Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Luật hàng hải so sánh nghĩa vụ người chuyên chở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.46 KB, 5 trang )

LUẬT HÀNG HẢI
Đề tài: Lập bảng thống kê so sánh nghĩa vụ của người chuyên chở trong Công ước
Brussels, Quy tắc Hague – Visby, Công ước Hamburg, Bộ luật hàng hải VN 2015

ĐIỂM GIỐNG NHAU
1) VỀ MỤC ĐÍCH

Để đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi trong việc ký kết
hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển giữa
người gửi hàng và người vận chuyển cũng như nhằm
tránh những xung đột xảy ra khi hàng hoá bị mất mát,
hư hỏng thì việc xác định trách nhiệm của các bên đặc
biệt là trách nhiệm của người vận chuyển đối với hàng
hoá là vô cùng quan trọng;
Do đặc điểm hàng hoá được vận chuyển qua biên giới
2) VỀ THỜI HẠN TRÁCH trên biển của hai hay nhiều quốc gia, do đó đòi hỏi phải
NHIỆM CỦA NGƯỜI VẬN có những quy định chung thống nhất mang tính quốc tế
CHUYỂN
giữa các quy định nhằm mục tiêu cụ thể hoá trách
nhiệm của người vận chuyển.
Thời hạn trách nhiệm của người vận chuyển (Period of
Responbility) là trách nhiệm của người vận chuyển đối
với hàng hóa về mặt thời gian và không gian;
Theo quy định của Công ước Hamburg 1978 thì người
vận chuyển phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa kể
từ khi nhận hàng để chở ở cảng đi (cảng xếp hàng) cho
tới khi giao xong hàng cho người nhận ở cảng đến (cảng
3) VỀ NỘI DUNG TRÁCH dỡ hàng) (Điều 4);
NHIỆM CỦA NGƯỜI VẬN Khoản 1 Điều 170 của Bộ luật Hàng hải 2015 quy định:
CHUYỂN
“Trách nhiệm của người vận chuyển phát sinh từ khi


người vận chuyển nhận hàng tại cảng nhận hàng, được
duy trì trong suốt quá trình vận chuyển và chấm dứt khi
kết thúc việc trả hàng tại cảng trả hàng”;
Như vậy, Công ước Hamburg 1978 và Bộ luật hàng hải
2015 đều điều chỉnh trách nhiệm của người vận
4) VỀ CƠ SỞ TRÁCH NHIỆM chuyển tính từ thời điểm người vận chuyển đã nhận
hàng hoá từ người giao hàng và hoàn thành việc trả
hàng cho người nhận hàng;


Người vận chuyển chịu trách nhiệm về những thiệt hại
do hàng hóa bị mất mát hoặc hư hỏng cũng như do việc
chậm giao hàng; nếu sự cố gây ra mất mát, hư hỏng
5) VỀ GIỚI HẠN TRÁCH hoặc chậm giao hàng xảy ra trong khi hàng hóa đang
NHIỆM BỒI THƯỜNG
thuộc trách nhiệm của người vận chuyển (khoản 1 Điều
5 Công ước Hamburg, Điều 150, 152 Bộ luật Hàng Hải
2015);
Hàng hoá chỉ được chở trên boong nếu có thoả thuận
giữa người vận chuyển với người giao hàng hoặc theo
tập quán thương mại và phải được ghi rõ trong chứng
từ vận chuyển (Điều 9 Công ước Hamburg, Điều 172 Bộ
luật Hàng Hải 2015);
Công ước Hamburg cũng như pháp luật Việt
Nam đều xem “sự thiệt hại thực tế của hàng hóa” và
“lỗi” là cơ sở trách nhiệm của người vận chuyển. Lỗi của
người vận chuyển không thực hiện nghĩa vụ hay thực
hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ là lỗi suy
đoán. Tức là, người vận chuyển có trách nhiểm phải
chứng minh rằng họ không có lỗi, trong việc gây ra tổn

thất cho hàng hoá. Nếu họ không chứng minh được
6) VỀ MẤT QUYỀN GIỚI điều đó thì đương nhiên bị coi là có lỗi, trong việc gây ra
HẠN TRÁCH NHIỆM CỦA tổn thất về hàng hoá và phải có trách nhiệm bồi thường
NGƯỜI VẬN CHUYỂN
cho chủ hàng;
Một khi gây ra thiệt hại mà người vận chuyển không
chứng minh được lỗi có phải do mình gây ra về thiệt hại
mất mát, hư hỏng, giao chậm hàng hoá thì bản thân
họ phải có trách nhiệm bồi thường cho chủ hàng; như
vậy, thêm một điểm giống nhau nữa là cả pháp luật Việt
Nam và Công ước Hamburg điều có quy định về mức
giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển (Điều 6 Công
ước Hamburg, Điều 152 Bộ luật Hàng Hải 2015);
Đối với hàng hóa giao chậm:
Trách nhiệm của người vận chuyển được giới hạn số
tiền bằng 2,5 lần tiền cước của số hàng trả chậm, nhưng
không vượt quá tổng số cước phải trả theo hợp đồng
vận chuyển hàng hóa bằng đường biển (tham khảo tại
Khoản 4, Điều 152 Bộ luật Hàng Hải 2015);
Đối với hàng đóng trong container:


Nếu các kiện hàng, bao, gói hàng,... đóng trong
container có kê khai trên vận đơn thì mỗi kiện hàng,
bao, gói... được tính là một đơn vị hàng hóa bồi thường;
không kê khai thì không được coi là một đơn
vị hàng hóa đòi bồi thường. Trường hợp vỏ container
công cụ vận tải được dùng vận chuyển không do người
vận chuyển cung cấp thì mỗi công cụ được tính là một
đơn vị hàng hóa đòi bồi thường(khoản 2 Điều 6 Công

ước Hamburg, Khoản 2 Điều 152 Bộ luật Hàng Hải
2015);
Người vận chuyển mất quyền giới hạn trách nhiệm của
người vận chuyển nếu người khiếu nại hoặc người thứ
ba chứng minh được mất mát, hư hỏng hàng hoá là hậu
quả do người vận chuyển đã có hành vi cố ý gây mất
mát, hư hỏng, chậm trả hàng hoặc cẩu thả và biết rằng
việc mất mát, hư hỏng hoặc chậm trả hàng đó có thể
xảy ra (Điều 8 Công ước Hamburg, Điều 153 Bộ luật
Hàng Hải 2015)
ĐIỂM KHÁC NHAU
1) MIỄN TRÁCH NHIỆM

HAMBURG
Người vận chuyển được
miễn trách nhiệm trong các
trường hợp sau đây:
- Người vận chuyển không
phải chịu trách nhiệm về sự
mất mát, hư hỏng hoặc
chậm giao hàng do hỏa
hoạn tự nhiên không do
người vận chuyển gây ra
(khoản 4 Điều 5);
- Người vận chuyển không
chịu trách nhiệm về mất
mát, hư hại do bản chất của
hàng hóa dó gây nên như
sút cân, bệnh dịch,... (súc
vật sống) khi đã làm theo

chỉ dẫn (khoản 5 Điều 5);

BLHH 2015
Người vận chuyển được
miễn trách nhiệm trong
các trường hợp sau đây:
- Thiệt hại hàng hóa do
tàu biển không đủ khả
năng đi biển (người vận
chuyển có nghĩa vụ chứng
minh đã thực hiện nhiệm
vụ một cách mẫn cán) –
Khoản 1, Điều 151, Bộ
luật Hàng Hải 2015)
- Sự kiện khách quan:
+ Hiểm họa tự nhiên: Hoả
hoạn tự nhiên không do
người vận chuyển gây ra;
Thảm họa hoặc tai nạn
hàng hải trên biển, vùng
nước cảng biển mà tàu


- Người vận chuyển không
chịu trách nhiệm khi hàng
hóa bị mất mát, thiệt hại do
phải tiến hành cứu trợ trên
biển(khoản 6 Điều 5);
- Hàng hóa chuyên chở mà
người vận chuyển không

biết đó là hàng hóa nguy
hiểm (Điều 13);
Có thể thấy, Công ước
Hamburg 1978 hạn chế
phạm vi miễn trách nhiệm
cho người vận chuyển. Mọi
tổn thất, mất mát, hư hỏng
hoặc chậm giao hàng đều bị
suy đoán là lỗi của người
vận chuyển. Muốn thoát
trách nhiệm, người vận
chuyển cần chứng minh
rằng mình đã áp dụng mọi
biện pháp cần thiết, hợp lý
để tránh sự kiện gây ra mất
mát, hư hỏng hoặc chậm
giao hàng và những hậu
quả của nó hoặc các trường
hợp miễn trách nhiệm đã
liệt kê trong Công ước. Đặc
biệt, trong Công ước này
người ta loại bỏ trường hợp
miễn trách nhiệm cho
người vận chuyển đối với
những lỗi của thuyền
trưởng, thủy thủ, người làm
công cho người vận chuyển
trong điều khiển và quản trị
tàu. Có thể khi loại bỏ miễn
trách nhiệm này, người ta

nghĩ rằng điều kiện đi biển
hiện nay với nhiều trang
thiết bị hiện đại đã làm cho

biển được phép hoạt
động; Thiên tai;
+ Sự biến xã hội: Chiến
tranh; Hành động xâm
phạm trật tự an toàn công
cộng mà người vận
chuyển không gây ra;
Hành động bắt giữ của
người dân hoặc cưỡng
chế của Toà án; Hạn chế
về phòng dịch; Đình công;
Bạo động hoặc gây rối;
+ Chất lượng và kỹ thuật
hàng hoá: Hao hụt về khối
lượng, trọng lượng hoặc
mất mát, hư hỏng khác
của hàng hoá xảy ra do
chất lượng, khuyết tật ẩn
tỳ; Hàng hoá không được
đóng gói đúng quy cách,
không được đánh dấu ký,
mã hiệu đúng quy cách;
Khuyết tật ẩn tỳ của tàu
biển mà những người có
trách nhiệm không thể
phát hiện được;

- Mục đích cứu sinh nhân
đạo: Cứu người hoặc cứu
tài sản trên biển; Cần thời
gian để cấp cứu cho
thuyền viên hoặc người
trên tàu;
- Lỗi của người khác hoặc
không do lỗi của người
vận chuyển: Lỗi của
thuyền trưởng, thuyền
viên, hoa tiêu hàng hải
hoặc người làm công của
người vận chuyển trong
việc điều khiển tàu; Hành


động hoặc sự sơ suất của
người giao hàng, chủ sở
hữu hàng, đại lý hoặc đại
công việc của người đi biển diện của họ; Bất kỳ
đỡ vất vả và hoặc có nhiều nguyên nhân nào khác
cải thiện hơn;
xảy ra mà người vận
chuyển không có lỗi hoặc
không cố ý gây ra.

2) XU HƯỚNG QUYỀN LỢI

Xu hướng bảo vệ quyền lợi Xu hướng bảo vệ quyền
người gửi hàng

lợi cho người vận chuyển
Giới hạn trách nhiệm (Limited of Liability) là số tiền tối
đa mà người vận chuyển phải bồi thường cho một kiện
hàng hay một đơn vị hàng hóa, nếu tính chất và giá trị
của hàng hóa không được kê khai và ghi trên vận đơn;

Đối với hàng hóa mất
mát, hư hại:
Trách nhiệm của người vận
3) GIỚI HẠN TRÁCH NHIỆM
chuyển được giới hạn ở một
số tiền là835 SDR đối với
một kiện hay một đơn vị
hàng hóa hoặc 2.5 SDR đối
với một kilogram hàng hóa
cả bì tùy theo cách tính nào
có lợi do người khiếu nại lựa
chọn (Điều 6);

Đối với hàng hóa mất
mát:
Bồi thường bằng giá trị
đã khai báo;
Đối với hàng hóa bị hư
hỏng:
Bồi thường bằng mức
chênh lệch giữa giá trị
khai báo và giá trị còn lại
của hàng hóa. Giá trị còn
lai của hàng hóa được xác

định trên cơ sở giá thị
trường tại thời điểm và
địa điểm dỡ hàng cộng
thêm chi phí vận chuyển
đến cảng trảhàng (Điều
152);



×