Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

nếu nước nhà độc lập mà dân không hạnh phúc tự do thì độc lập không có ý nghĩa gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.28 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

***
BÀI TẬP LỚN

MÔN : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
GV : NGUYỄN HỒNG SƠN

Họ tên : Trần Diệu Linh
Mã sinh viên : 11152645
Lớp QTKD Thương mại 57A
Lớp tín chỉ 7
Đề bài : Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh : “ Nước độc lập mà người dân
không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Làm
rõ ý nghĩa luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.

HÀ NỘI ngày 15 tháng 10 năm 2016
1


MỤC LỤC
I.

MỞ ĐẦU ………………………………………………………………….... 3

II.

NỘI DUNG ………………………………………………………………… 5
1. Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của
hạnh phúc, tự do ……………………………………....................... 5
2. Hạnh phúc, tự do là giá trị của độc lập dân tộc ……………………. 7


3. Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

III.

KẾT LUẬN ……………………………………………………………... 13
Nguồn tham khảo ………………………………………… ……………... 14

Mở đầu
Trong suốt chiều dài bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của cha ông
ta, trải qua bao nhiêu hi sinh, mất mát, hẳn mỗi người dân Việt Nam đều thấu
2


hiểu giá trị to lớn của độc lập dân tộc. Nhưng liệu độc lập đã đủ chưa? Độc lập
có phải mục đích cuối cùng mà mỗi người dân Việt Nam hướng tới? Hay hạnh
phúc, tự do mới chính là mục đích ấy?
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là một vị lãnh tụ thiên tài, vừa là một danh
nhân văn hóa thế giới và một nhà lý luận, tư tưởng lớn của Cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự
kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. 71 năm đã trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập trên quảng trường Ba Đình lịch sử, khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiền thân của nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, một nền độc lập non trẻ. Giá trị của độc lập có thể coi là vô
giá, không gì có thể so sánh được. Nhưng thành quả đích thực mà độc lập mang
tới cho người dân là gì? Bác từng phát biểu một chân lí : “Nếu nước được độc
lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có

nghĩa lý gì.”
“Tự do” không phải là giá trị bất biến, tự nó luôn thay đổi theo thời gian
và theo bối cảnh xã hội. "Tự do" của 71 năm trước hẳn sẽ khác với những giá trị
của tự do ngày hôm nay. Ngày nay, nhân dân chỉ có được tự do đích thực khi
nào mà quyền lực của nhà nước bị giới hạn bởi một bản hiến pháp dân chủ được
phúc quyết bởi toàn dân, trong đó xác định rõ những quyền cơ bản, cũng như
xác định rõ việc người dân có quyền được lựa chọn, quyền thay đổi Quốc hội,
Chính phủ thông qua cuộc bầu cử chân chính. Chỉ khi quyền lực nhà nước bị
giới hạn, khi ấy những quyền tự do của người dân mới có điều kiện để được bảo
vệ và hiện thực hóa.Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải
được hưởng hạnh phúc, tự do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không
3


phải ai khác chính cụ Hồ đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối
cùng, là mong ước thẳm sâu nhất của mỗi người dân nước Việt.

Nội dung
4


1. Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh
phúc, tự do:
Năm 1911, khi Việt Nam đã hoàn toàn trở thành thuộc địa của thực dân
Pháp, nước mất độc lập, dân nô lệ, Hồ Chí Minh không hoàn toàn tán thành con
đường cứu nước của các bậc tiền bối. Trước Người, rất nhiều anh hùng dân tộc
đã bôn ba tìm đường cứu nước, từ Phan Bội Châu dựa vào Nhật để đánh Pháp –
“đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, Phan Châu Trinh dựa vào khoa học của
Pháp chấn hưng dân khí – “ chẳng khác gì xin giặc rủ lòng thương”, hay Hoàng
Hoa Thám mang hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam… nhưng kết quả chỉ là hai

chữ “thất bại”. Sau những kinh nghiệm đau thương này, Hồ Chí Minh tiếp tục
nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới, điển hình là ở Pháp và Mỹ. Tuy
nhiên, các cuộc cách mạng ở hai đất nước này đều không triệt để. Cuối cùng,
Người đến với chủ nghĩa Mác- Lênin dưới ánh sánh của cuộc cách mạng tháng
Mười. Người đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. “Chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Độc lập dân tộc không phải là điều mới mẻ trong lịch sử dân tộc và lịch sử
thế giới. Nhưng độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh lại hoàn toàn mới,
vì đó là một kiểu độc lập dân tộc được nâng lên một trình độ mới, một chất mới.
Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất là độc lập của Tổ quốc, tự do của
nhân dân. Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, Người đã chọn kiểu độc
lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đó là kiểu độc lập dân tộc làm
tiền đề và phải đi tới hạnh phúc, tự do.
“Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” là dòng tiêu ngữ của nước ta suốt 71 năm
qua, tuy đơn giản nhưng đó là “ham muốn tột bậc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
5


mặc, ai cũng được học hành”. Theo Người, trong điều kiện nước thuộc địa như
Việt Nam thì trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước
độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì
vậy độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì.
Với Hồ Chí Minh, nước có độc lập rồi thì dân phải được hưởng hạnh
phúc, tự do, vì hạnh phúc tự do là thước đo giá trị của độc lập dân tộc. Muốn có
hạnh phúc, tự do thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người
nhấn mạnh chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện

để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng
của mình, chăm lo cho con người và con người có điều kiện phát triển toàn diện.
Khi Hồ Chí Minh xác định giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản tức
là đã khẳng định độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Trong nền độc lập đó
mọi người đều phải được hưởng ấm no, hạnh phúc nếu không độc lập chẳng có
ý nghĩa gì. Bác đã nói: “ Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ
thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính
nhân văn cao cả và tính cách mạng triệt để của Người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cống hiến quý giá nhất
của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho
mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Chủ
nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình
đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì
hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng. Hạnh phúc, tự do
theo quan điểm Hồ Chí Minh là người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật
chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem lại.
2. Hạnh phúc, tự do là giá trị của độc lập dân tộc:
Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì
trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân
6


không hưởng hạnh phúc tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó
cũng chẳng có nghĩa lý gì. Hạnh phúc tự do là thước đo giá trị của độc lập.
Muốn có hạnh phúc tự do thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Người nhấn mạnh chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có
điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở
trường riêng của mình, có điều kiện để phát triển toàn diện. Khi Bác xác định
giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản tức là đã khẳng định độc lập

dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh không phải là câu trả
lời cho mong muốn chủ quan của con người theo quan niệm duy tâm, không
tưởng, mà là câu trả lời cho một sự vận động lịch sử hiện thực theo khái niệm
duy vật phê phán. Chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hiện thực, xuất phát từ thực
tiễn khách quan, từ hiện thực vận động của lịch sử, từ đặc điểm Việt Nam, một
nước vốn là thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển,
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội trong quan điểm Hồ Chí Minh không thể suy nghĩ chủ quan,
giáo điều, nóng vội, duy ý chí mà phải dựa trên cơ sở thực tiễn nước ta, đặc
điểm thế giới và xu thế của thời đại.
Theo quan diểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được
ấm no và sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao
động thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có
chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng,nghĩa là ai cũng phải lao động
và có quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một
cách thiết thực, cụ thể, dễ hiểu : “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho
nhân dân lao động thoát nạn, bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. “nước độc lập mà dân không hưởng
7


hạnh phúc tự do thì độc lập tự do cũng không có ý nghĩa gì”. “Chủ nghĩa xã hội
là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được
đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập
quán không tốt được dần dần được xóa bỏ”; “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng
cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”.
Nói tóm lại “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”.

Hạnh phúc tự do theo quan diểm của Hồ Chí Minh là người dân phải được
hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem lại. Đời
sống vật chất là trên cơ sở một nền kinh tế cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tăng trưởng kinh
tế, thu nhập cao “ăn ngon, mặc đẹp” chưa thể gọi là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa
xã hội là cùng với việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất, là phải không
ngừng nâng cao đời sống tinh thần. Trong điều kiện nước ta, nhiều khi đời sống
tinh thần, văn hóa phải đi trước “soi đường cho quốc dân đi; văn hóa lãnh đạo
quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Theo Hồ Chí Minh, nhân tố
nào biến nước Việt Nam lạc hậu thành một nước tiên tiến: “Có lẽ cần phải để
lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa
thực dân đã kìm hãm nhân dân chúng tôi trong vòng ngu muội để chúng dễ áp
bức. Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ” .
Trong đời sống tinh thần thì hàng đầu là phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Bởi chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự xây dựng lấy, đó
là công trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong
điều kiện đó, chỉ có phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì mới có sáng kiến
và động lực. Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ và để dân làm chủ. Theo Bác,
dân chủ là giá trị lớn nhất mà cách mạng do Đảng lãnh đại đem lại cho người
dân. Vì vậy, dân chủ trong chế độ dân chủ nhân dân tới chế độ xã hội chủ nghĩa
vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng.

8


Tóm lại, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội.
Chế độ xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh không chỉ là thước đo giá
trị của độc lập dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập
dân tộc và tự bảo vệ. Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có
một nền độc lập dân tộc thật sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc

tự do; chủ nghĩa xã hội chỉ có phát triển trên một một nền độc lập dân tộc thật sự
thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện.
3. Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay:
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại. Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ đó là một
quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới.
Thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước phát triển khác nhau với nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội cùng phát triển hội nhập, đan xen nhau. . Có thể
khẳng định, khi bước vào thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Bên
cạnh đó, "các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã
hội". Trong bối cảnh khó khăn đó, Đảng ta vẫn lạc quan khẳng định, "Chúng ta
có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững
vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng;
nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái,
cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất
quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và
phát triển của kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế là một thời cơ để phát triển”.
9


Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay,

Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng :
Từ năm 1996 đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội; tới năm
2010 đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, bước vào nhóm
nước có thu nhập trung bình. Trong giai đoạn 2001- 2010, kinh tế tăng trưởng
nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm
2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD gấp 3,26 lần so với năm 2000, năm 2011
khoảng 170 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1168 USD, năm
2014 ước tính khoảng 1900 USD/ người. Trong 5 năm 2011-2015, do sự tác
động của khủng hoảng tài chính thê giới, suy thoái kinh tế toàn cầu nên nền
kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng GDP bị giảm sút. Tuy vậy,
tốc độ tăng GDP bình quân vẫn ở mức khá, ước đạt 5,8%. Thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 5 năm 2006-2010 đạt gần 45 tỷ USD, vượt
77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấn
hớn 1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt
17,5%. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên, khu vực nông nghiệp
giảm xuống. Năm 2010, trong cơ cấu GDP, khu vực công nghiệp chiếm 41,1%,
khu vực dịch vụ chiếm 38,3%, khu vực nông nghiệp chiếm 20,6%. Kết cấu hạ
tầng ngày càng được xây dựng hiện đại, đồng bộ; nguồn nhân lực qua đào tạo
ngày càng tăng lên ( năm 2013 là 49%), đời sống nhân dân ngày càng được cải
thiện.
Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã rất quan tâm thực hiện các chính
sác xã hội vì hạnh phúc của con người, coi đây là thể hiện tính ưu việt, bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa và cũng là khắc phục mặt trái của cơ chế kinh tế thị
trường. Chính sách xã hội bảo đảm và không ngững nâng cao đời sống vật chất
của mọi thành viên xã hội về ăn, ở, đi lại, lao động, học tập, nghỉ ngơi, chữa
10


bệnh và nâng cao thể chất. Mỗi năm tạo bình quân 1,5 đến 1,6 triệu việc làm

mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Xây dựng và triển khai Luật Việc làm; nghiên cứu
xây dựng chương trình việc làm công.
Trong 30 năm đổi mới, chính sách nhất quán cuả Đảng và Nhà nước là
giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp, chính đáng;
chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người
nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước gỉam bình quân 1,52%/ năm. Năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 60% trước đổi mới xuống
còn 9,5%, năm 2013 còn 7,5%, phấn đấu đến năm 2015 còn dưới 5%. Thành tựu
về giảm nghèo của Việt Nam được Liên Hiệp quốc công nhận và đánh giá cao.
Đảng ta đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ,
coi phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng
đầu. Tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo thực hiện đồng bộ
các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp học
và ngành học. Mở rộng giáo dục mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục
tiểu học và trung học cơ sở. Phát triể mạnh dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp,
nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở
rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng
lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn
khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương
ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực
hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế.
Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện
nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập
kỷ qua. Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng
HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp
11


thứ 129 trên tổng số 182 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 116/182.

Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta có xu hướng phục vụ
sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn một số
nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam.
Tóm lại, sau 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô
được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và
ổn định. Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao
động và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày càng
khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của
đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng
vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn.

12


Kết luận
Từ sau khi đổi mới đất nước đời sống nhân dân cũng đã được cải thiện
nhiều. Đảng ta đã và đang xây dựng một đất nước của dân, do dân và vì dân.
Mặc dù người nghèo trong xã hội vẫn còn, các vùng xa xôi hẻo lánh của đất
nước còn nhiều khó khăn nhưng Đảng ta và Nhà nước lấy tư tưởng của Bác làm
kim chỉ nam cũng đang từng bước cố gắng khắc phục và cải thiện hơn.
Không thể quên được bài phát biểu ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa sâu xa
mà cụ thể của Bác tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến
quốc ngày 10/1/1946:“Chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết có giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay:
làm cho dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân có chỗ ở”. Chính những lời
dạy bảo thiết tha ấy đã thành những bài học sinh động cho mọi thế hệ sau, để

xây dựng và bảo vệ được quyền và lợi ích của dân trong mọi giai đoạn lịch
sử.Đảng ta hiện nay vẫn đang thực hiện lý tưởng của Bác, học tập và làm theo
tấm gương của Bác, quyết tâm xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh,
là chỗ dựa vững chắc cho người dân, không phụ lòng tin tưởng của dân, đem lại
cuộc sống ấm no, hạnh phục cho dân. Mặc dù gặp vô vàn khó khăn: khủng
hoảng kinh tế, chính trị bất ổn do sự chống phá của các thế lực thù địch, phản
động trong và ngoài nước nhưng Đảng vẫn đang cho thấy mình là người đầy tớ
trung thành của dân.
Đối với các bạn sinh viên, có thể coi các bạn là nguyên khí của quốc gia.
Các bạn phải nhận thức được rằng, nhiệm vụ của các bạn rất nặng nề. Phải tự
hào là mình có quyền tự do, mà không phải ai cũng có được điều đó, phải thấy
được công lao của người đi trước, phải thấy được truyền thống, tố chất của
người Việt Nam... để tin tưởng và đi tới. Hiện nay, đó chính là nhiệm vụ của
chúng ta: Phải xây dựng một đất nước tốt đẹp, phát triển, tự do, tự do cho từng
người và tự do cho cả đất nước.
13


Nguồn tư liệu:
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Sự thật, T4, tr.283
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.10, tr.392.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 70 – 71.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 70.
(5) Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh : Nxb Chính trị quốc gia, tr57, tr204
(6) />(7) />
14




×