Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC và Nhận thức bản thân về độc lập dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.3 KB, 16 trang )

1

CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1.

Khái niệm dân tộc ?
Đến với phần đầu của đề tài nghiên cứu, ta sẽ đi sâu tìm hiểu về những

khái niệm dân tộc được Mác- Lênin nghiên cứu, tìm tòi với sự chọn lọc, chắt
chiu để hình thành được khái niệm chung mang tính bao hàm, tổng quan nhất để
tạo tiền đề cho sự ra đời về những xu hướng phát triển và cương lĩnh dân tộc
mang tính thống nhất toàn vẹn về việc giải quyết vấn đề dân tộc trên thế giới.
Với sự phát triển của xã hội loài người, từ những hình thức cộng đồng
người trong xã hội thời xa xưa: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc,.. và cho đến nay đã hình
thành hoàn chỉnh xã hội chung loài người thì khái niệm dân tộc được thay đổi,
biến đổi phú hợp theo từng giai đoạn. Nhưng chính Lênin là người đã tổng hợp
và đề ra khái niệm dân tộc với sự chọn lọc những giá trị tinh hoa trong từng thời
kì đã hình thành được khái niệm dân tộc được mọi người biết đến và sử dụng
rộng rãi hiện nay. Và khái niệm dân tộc được làm rõ trên hai phương diện có
mối liên kết gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau được Lênin làm sáng tỏ.
Đầu tiên, Lênin đã đưa ra khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng
người trong xã hội mang tính cụ thể xác định và trong cộng đồng đó có những
sự gắn bó chặt chẽ bền vững về nhiều mặt. Điển hình là các cộng đồng có những
sinh hoạt kinh tế chung, thống nhất, gắn bó với nhau, phải có được ngôn ngữ
chung của một cồng đồng và hơn hết trong mỗi cộng đồng cần có những nét văn
hóa, bản sắc văn hóa riêng, đặc thù so với những cộng đồng khác. Từ đó các
cộng đồng ngày hoàn thiện và phát triển ngày càng cao dẫn đến sự ra đời của
dân tộc. Và sự ra đời mạnh mẽ và chỉnh chu này là do có sự kế thừa và phát huy
một cách chọn lọc từ các cộng đồng trước đó, đặc biệt là cộng đồng bộ lạc. Các
cộng đồng dân tộc đã có được những bài học kinh nghiệm về sự thành công


cũng như tan rã của các cộng đồng bộ lạc để từ đó xây đựng được một cộng
đồng dân tộc ổn định bền vững cho đến ngày nay. Thành công lớn nhất trong


2

việc hình thành được cộng đồng dân tộc là ý thức của các cá nhân, thành viên
trong cộng đồng ngày càng được nâng cao và hoàn thiện đã tạo nên sự gắn bó,
ràng buộc chặt chẽ hơn những hình thức cộng đồng trước đó. Trong đó, Việt
Nam là một quốc gia đáng tự hào khi từ thời xa xưa - thời trị vì cuả các vua
Hùng-nước Văn Lang ( Việt Nam ngày nay), chỉ là một cương vực nhỏ bé bao
gồm 15 bộ lạc sinh sống trong một xã hội giai cấp sơ kì chưa có sự thống nhất,
ràng buộc về nhiều mặt và nét đặc thù riêng của từng bộ thì cho đến nay Việt
Nam đã có tới 54 cộng đồng dân tộc cùng chung sống trong một xã hội với nền
XHCN ổn định bền vững, có những nét văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ
riêng trong từng dân tộc. Nhưng nhờ sự xuất hiện của nhà nước Văn Lang là sự
khởi nguồn cho sự hình thành và phát triển của quốc gia Việt Nam 54 dân tộc
ngày nay. Vậy với khái niệm thứ nhất Lênin đã làm sáng tỏ khái niệm dân tộc
trên phương diện các tộc người trong một cộng đồng chung thống nhất trên một
vùng lãnh thổ xác định.
Và khái niệm về dân tộc thứ hai được Lênin tiếp tục đề ra làm khai sáng,
sâu rộng về sự hình thành sự gắn bó chặt chẽ của nhiều cộng đồng dân tộc để
hình thành một cộng đồng dân chung hợp thành một đất nước, một quốc gia
hoàn chỉnh. Chính sự thống nhất giữa các dân tộc là điều kiện tất yếu để tạo nên
nhân dân của một quốc gia. Bên cạnh đó, các yếu tố phụ đã giúp cho nhân dân
có được sự ổn định và phát triển bền vững, chẳng hạn như phải có sự ràng buộc
về lãnh thổ chung giữa các cộng đồng, phải có nền kinh tế thống nhất , và có
được một ngôn ngữ chung cho một quốc gia, một dân tộc lớn. Và với những yếu
tố đó thì những nét truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh trong thời kỳ
dựng nước và giữ nước càng thể hiện sức mạnh của quốc gia cũng như tô đậm

bản sắc văn hóa của quốc gia đó. Chẳng hạn Việt Nam, mỗi một dân tộc tồn tại
trên đất nước này đã hợp lại với nhau tạo thành nhân dân của một quốc gia Việt
Nam độc lập cùng chung sống hòa bình trên một lãnh thổ chữ S rộng lớn và đã
xây dựng được ngôn ngữ chung như hiện nay. Các dân tộc cùng chung tay nhau
phát triển nền kinh tế, văn hóa và hợp sức đấu tranh xây dựng, bảo vệ nền độc


3

lập dân tộc Việt Nam. Với khái niệm này Lênin đã làm rõ sự hình thành dân tộc
của một quốc gia.
1.2.

Xu hướng phát triển dân tộc và vấn đề dân tộc trong xây dựng CNXH ?
1.2.1 Xu hướng phát triển của dân tộc
Khi nghiên cứu về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trong điều kiện của

chủ nghĩa tư bản , Lênin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng khách quan trong
phong trào dân tôc .
Trước tiên chúng ta cùng nhau tìm hiểu về xu hướng thứ nhất của MácLênin là như thế nào ? Theo như Mác-Lênin đề cập bản chất của xu hướng thứ
nhất là xu hướng thức tỉnh ý thức dân tộc hình thành các quốc gia dân tộc độc
lập. Với sự chín mùi của ý thức dân tộc , sự thức tỉnh về quyền sống , các cộng
đồng dân cứ muốn tách ra để thành lập một quốc gia độc lập. Xu hướng này biểu
hiện nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản đưa đến sự ra đời của dân
tộc. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa xu hướng này biểu hiện thành phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức. Chính vì thế có thể
nói trong xu hướng này nhiều cộng đồng dân cư đã ý thức được rằng chỉ trong
cộng đồng dân tộc độc lập thì họ mới có quyền quyết định con đường phát triển
của mình . vì vậy xu hướng thứ nhất là xu hướng chống lại ách áp bức , nô dịch
dân tộc, kích thích đời sống dân tộc và các phong trào dân tộc.

Sau khi tìm hiểu xu hướng đầu tiên , chúng ta cùng tìm hiểu xu hướng thứ
hai , đó là xu hướng xích lại gần nhau của các dân tộc (Liên hiệp giữa các dân
tộc). Do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất , của khoa học công
nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản làm xuất hiện nhu cầu
xóa bỏ hàng rào ngăn cách giũa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia, quốc
tế giữa các dân tộc , làm cho các dân tộc xích lại gần nhau. Xu hướng này trong
quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản đã bị biến tướng thành chính sách xâm lược
, nô dịch dân tộc . Và ngày nay toàn cầu hóa hội nhập hợp tác quốc tế đang là
xu hướng tất yếu không thể tránh khỏi đối với tất cả các quốc gia dân tộc


4

Hai xu hướng phát triển dân tộc biểu hiện như thế nào nếu chúng ta xét
chúng ở những điều kiện khác nhau . Ở quốc gia xã hội chủ nghĩa , ở thế giới …
chúng khác nhau ra sao ?
Nếu xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc :
Xu hướng thứ nhất biểu hiện sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và
phồn vinh của bản thân dân tộc mình.
Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng
đồng quốc gia xích lại gần nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời
sống.
Ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng phát huy tác động cùng
chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng
đồng quốc gia và đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở
tự nguyện, bình đẳng giữa các dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh.
Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất
nổi bật.
Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xoá bỏ
ách đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận mệnh của

dân tộc mình, bao gồm quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát
triển của dân tộc, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những
mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại – mục tiêu độc lập dân tộc.
Xu hướng thứ nhất biểu hiện trong phong trào giải phóng dân tộc thành
sức mạnh chống chủ nghĩa đế quốc và chính sách của chủ nghĩa thực dân mới
dưới mọi hình thức. Xu hướng này cũng biểu hiện trong cuộc đấu tranh của các
dân tộc nhỏ bé đang là nạn nhân của sự kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc, đang
bị coi là đối tượng của chính sách đồng hoá cưỡng bức ở nhiều nước tư bản.
Thời đại ngày nay còn có xu hướng các dân tộc muốn xích lại gần nhau để
trở lại hợp nhất thành một quốc gia thống nhất theo nguyên trạng đã được hình


5

thành trong lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức hút các dân tộc vào các liên minh
được hình thành trên những cơ sở lợi ích chung nhất định.
1.2.2. Vấn đề dân tộc trong xây dựng xã hội chủ nghĩa .
Một khi nói đến dân tộc chúng ta đã bàn đến : Thế nào là dân tộc ? Xu
hướng phát triển của nó ? Nhưng dân tộc có những vấn đề gì trở ngại cần giải
quyết và khắc phục hay không ? Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu vấn đè dân tộc
trong chủ nghĩa Mác-Lênin .
Ngày nay toàn cầu hóa hội nhập hợp tác quốc tế đang là xu hướng tất yếu
không thể tránh khỏi đối với tất cả các quốc gia dân tộc
Nội dung của vấn đề dân tộc, trước tiên là quan hệ giữa các tộc người
trong một xã hội nằm trong khuôn khổ một quốc gia dân tộc về các lĩnh vực:
kinh tế, xã hội, văn hóa, ngôn ngữ… và những vấn đề này thường kết hợp với
những lợi ích giai cấp, nên các phong trào dân tộc đều mang tính giai cấp sâu
sắc. Mỗi giai cấp đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp mình trong quan niệm và
tham gia phong trào dân tộc
Đối với các nước tư bản chủ nghĩa thì giai cấp thống trị luôn lợi dụng vấn

đề dân tộc để phục vụ cho lợi ích của họ , vì thế quan hệ dân tộc và quan hệ giai
cấp tách rời nhau, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp tách rời nhau.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa thì bao giờ quan hệ dân tộc và quan hệ
giai cấp cũng gắn bó với nhau , giải quyết vấn đề dân tộc cũng là giải quyết vấn
đề giai cấp và ngược lại .
Sau cuộc cách mạng Tháng Mười Nga một thời đại mới đã xuất hiện-thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội .Sự quá độ lên chủ nghĩa xã
hội luôn gắn liền với các quyền tự do, bình đẳng, đoàn kết, hữu nghị giữa người
với người luôn được thực hiện .
Sau thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản, giai cấp công nhân đã trở thành
giai cấp cầm quyền, đây là tiền đề nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng xã hội chủ
nghĩa tiến đến phát triển dân tộc xã hội chủ nghĩa.


6

Dân tộc xã hội chủ nghĩa xuất hiện khi có sự cải tạo xây dựng từng bước
cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ theo nguyên lý chủ ngĩa xã hội khoa học.
Cùng với đó dân tộc xã hội chủ nghĩa cũng có thể ra đời trên sự toàn diện
ở mọi lĩnh vực từ chính trị kinh tế văn hóa-tư tưởng .
Về chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn có sự vận
động mới theo hướng ngày càng tiến bộ và văn minh. Với hai xu hướng khách
quan trên luôn tác dụng cùng chiều nhau , cùng bổ sung cho nhau, hỗ trợ lẫn
nhau trong một cộng đồng . Và quan hệ dân tộc chính là biểu hiện của hai xu
hướng khách quan trên.
Về kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những điều
kiện thuận lợi để xây dựng mối quan hệ dân tộc một cách bình đẳng, cùng hợp
tác, giúp đỡ lẫn nhau. Cùng với sự xích lại gần nhau với tiêu chí tự nguyện bình
đẳng nhằm giúp cho mỗi dân tộc nhanh tiến tới phồn vinh hạnh phúc. Muốn có
một dân tộc phát triển nhanh chóng, chúng ta cần tận dụng tối đa điều kiện khai

thác tiềm năng của dân tộc mình đồng thời nhận sự giúp đỡ của các dân tộc khác
và tiềm năng của dân tộc đó.
Về văn hóa-tư tưởng trong quá trình xây dựng xã hôi chủ nghĩa với sự
xích lại gần nhau của các dân tộc đã làm cho các giá trị tinh hoa của các dân tộc
hòa nhập , bổ sung cho nhau càng làm phong phú thêm giá trị chung của các
quốc gia dân tộc. Từ đó chúng sẽ là cơ sở để các dân tộc liên kết chắc chẽ , bền
vững hơn.
Tóm lại: Xã hội mới từng bước tạo ra những điều kiện để xây dựng quan
hệ hợp tác giữa các dân tộc.
Cùng với sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc gắn với sự phát triển của
cộng đồng dẫn đến sự thống nhất của các dân tộc .
Tuy vậy: Dù các dân tộc có đi đến thống nhất nhưng vẫn giữ gìn tinh hoa,
bản sắc của từng dân tộc .
1.3.

Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc ?


7

Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và
dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm phong trào cách mạng thế giới trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc, Lênin đã đưa ra Cương lĩnh Dân tộc với 3 vấn đề chính
bao gồm:
Một là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng liêng của các dân tộc.
Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao hay
thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh
tế, chính trị, văn hóa, ngôn ngữ bất cứ dân tộc nào.

Công dân của các dân tộc đều có quyền tham gia quản lí nhà nước và xã
hội, tham gia vào bộ máy nhà nước, tham gia thảo luận, góp ý các vấn đề chung
của đất nước.Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các
dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế, trong
đó việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các
dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trong chính sách phát triển kinh tế, không có sự phân biệt giữa các dân tộc,
nhà nước luôn quan tâm đầu tư phát triển kinh tế đối với tất cả các vùng, đặc
biệt ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Để rút ngắn khoảng
cách chênh lệch về kinh tế giữa các vùng, nhà nước ban hành các chính sách
phát triển kinh tế-xã hội đối với các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân
tộc và miền núi, thực hiện chính sách tương trợ, giúp nhau cùng phát triển.
Hai là các dân tộc được quyền tự quyết:
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự quyết
định con đường phát triển kinh tế, chính trị – xã hội của dân tộc mình. Quyền
dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân
tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình
đẳng.
Tất cả các dân tộc đều đều có quyền tự lựa chọn đối tác phù hợp với chính
sách phát triển của từng quốc gia và tự do định hướng theo nhu cầu của dân tộc


8

Khi xem xét gỉai quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân: ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết
đấu tranh chống lại những mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu
bài để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc cần có chính sách quốc phòng chặt chẽ, phòng tránh triệt để
những bộ phận nội gián phản loạn làm ảnh hưởng đến bộ máy dân tộc và chia rẽ

nội bộ quốc gia.
Ba là liên hiệp công nhân giữa các dân tộc:
Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản trong “Cương lĩnh dân tộc” của
V.I.Lênin. Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân,
phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp.
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn
kết các tầng lớp nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, tiến tới hoàn thành sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công
nhân.
Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Nó có vai trò quyết định trong việc xem xét, thực
hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây cũng là
yếu tố tạo nên sức mạnh đảm bảo cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các
dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Đây là nội dung quan trọng và là giải pháp để liên kết các nội dung của
cương lĩnh thành một chỉnh thể, làm cho vấn đề dân tộc và quốc tế gắn bó chặt
chẽ với nhau theo tinh thần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân
chính.
Nhìn chung, Cương lĩnh dân tộc của Lênin đã có những tác dụng tích
cực cho các nước trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là cơ sở
cho đoàn kết công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc; đoàn kết
giai cấp công nhân gắn với phong trào giải phóng dân tộc giúp cho các nước


9

bị thực dân, đế quốc xâm lược có lối thoát trên cơ sở đó tạo điều kiện cho
cách mạng vô sản ở các nước sớm nổ ra.
Đồng thời, cương lĩnh còn giúp cho các nước khi giai cấp công nhân và

nhân dân lao động giành được chính quyền, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với cương lĩnh mà Lênin đã nêu ra.
CHƯƠNG 2
NHẬN THỨC CỦA BẢN THÂN VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
2.1. Độc lập là gì ? Quá trình hội nhập quốc tế hiện nay diễn ra như thế nào?.
Không thua kém bất cứ quốc gia, lãnh thổ nào trên thế giới, trải qua nghìn
năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam ta đã nhận thức sâu sắc được
giá trị của chủ quyền dân tộc. Để có được chủ quyền ấy, nhất là quyền độc lập
dân tộc thì đã bao xương máu và nước mắt của thế hệ đi trước phải đổ xuống,
giúp ta có được sự bình yên ấm no như ngày hôm nay. “Độc lập” là 2 từ mà dân
tộc ta đã khát khao, chờ đợi suốt ngàn năm đô hộ của giặc phương Bắc tiếp đó là
hơn 100 năm làm thuộc địa cho chủ nghĩa đế quốc và thực dân; nó còn được chủ
tịch Hồ Chí Minh đúc kết trong một câu nói ngắn gọn nhưng lại là một chân lý
khẳng định giá trị to lớn: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Chính vì vậy 2
chữ “độc lập” có ý nghĩa vô cùng quan trọng và to lớn cho thế hệ thanh thiếu
niên hiện nay và cả thế hệ mai sau.
Thật đúng là như vậy lịch sử hào hùng và đầy bi thương đã chứng minh
cho điều đó, không có độc lập thì cũng sẽ không có tự do, hạnh phúc, cuộc sống
đầy khó khăn và muôn điều trắc trở. Vậy nên thế hệ chúng ta phải hiểu được độc
lập là gì và tầm quan trọng của nó cho sự hội nhập quốc tế hiện nay như thế
nào?
2.1.1 Độc lập là gì ?
Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia bởi
chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩ là có chủ quyền tối cao. Độc lập có thể


10

là tình trạng ban đầu của một quốc gia mới xuất hiện, nhưng nó thường là một

sự giải phóng từ sự thống trị. Độc lập cũng có thể nói theo nghĩa phủ định: là
tình trạng không bị điều khiển, cai trị bởi một thế lực khác thông qua chủ nghĩa
thực dân, hay sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc. Độc lập giành được nhờ
việc chống lại thực dân hóa, chống lại sự chia cắt. Độc lập sẽ giúp cho nhân dân
sống ấm no hạnh phúc, không sợ hãi về những gì chiến tranh, sự xung đột, bạo
loạn xảy ra.
Chính là như vậy, độc lập chính là điều kiện của tự do, tự chủ, là khởi
nguồn cho hạnh phúc. Đất nước có độc lập mới có quyền tự chủ, khẳng định chủ
quyền quốc gia, dân tộc, tự quyền quyết định hình thức, phương hướng xây
dựng và phát triển đất nước sao cho hợp lý. Vì vậy nên một quốc gia có độc lập
mới có quyền quyết định hội nhập quốc tế. Thế nên giờ đây chúng ta cần phải
tìm hiểu và nhận thức được hội nhập quốc tế là gì, diễn ra như thế nào? Từ đó
chúng ta mới có thể hiểu rõ mối liên hệ của nó với độc lập là sao?
2.1.2 Hội nhập là gì ? Quá trình hội nhập diễn ra như thế nào ?
Đầu tiên ta cùng tìm hiểu hội nhập quốc tế là gì ? Hội nhập có nguồn gốc
từ liên kết (theo ngữ nghĩa) với nghĩa chung nhất là hành động hoặc quá trình
gắn kết các phần tử riêng rẽ với nhau, hợp chung các bộ phận thành một chỉnh
thể – nhất thể, và kết hợp các thành phần khác lại với nhau. Hội nhập quốc tế là
sự thúc đẩy hợp tác cùng nhau phát triển của các quốc gia trong khu vực và trên
thế giới, tạo nên một mối liên hệ gắn kết, bền vững với nhau. Hội nhập quốc tế
là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ
giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là động lực
hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Ở nước ta thuật ngữ “ Hội nhập quốc tế”
trong những năm gần đây đã dần dần trở thành ngôn từ khá quen thuộc. Ở công
sở, nhà trường, nơi công cộng hay cả vùng nông thôn miền núi xa xôi người ta
đều sử dụng nó một cách rất thông dụng, tuy nhiên lại rất ít người hiểu được ý
nghĩa của nó. Việc vận động tham gia quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
của nước ta hiện nay đang ngày càng được vận động và thúc đẩy phát triển một



11

cách toàn diện hơn, nó có ý nghĩa quan trọng cho việc xây dựng chính sách,
chiến lược toàn cầu hóa xây dựng và phát triển của đất nước ta trong tương lai.
Sau khi đã hiểu rõ được khái niệm, ý nghĩa của việc hội nhập quốc tế là
gì, giờ đây chúng ta cùng tìm hiểu quá trình, cách thức diễn ra sự hội nhập quốc
tế của đất nước ta hiện nay như thế nào ?
Sau khi trải qua chiến tranh thế giới thứ hai xong, bắt đầu bước vào thời
kỳ chiến tranh lạnh thì sự hội nhập quốc tế phát triển một cách mạnh mẽ và
nhanh chóng, không ngừng gia tăng. Nó được hoạt động trên nhiều lĩnh vực,
diễn ra trên nhiều cấp độ khác nhau như : song phương, đa phương, vùng lãnh
thổ, khu vực, liên khu vực và hơn nữa là trên phạm vi toàn cầu. Bây giờ chúng
ta sẽ xét trên hai phạm vi khu vực và toàn cầu.
Ở cấp độ trên toàn thế giới, nổi bậc nhất là sự ra đời của Liên Hợp Quốc
với số lượng thành viên đông đảo, khắp các nước trên thế giới. Sau đó là sự phát
triển dần đến hội nhập về kinh tế, thị trường thương mại và thế là tổ chức với
quy mô toàn cầu khác ra đời đó là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Từ sau
khi Chủ nghĩa Đế quốc lần lượt thất bại, các nước thuộc địa lần lượt giành độc
lập thì quyền của con người, quyền được làm người thể hiện ngày càng rõ, từ đó
các tổ chức bảo vệ quyền con người ra đời ngày càng nhiều như: Tổ chức Y Tế
thế giới (WHO), Quỹ Nhi Đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), Liên đoàn dân chủ
phụ nữ thế giới (WIDF), … Từ đó đã cho ta thấy được quá trình hội nhập diễn ra
vô cùng mạnh mẽ trên phương diện toàn cầu suốt từ thế chiến 2 cho đến hiện
nay.
Ở cấp độ khu vực thì hàng loạt các tổ chức khu vực ra đời nhằm tạo ra
mối liên kết hợp tác cùng nhau phát triển về nhiều lĩnh vực quan trọng, đặc biệt
là lĩnh vực kinh tế. Các tổ chức này đa phần các thành viên là các nước ở gần
nhau, trong một khu vực về mặt địa lý, nhằm hợp tác, thúc đẩy cùng nhau phát
triển hơn về nhiều phương diện. Một số tổ chức khu vực nổi tiếng trên thế giới
như Liên minh Châu Âu (EU), Tổ chức thống nhất Châu Phi (OAU), Hiệp hội

các nước Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức các nước Châu Á – Thái Bình


12

Dương (APAC),… Vậy nên có thể nói sự phát triển về hội nhập quốc tế trên cấp
độ khu vực cũng được phát triển mạnh mẽ.
Sự phát triển vô cùng mạnh mẽ của quá trình hội nhập quốc tế mang lại
nhiều hướng tích cực khác nhau. Tất cả các tổ chức trên thế giới đều có chung
các đặc điểm giống nhau dựa trên thực tiễn và lý luận, trong đó có bốn đặc điểm
chính và vô cùng quan trọng sau:
Đầu tiên là quá trình hội nhập quốc tế bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, nhưng
không dừng lại ở đó nó còn diễn ra trên nhiều phương diện, lĩnh vực phát triển
khác mà đôi bên cùng có lợi. Thực tế đã cho ta thấy rằng quá trình hội nhập
quốc tế diễn ra ở nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị, quốc
phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và một số lĩnh vực khác. Về lý luận sẽ cho thấy
sự liên kết, hợp tác kinh tế sẽ dần dần dẫn đến quốc tế hóa đời sống trên các mặt
lĩnh vực khác, hình thành các chuẩn mực chung trong đời sống quốc tế trên toàn
bộ các lĩnh vực.
Không dừng lại ở đó, quá trình hội nhập tế là một quá trình không giới
hạn về thời gian. Điều đó có nghĩa là sự hội nhập không bao giờ dừng lại khi trải
qua bao năm tháng thời gian mà nó càng ngày càng liên kết chặt chẽ hơn, phát
triển hơn, mạnh mẽ hơn. Nó không bao giờ có một giới hạn nhất định vậy nên
sự hội nhập không bao giờ có hai chữ là “hoàn thành”. Nó vẫn luôn luôn tiếp tục
và ngày càng tiến bộ hơn qua thời gian.
Về bản chất, hợp tác song phương, nếu dựa trên cơ sở các luật lệ, chuẩn
mực chung thì cũng có đầy đủ tính chất của sự hội nhập quốc tế. Gần đây đã cho
thấy rằng khái niệm hội nhập đã chuyển từ cấp độ quốc tế mở rộng hơn thành
cấp độ quốc gia, là sự hội nhập ngay bên trong quốc gia đó. Tuy nhiên hội nhập
bên trong cũng là một yếu tố nền tảng với các chính sách đối nội để rồi từ đó

thực hiện đối ngoại là mở rộng ra trên hợp tác quốc tế. Vậy nên hội nhập quốc tế
không chỉ diễn ra thông qua việc tham gia các cơ chế hợp tác đa phương mà còn
trên nhiều bình diện.


13

Và cuối cùng, đặc điểm mà mọi tổ chức, liên minh, khu vực phải có đó là
bản chất của sự hội nhập quốc tế là quá trình xây dựng các luật lệ chuẩn mực
chung. Đây cũng chính là đặc điểm phân biệt sự hội nhập quốc tế với các hội
nhập khác như trao đổi, tham vấn, phối hợp chính sách, liên kết quốc phòng,…
Nói cách khác hội nhập là một hình thức hợp tác quốc tế ở trình độ cao gắn với
các chuẩn mực chung, luật lệ giữa các nước. Các nước trong tổ chức, liên minh
phải thực hiện đúng các chuẩn mực, luật lệ đã đề ra để có thể giữ vững sự hợp
tác này cho hiện tại và mai sau.
2.1.

Nhận thức bản thân về độc lập dân tộc trong quá trình hội nhập quốc

tế
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và
cũng là lợi ích căn bản của quốc gia. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản này
của cách mạng, lợi ích căn bản này của đất nước, trong bối cảnh thế giới ngày
nay, chúng ta cần giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế.
Độc lập, tự chủ là khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc. Giữ vững độc
lập, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong chính là nền tảng của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Song, độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt
lập, đóng cửa với thế giới, vì điều đó không phù hợp với phương hướng phát
triển của thời đại, sẽ không thể phát triển và tất yếu sẽ làm suy yếu nền độc lập,

tự chủ của đất nước.
Hội nhập quốc tế là phương thức phát triển đất nước trong thế giới ngày
nay. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa…
Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Giữ vững độc lập, tự chủ phải đi đôi với chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế… Chúng vừa tạo tiền đề cho nhau và phát huy lẫn nhau, vừa thống nhất với
nhau trong việc thực hiện mục tiêu cơ bản của cách mạng và lợi ích căn bản nêu


14

trên của đất nước ta, dân tộc ta, trước hết là mục tiêu phát triển và an ninh quốc
phòng.
Có giữ vững độc lập, tự chủ thì mới có thể đẩy mạnh hội nhập quốc tế, vì
khi không giữ được độc lập, tự chủ thì quá trình hội nhập sẽ chuyển hóa thành
quá trình hòa tan. Khi đó mục tiêu phát triển và an ninh quốc phòng đều không
đạt được.
Độc lập, tự chủ còn là chiếc neo về bản sắc. Càng hội nhập sâu rộng càng
đòi hỏi khẳng định bản sắc, càng có nhu cầu giữ gìn giá trị văn hóa, truyền
thống, tinh hoa của dân tộc. Bài học của Nhật Bản từ thời cải cách Minh Trị cho
thấy cách tân và giữ gìn bản sắc là hai quá trình song song, bổ sung cho nhau,
trong đó giữ được hồn cốt Nhật Bản đồng thời tiếp thu tinh hoa công nghệ và
văn hóa phương Tây là cơ sở để Nhật Bản tạo nên sự thần kỳ kinh tế.
Đồng thời, càng hội nhập quốc tế có hiệu quả thì càng có thêm điều kiện
thuận lợi và tạo được thế thích hợp để giữ vững độc lập, tự chủ thông qua việc
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo lập sự đan xen lợi ích với đối tác, nhằm
giữ vững và nâng cao vị thế của đất nước Việt Nam ở trong khu vực và trên

toàn thế giới, trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an
ninh…
Mặt khác, vừa giữ vững nền độc lập, tự chủ, vừa chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế còn là phương thức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiệu quả của hội nhập quốc tế được đo bằng mức độ thực hiện các mục tiêu phát
triển, an ninh và sự gia tăng vị thế của đất nước. Vì vậy, hội nhập quá nhanh
cũng như quá rộng trong khi năng lực tự chủ của đất nước còn yếu thì không thể
có hiệu quả.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
tăng lên và tất cả các quốc gia đều chịu sự ràng buộc nhất định của các nguyên
tắc chung. Tình hình đó dường như cho thấy chủ quyền quốc gia có mặt bị thu
hẹp, hay là các nước ít nhiều phải chia sẻ chủ quyền. Trên thực tế hoàn toàn
không phải như vậy. Không nước nào hy sinh lợi ích quốc gia của mình trong
việc phải chấp hành các nguyên tắc chung. Ngược lại, nước nào cũng tìm mọi


15

cách để thực hiện tối đa lợi ích của mình trong bối cảnh có sự ràng buộc nhất
định của các nguyên tắc đã đề ra và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước. Như
vậy, hội nhập quốc tế làm nảy sinh những hoàn cảnh và điều kiện mới mà tất cả
các nước, trong đó có nước ta, phải tính đến trong việc thực hiện chủ quyền
quốc gia và các lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc.
Càng hội nhập quốc tế sâu rộng thì sự tùy thuộc lẫn nhau giữa nước ta và
các nước sẽ gia tăng, và cũng sẽ xuất hiện ngày càng nhiều những ràng buộc bởi
các nguyên tắc chung. Đó là cái vạn biến của thời cuộc. Còn cái bất biến đối với
chúng ta luôn luôn là chủ quyền quốc gia, là lợi ích quốc gia, dân tộc.
Hội nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ
giữ vững độc lập, tự chủ. Sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước có thể chuyển

hóa thành sự lệ thuộc của nước này vào nước khác. Trường hợp này dễ xảy ra
đối với các nước nghèo, nước nhỏ trong mối quan hệ với các nước giàu, nước
lớn.
Hội nhập quốc tế cũng có thể tác động tới sự phân hóa xã hội của từng
nước, khi lợi ích từ việc hội nhập được phân chia khác nhau đối với các nhóm
khác nhau trong xã hội, và từ đó góp phần làm trầm trọng thêm các vấn đề xã
hội. Hội nhập quốc tế không hiệu quả sẽ làm suy giảm độc lập, tự chủ, suy giảm
chủ quyền quốc gia.
Để hội nhập có hiệu quả, không thể tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ và quan
niệm về độc lập, tự chủ theo kiểu nhất thành bất biến. Tuyệt đối hóa hay quan
niệm cứng nhắc về độc lập, tự chủ sẽ ngăn cản hội nhập, bỏ lỡ thời cơ hoặc làm
giảm hiệu quả của hội nhập và do đó sẽ tác động tiêu cực trở lại tới độc lập, tự
chủ. Mặt khác, nếu không chủ động, sáng tạo tìm ra những phương thức mới
phù hợp với hoàn cảnh và các điều kiện hình thành từ quá trình hội nhập quốc
tế, thì việc bảo đảm độc lập, tự chủ cũng sẽ gặp nhiều thách thức.



×