
đầy đủ nhất trên thế giới. Ðầu thế kỷ hai mươi trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp chúng ta đã có một thế hệ trí thức như thế, từ bỏ tất cả, không
phải chỉ tiện nghi, không phải chỉ vật chất, đãi ngộ, điều kiện mà quan trọng hơn
là từ bỏ cả chính "cái tôi", lột xác về tư tưởng để có thể trở về với Dân tộc và Tổ
quốc một cách đúng nghĩa.
13
Tài Liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.
Vietbao.vn
Tuoitre.com.vn
Laodong.com.vn
Wikipedia
5. “Chảy máu chất xám: Vấn nạn mang tính toàn cầu!”. Tạp chí Cộng
sản. Ngày 31 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2012.
6. “Chảy máu chất xám?”. Cổng thông tin Cafe. Ngày 11 tháng 2 năm
2011. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2012.
14