Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Nghiên cứu xác định yếu tố hạn chế của đất bazan tái canh cà phê tại tỉnh Gia Lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 129 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

VŨ ANH TÚ

NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH YẾU TỐ HẠN CHẾ
CỦA ĐẤT BAZAN TÁI CANH CÀ PHÊ
TẠI TỈNH GIA LAI

Chuyên ngành: Khoa học đất
Mã số: 62 62 01 03
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Toàn
PGS.TS. Cao Việt Hà

HÀ NỘI - 2017


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cà phê là một trong những cây công nghiệp lâu năm có giá trị kinh tế cao ở
Tây Nguyên. Với điều kiện thiên nhi ên ưu đãi nên nơi đây trở thành vùng sinh thái
rất thích hợp với phát triển cà phê, đặc biệt là cà phê vối, hàng năm mang lại nguồn
thu nhập chính cho đa số người dân sống trong vùng . Vì vậy, sự phát triển và biến
động của cây cà phê có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế - xã hội của khu vực.
Tuy nhiên phát triển cà phê Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với nhiều
khó khăn do diện tích cà phê già cỗi với trên 25 năm tuổi, năng suất thấp dưới 1,5
tấn/ha, giá bán sản phẩm không bù đắp được phần chi phí đầu vào, sản xuất trên
những diện tích này không còn có lãi đòi hỏi phải được thay thế trồng mới. Theo
báo cáo của Cục Trồng trọt hiện nay cả nước có khoảng 86.000 ha trên 20 năm tuổi,
chiếm khoảng 15% tổng diện tích cà phê và dự báo diện tích này sẽ tăng lên trên
200.000 ha trong vòng 5 năm tới. Vì vậy, số diện tích cà phê cần được tái canh trong
thời gian tới là rất lớn (Cục Trồng trọt, 2013).


Quá trình tái canh diễn ra từ đầu những năm 2010 nhưng thực tế cho thấy khi
nhổ bỏ cà phê già cỗi để trồng lại trên đất đã qua một chu kỳ trồng cà phê, nhiều
diện tích cà phê tái canh chỉ tồn tạ i trong thời gian rất ngắn, sau 2-3 năm cây cà
phê thường sinh trưởng kém, vàng lá, thậm chí chết trên diện tích lớn, gây thiệt
hại cho người dân và xã hội. Để khắc phục tình trạng nói trên đã có một số
nghiên cứu tiến hành theo các hướng khác nhau nhưng tập trung chủ yếu vào
việc tìm kiếm các biện pháp kỹ thuật để hạn chế và phòng trừ các tác nhân được
cho là nguyên nhân chính gây bệnh cho cây cà phê, chưa đi sâu tìm hiểu quan hệ
giữa đất trồng với tình trạng xuất hiện bệnh vàng lá, thối rễ và chết của cây cà
phê. Đặc biệt chưa có một nghiên cứu nào xác định được tính chất của đất tái
canh cà phê, theo đó xác định được yếu tố hạn chế chính về vật lý, hoá học và
sinh học. Từ đó xác định các biện pháp kỹ thuật thích hợp để tái canh cà phê
thành công. Do vậy cho đến nay v iệc tái canh cà phê vẫn đang là thách thức đối
với sự ổn định và phát triển bền vững của ngành cà phê nước ta.
Theo số liệu thống kê năm 2014, diện tích cà phê của tỉnh Gia Lai có 79.122
ha, chiếm 13,8% diện tích cà phê Tây Nguyên. Tr ong đó diện tích cà phê già cỗi
cần t hay thế để trồng tái canh có 11.925 ha, chiếm 14 ,28% diện tích cà phê của
tỉnh . Trong những năm gần đây, tuy giá cả thị trường thế giới có nhiều biến động

1


nhưng cà phê vẫn là cây chủ lực trên địa bàn tỉnh Gia Lai, góp phần tăng thu
nhập và giải quyết phần lớn lao động trong tỉnh. Tuy nhiên tình trạng tái canh
cũng gặp những trở ngại tương tự như đã đề cập ở trên.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trên, việc nghiên cứu một số tính chất vật lý,
hóa học và sinh học của đất, qua đó xác định được yếu tố hạn chế về vật lý, hoá học
và sinh học đất bazan trồng tái canh cà phê tại Gia Lai và đưa ra được các biện pháp
kỹ thuật thích hợp để tái canh cà phê thành công sẽ rất có ý nghĩa về khoa học,
không những về mặt học thuật mà còn có giá trị thực tiễn giúp hàng vạn hộ nông

dân ổn định cuộc sống và cả ngành sả n xuất cà phê phát triển bền vững.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
- Xác định được thực trạng tính chất vật lý, hoá học và s inh học của đất
bazan tái canh cà phê.
- Xác định được yếu tố hạn chế về vật lý, hóa học và sinh học của đất bazan
tái canh cà phê.
- Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật khắc phục yếu tố hạn chế của đất bazan
trồng tái canh cà phê vối tại Gia Lai.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đất đỏ bazan trồng cà phê tái canh trên địa bàn tỉnh Gia Lai và cà phê vối .
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Xác định được yếu tố hạn chế chính trong đất tái canh cà phê tại Gia Lai
về hóa học là hàm lượng hữu cơ , kali dễ tiêu, magiê trao đổi, về vật lý là dung
trọng và về sinh học là sự xuất hiện của tuyến trùng Pratylenchus spp.,
Meloidogyne spp. và Rotylenchulus reniformis với mật độ cao, gây hại cà phê
vối .
- Cung cấp cơ sở khoa học để bổ sung quy trình tái canh cà phê trên đất
bazan ở Gia Lai.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa h ọc
Đã xác định được ngưỡng giá trị gây ảnh hưởng xấu đến cà phê tái canh của
các yếu tố hạn chế từ đất bazan của t ỉnh Gia Lai: ở tầng đất mặt, OM ≤ 2,64%,
K2Odt ≤ 3,82mg/100g đất, Mg 2+ ≤ 0,48me/100g đất, D ≥ 0,87g/cm3 và sự xuất
hiện của 03 loài tuyến trùng: Pratylenchus spp., Meloidogyne spp. và

2


Rotylenchulus reniformis. Đây là những cơ sở khoa học để đề xuất các biện pháp
khắc phục các yếu tố hạn chế từ đất cũng như hoàn thiện quy trình tái canh cà phê.

1.5.2. Ý nghĩa th ực tiễn
Bổ sung một số biện pháp canh tác tổng hợp như bón phân, xử lý thuốc bảo
vệ thực vật vào quy trình tái canh cà phê trên đất bazan tại Gia Lai.

3


PHẦN 2 . TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
2.1.1. Cà phê già cỗi, cà phê tái canh
Cho đến nay khái niệm về cà phê già cỗi vẫn chưa được định nghĩa một cách
chính thống nhưng theo Quy chuẩn nông nghiệp thì vòng đời cà phê là 25 năm.
Quy chuẩn này cũng phù hợp với quan điểm của Nguyễn Sỹ Nghị (1982) “nếu cà
phê trồng trên đất tốt sẽ cho n ăng suất cao liên tục 20 -25 năm”, hiểu theo cách
này thì cà phê mặc dù đã > 20 năm tuổi nhưng được trồng trên đất tốt và vẫn cho
năng suất cao thì chưa xếp vào cà phê già cỗi. Đoàn Triệu Nhạn (2011) chia đời
sống của cây cà phê ra 3 thời kỳ chính: Đầu tiên là thời kỳ sinh trưởng, nó bắt đầu từ
khi hạt cà phê nảy mầm và kết thúc khi cây đã trưởng thành. Thời kỳ này kéo dài từ
4 đến 7 năm, tùy theo loài cà phê và các điều kiện ngoại cảnh. Thời kỳ thứ hai là
thời kỳ sản xuất, đó là thời kỳ dài nhất, tới 15 đến 20 năm. Thời kỳ cuối cùng là thời
kỳ suy giảm về sinh lý, nó già cỗi và kết thúc với sự chết của cây cà phê. Cục Trồng
trọt (2013) cho rằng: “Diện tích cà phê hơn 20 năm hiện có 86 nghìn ha, chiếm
khoảng 15% tổng diện tích cà phê, ngoài ra có hơn 40 nghìn ha cà phê dưới 20
tuổi nhưng đã có biểu hiện già cỗi, sinh trưởng kém, ít cành thứ cấp, nhiều cành
không cho quả, năng suất và chất lượng thấp”. Theo đó, những diện tích dưới 20
tuổi mà có những biểu hiện nói trên cũng được xếp vào loại cà phê già cỗi. Nh ư
vậy, tiêu chí để xác định cà phê già cỗi không chỉ dựa vào tuổi mà còn dựa vào
tình hình sinh trưởng, năng suất và chất lượng nhân cà phê.
Cà phê tái canh là cà phê trồng mới trên đất đã trồng cà phê một chu kỳ, đã
thanh lý, nhổ bỏ cà phê già cỗi và trồng lại, bất luận đất ấy có luân canh hay

không luân canh với cây trồng khác. Đất trồng cà phê tái canh được gọi tắt là đất
tái canh cà phê.
2.1.2. Đất bazan
Đất bazan là tên gọi chung dùng để chỉ các loại đất phát triển từ các sản
phẩm phong hóa của đá bazan.
Kết quả nghiên cứu -phân loại và lập bản đồ đất Thế giới 1/5 triệu (FAO/
UNESCO và WRB) đã phân chia đất thế giới ra làm 30 nhóm (Soils Groups) với
209 đơn vị đất dưới nhóm (Units). Hệ thống phân loại này đã được chỉnh lý
nhiều lần (1974, 1988, 1994 và 1998). Trong đó đất phát triển trên sản phẩm
phong hoá của đá ba zan được phân chia thành 3 nhóm gồm: Ferralsols;

4


Phaeozems và Luvisols với tổng diện tích ước tính khoảng 1.540 triệu ha, chiếm
10,4% diện tích bề mặt trái đất.
Tại Việt Nam, trong quy trình điều tra, lập bản đồ đất tỷ lệ trung bìn h và lớn
(TCVN 9487-2012) đã đưa ra bản phân loại đất quốc gia, áp dụng cho việc xây
dựng bản đồ đất tỷ lệ lớn. Theo đó có 7 loại đất phát triển trên sản phẩm phong
hoá của đá bazan là: Đấ t đen trên sản phẩm bồi tụ của bazan (Rk), Đất nâu thẫm
trên sản phẩm đá bọt và đá b azan (Ru), Đất nâu tím trên đá b azan (Ft), Đất nâu
đỏ trên đá mác ma bazơ và trung tính ( Fk), Đất nâu vàng trên đá mác ma bazơ và
trung tính (Fu), Đất mùn đỏ vàng trên đá mácma trung tính (Hk) và Đất thung
lũng do sản phẩm dốc tụ trên bazan (Dk).
2.1.3. Yếu tố hạn chế trong đất
Liebig (1843) đã phát biểu định luật tối thiểu như sau: “Năng suất cây trồng
phụ thuộc vào nguyên tố phân bón có tỷ lệ thấp nhất so với yêu cầu của cây
trồng”(dẫn theo Nguyễn Văn Bộ, 2012), theo định luật này, người ta xem năng
suất cây trồng như mức nước trong thùng được cấu tạo bởi nhiều thanh gỗ, mỗi
thanh gỗ đại diện cho một nguyên tố phân bón và năng suất cây trồng phụ thuộc vào

thanh gỗ thấp nhất trong thùng. Theo định luật này thì yếu tố tối thiểu cứ luân phiên
nhau xuất hiện. Trong thực tế, khi hàm lượng một nguyên tố nào đó trong đất vượt
quá nhu cầu của cây, không cân đối với các nguyên tố khác thì chính nguyên tố đó
lại hạn chế tác dụng của các nguyên tố khác. Đến nay định luật tối thiểu có thể mở
rộng thành định luật yếu tố hạn chế như sau “Đất thiếu hay thừa một nguyên tố dinh
dưỡng dễ tiêu (nào đó) so với yêu cầu của cây trồng cũng đều làm giảm hiệu quả
của các nguyên tố khác và do đó làm giảm năng suất của cây” .
Nội dung của định luật này có thể mở rộng với tất cả các yếu tố ngoại cảnh
khác: nước, nhiệt độ, chế độ khí, ánh sáng, các yếu tố liên quan tới sự phát triển của
rễ cây (thành phần cơ giới đất, độ chặt, độ xốp)… và còn được mở rộng ra cả cho
trường hợp yếu tố dinh dưỡng hạn chế thừa, các độc tố ,....
2.2. YÊU CẦU SINH THÁI CỦA CÂY CÀ PHÊ
Theo Wilson (1987), Wrigley (1988), Raju (1993) thì đất đai và khí hậu là
hai yếu tố sinh thái quan trọng của đời sống cây cà phê.
2.2.1. Yêu cầu về khí hậu
2.2.1.1. Nhiệt độ
Cây cà phê thích hợp với nhiệt độ ôn hòa. Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất
chúng có khả năng sinh trưởng trong điều kiện biên độ nhiệt thay đổi lớn (8 -38oC).

5


Ngưỡng nhiệt độ thích hợp nhất cho các quá trình sinh trưởng phát triển là 20 -25oC,
vượt quá ngưỡng này (cao hơn hoặc thấp hơn) sẽ hạn chế quá trình sinh trưởng và
phát dục của cà phê, hoa nở không đều, dị dạng,.... Mỗi giống cà phê thích ứng với
ngưỡng nhiệt độ riêng, khả năng chống chịu với sự biến đổi của nhiệt độ (quá nóng
hoặc quá lạnh) ở các giống cà phê được sắp xếp theo thứ tự như sau: cà phê mít > cà
phê chè > cà phê vối (Nguyễn Sỹ Nghị, 1982).
2.2.1.2. Mưa và độ ẩm không khí
Cây cà phê có yêu cầu nước rất nhiều, nhất là trong điều kiện thâm canh cao.

Ngoài lượng nước cần cho sự kiến tạo sản phẩm, thì còn phần không nhỏ nữa là
nước bù đắp vào lượng tiêu hao do thoát hơi qua lá.
Thông thường, hàng năm vùng trồng cà phê cần lượng mưa khoảng 1.200mm
và phân bố đều trong 9-10 tháng (từ tháng 3 đến tháng 12 theo điều kiện sinh thái
khí hậu Việt Nam). Cây cà phê cũng cần có một thời gian khô hạn ngắn khoảng 1 -2
tháng để tích lũy dinh dưỡng và phân hóa mầm hoa.
Sau thời gian khô hạn trên nếu có mưa hay được tưới nước với lượng tương
đương 40mm thì quá trình nở hoa thụ phấn diễn ra thuận lợi, hoa nở đều và tập
trung. Sau khi ra hoa cây cần được cung cấp nước (mưa hay tưới) liên tục để đảm
bảo đủ ẩm cho cây nuôi quả và lặp lại chu kỳ sinh trưởng cành lá , đâm chồi nảy lộc
(Rolston, 1977; Terman, 1979; Rudolph and Voigt, 1986). Ẩm độ của không khí
phải trên 70% mới thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây cà phê. Đặc biệt là
giai đoạn cà phê nở hoa cần phải có ẩm độ cao, do đó tưới nước bằng biện pháp
phun mưa rất thích hợp cho quá trình nở hoa của cà phê. Ẩm độ quá thấp cộng với
điều kiện khô hạn, nhiệt độ cao dẫn tới hậu quả làm cho các mầm, nụ hoa bị thui,
quả non bị rụng.
2.2.1.3. Ánh sáng
Mặc dù cây cà phê có nguồn gốc từ rừng rậm châu Phi song nó vẫn có khả
năng phát triển trong điều kiện cường độ ánh sáng cao. Từ những năm 1946-1950,
các nước trồng cà phê châu Mỹ đã thử không trồng cây che bóng cho cà phê đã thu
hoạch năng suất cao gấp 3-5 lần so với trồng cây che bóng (Phạm Kiến
Nghiệp,1985).
Thực tế sản xuất ở nước ta hiện nay cho thấy: khi đã đáp ứng đầy đủ nước và
các biện pháp kỹ thuật canh tác khác (phân bón, phòng trừ sâu bệnh,....) các vườn cà
phê có thể giảm bớt mật độ cây che bóng và thậm chí phá bỏ hẳn, năng suất tăng rõ
rệt.

6



2.2.1.4. Gió
Cây cà phê hoàn toàn không thích hợp với điều kiện gió lớn. Bởi gió lớn sẽ
làm gãy thân, cành, rụng lá, long gốc và thậm chí làm rụng quả. Song nếu không có
gió nhiệt độ trong vườn tăng lên, hoạt động của sâu bệnh mạnh mẽ hơn, làm ảnh
hưởng xấu đến quá trình sinh trưởng của cây. Mùa hoa nở nếu thiếu gió sẽ không
thuận lợi cho việc thụ phấn nhất là đối với các giống cà phê vối thụ phấn chéo. Như
vậy vườn trồng cà phê cần có gió nhẹ để điều hòa tiểu khí hậu và tăng tỷ lệ thụ phấn.
Ở Việt Nam vùng nào cũng có gió lớn theo mùa như gió mùa Đông -Bắc, gió mùa
Tây-Nam kèm theo những cơn lốc xo áy làm đổ gãy cành cà phê.... Vì vậy để an toàn
thì việc trồng cây chắn gió tạm thời trong vườn cà phê kiến thiết cơ bản như muồng
hoa vàng, cốt khí,... hay trồng cây thân gỗ đầu nguồn như muồng đen, keo dậu, keo
lá tràm.... là biện pháp kỹ thuật quan trọn g, bắt buộc.
2.2.2. Yêu cầu về đất trồng
Cà phê là loại cây lâu năm có bộ rễ khoẻ, đòi hỏi đất tốt để phát triển và cho
năng suất cao. Các nghiên cứu về đất trồng cà phê đều cho rằng đối với cà phê tính
chất vật lý của đất quan trọng hơn tính chất hoá học. Điều này có thể được lý giải là
do nếu đất có chứa các chất dinh dưỡng thấp thì khi sử dụng để trồng cà phê có thể
thay đổi được bằng cách bón phân, cải tạo đất,... Tuy nhiên, đối với những đất có
tính chất vật lý kém thì cần phải trải qua một thời gian rất dài mới có thể cải tạo
được và nếu được thì đầu tư chi phí rất lớn . Theo FAO (2014), cây cà phê rất thích
hợp với đất có tầng dày lớn hơn 150 cm, những đất tầng mỏng ít thích hợp với trồng
cà phê. Theo Cục Trồng trọt (2013) yêu cầu tối thiểu về đất của cà phê là phải có
tầng dày trên 70 cm, tơi xốp, thoát nước nhanh, hàm lượng hữu cơ tầng đất mặt trên
2%. Theo Hoàng Thanh Tiệm và cs. (1999) với một số loại đất có tầng dày như đất
đỏ bazan, bộ rễ cà phê có thể ăn sâu và hút được nước, các chất dinh dưỡng khoáng
ở độ sâu tới 3,5 m. Ngược lại nếu tầng đất quá mỏng, bộ rễ cây cà phê không có khả
năng ăn sâu nên cây chịu hạn kém. Thực tế cho thấy một số vườn cà phê trồng trên
các loại đất bị kết von tầng đất mỏng, mặc dù trong 3 -4 năm đầu cây sinh trưởng
tốt, nhưng bước vào giai đoạn kinh doanh cây mới biểu hiện thiếu dinh dưỡng, khô
cành, rụng quả do bộ rễ kém phát triển. Do vậy tác giả cũng khuyến cáo cần phải

chọn đất tầng dày, tơi xốp.
Theo Sys et al. (1993) đất thích hợp để trồng cà phê là nhưng đất có đ ộ dày
tầng đất mịn sâu (thích hợp là > 100 cm, không thích hợp ở những đất < 50 cm), hơi
chua, tơi xốp, khả năng thấm, thoát nước tốt, đất có thành phần cơ giới từ thịt pha sét

7


tới sét, có hàm lượng mùn từ khá trở lên. Hệ thống rễ của cây cà phê có nhu cầu oxy
cao, vì vậy ở những đất có thành phần cơ giới sét nặng và những nơi thoát nước kém
thì cần hạn chế trồng cà phê. Cây cà phê vối có khả năng chịu úng tạm thời tốt hơn
cà phê chè và có thể trồng n hững nơi có độ dày tầng đất mỏng . Độ ẩm của lớp đất
bên dưới bề mặt cần được duy trì trong suốt thời gian trong năm, nhưng độ ẩm của
lớp đất mặt cần có những khoảng thời gian khô hơn trong năm, đặc biệt ở giai đoạn
ra hoa, bề mặt tại lớp đất mặt cần khô hơn để giảm sự ảnh hưởng của độ ẩm không
khí tới phát triển chồi hoa. Những nơi có cấu trúc đất không tốt, khả năng giữ ẩm
thấp có thể khắc phục bằng việc sử dụng các vật liệu che phủ. Cà phê cần được
trồng ở nơi có độ dốc vừa phải, ít chịu ảnh hưởng của xói mòn đất.
Cây cà phê không chỉ yêu cầu đất có tầng dày mà còn có độ tơi xốp cao, theo
FAO (2014), cây cà phê thích hợp nhất với những đất có thành phần cơ giới là sét
nhưng cấu trúc viên, tơi xốp và thoáng khí, không bị ngập úng, giữ nước tốt trong
những tháng mùa khô nhưng lại thoát nước tốt trong những tháng mùa mưa. Đất bị
nén chặt, thoát nước kém bộ rễ sẽ kém phát triển, đặc biệt là hệ thống rễ tơ bị thối
chết do thiếu ôxy. Nguyễn Sỹ Nghị (1982), Trần An Phong (1995), Phạm Dương
Ưng (1995) khi nghiên cứu về lý tính đất cho cây cà phê đều cho rằng tính chất vật
lý của đất quan trọng hơn là nguồn gốc địa chất. Loại đất tốt nhất cho trồng cà phê
là đất có tầng dày, tơi xốp, nước ngầm ở độ sâu tối thiể u 100 cm, độ xốp khoảng
64%, dung trọng 0,9 g/cm3 và tỷ trọng bằng 2,54.
Theo Vũ Khắc Nhượng (2009), Đỗ Trọng Hùng (2000) và Việt Chương
(2000) đất để trồng cà phê cần có độ sâu tốt (> 70 cm), vì cà phê là cây lâu năm, có

bộ rễ ăn khỏe, phát triển tốt và ăn sâu, giúp cây hấp thu dinh dưỡng và chịu hạn tốt.
Trên nền đất dày và được chăm sóc chu đáo thì không những cây cà phê sinh trưởng
tốt, năng suất cao mà còn kéo dài được tuổi thọ và chu kỳ kinh doanh. Ngoài ra, đất
phải có lý tính tốt, tức là phải tơi xốp, để bộ rễ và nhất là rễ lông hút phát triển, độ
tơi xốp cần đạt tối thiểu trên 50%, vừa dễ thoái nước khi mưa lớn vừa thuận lợi cho
bộ rễ phát triển. Rễ cây cà phê rất mẫn cảm với đất bí, chặt, đọng nước, rễ rất dễ bị
thối và ảnh hưởng xấu tới sinh trưởng của cây. Trong mùa khô đất cần có khả năng
giữ ẩm tốt. Đất bazan là loại đất đáp ứng được c ác yêu cầu này của cây cà phê , đây
là loại đất thích hợp nhất để trồng cà phê và các cây công nghiệp lâu năm khác.
Ngoài đất bazan, cà phê còn trồng được trên đất poóc -phia, trên đá phiến sét và biến
chất, đá sét vôi, đá vôi, phù sa cổ… Tuy các loại đất này kém đất bazan, nhưng nếu
được thâm canh tốt ngay từ đầu thì cà phê vẫn cho năng suất cao. Ngoài ra, do điều

8


kiện địa hình miền núi và cao nguyên, nên nhiều diện tích cà phê của ta, nằm trên độ
dốc nhất định, do vậy, dù trồng cà phê trên loại đất nào cũng phải có biện pháp
chống xói mòn bảo vệ đất như trồng theo đường đồng mức, gieo cây ngắn ngày họ
đậu chắn dòng chảy, trồng rừng đầu nguồn, bố trí trồng cà phê theo hình nanh
sấu…và nhất thiết phải tìm cách bồi dưỡng nâng cao độ phì cho đất trong quá trình
chăm sóc, khai thác cà phê.
Về mặt hóa tính, các kết quả nghiên cứu về nhu cầu phân bón đều khẳng định
đạm và kali là hai nguyên tố dinh dưỡng khoáng mà cây cà phê cần với lượng cao
nhất. Trong giai đoạn cây còn nhỏ, đang hình thành các bộ phận cành lá mới và sự
phát triển của bộ rễ thì nhu cầu của cây đối với lân và đạm cũng rất cao. Bên cạnh
hàm lượng tổng số các chất dinh dưỡng khoáng trong đất thì hàm lượng các chất dễ
tiêu là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá độ phì nhiêu thực tế của đất trồng, đặc biệt đối
với đất đỏ bazan là loại đất có khả năng cố định lân cao.
Dựa vào kết quả nghiên cứu nhiều năm, Viện Nghiên cứu Cà phê năm 1999 đã

đưa ra bảng phân cấp đất trồng đối với cây cà phê nh ư bảng 2.1.
Bảng 2.1. Phân cấp độ phì nhiêu của đất trồng cà phê
Cấp độ phì đ ất
Chỉ tiêu
I

II

III

Chất hữu cơ (%)

> 3,50

2,50 - 3,50

< 2,50

Đạm tổng số (%)

> 0,20

0,12 - 0,20

< 0,12

Lân dễ tiêu (mg/100g đất)

> 6,00


4,00 - 6,00

< 4,00

Kali dễ tiêu (mg/100g đất)

> 15,0

10,0 - 15,0

< 10,00

Nguồn: Hoàng Thanh Tiệm và cs. (1999)

Trong các yếu tố hoá học, hàm lượng chất hữu cơ trong đất là yếu tố quan
trọng để đánh giá độ phì nhiêu của đất trồng cà phê. Hàm lượng hữu cơ càng cao thì
đất càng tơi xốp. Theo Nguyễn Tử Siêm (1990), cà phê trên đất ferralsols muốn có
năng suất ổn định phải có hàm lượng hữu cơ trên 3,5% và trên các loại đất khác phải
trên 2,5%. Nếu đất có hàm lượng hữu cơ quá thấp thì trước khi trồng cà phê phải có
biện pháp cải tạo đất bằng các loại cây phân xanh, cây đậu đỗ,... hoặc phải đầu tư
nhiều phân chuồng lúc trồng mới để đảm bảo cho cây sinh trưởng tốt.
Theo Livens (1951), hàm lượng hữu cơ là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với đất
trồng cà phê Arabica. Hữu cơ cung cấp dinh dưỡng cho cây cà phê, tạo sự thoáng

9


khí và nâng cao tính đệm, làm giảm tác hại của độ chua của đất. Wrigly (1988) cũng
cho rằng cà phê Arabica ưa đất giàu hữu cơ , giàu chất dinh dưỡng, độ chua thấp, lân
ít quan trọng nhưng lại là yếu tố cần thiết, đặc biệt cho giai đoạn ra hoa.

Theo Nguyễn Sỹ Nghị (1982), các loại đất có hàm lượng đạm tồng số 0,15 0,20%, lân tổng số 0,08-0,10% (P205), kali tổng số 0,10-0,15% (K2O), hàm lượng
mùn tối thiểu là 2% tương đối thích hợp với cây cà phê. Tuy nhiên, cần xác định
hàm lượng dinh dưỡng dễ tiêu vì nó có hiệu lực thực tế đối với cây cà phê. Trong
nghiên cứu về “Đánh giá độ phì của đất trồng cà phê Tây Nguyên” Vũ Cao Thái
(1989) đã đưa ra khoảng pH và mức dinh dưỡng thích hợp cho cà phê như sau: pH
từ 3,5 đến 5,5, các bon hữu cơ > 1,62%, đạm tổng số N > 0,10%, lân dễ tiêu P 205 > 5
mg/100 g đất. Theo Nguyễn Tri Chiêm và cs. (1974), cây cà phê sinh trường tốt, cho
năng suất cao khi hàm lượng lân dễ tiêu trong đất lớn hơn 6 mg/100 g đất. Nguyễn
Tử Siêm và Lương Đức Loan (1987) thì cho rằng ngưỡng thích hợp về lân dễ tiêu
đối với cà phê là 8-10 mg P2O5/100 g đất. Ngoài các yếu tố đa lượng như N, P, K,
cây cà phê còn cần một số nguyên tố dinh dưỡng trung và vi lượng khác, trong đó
đặc biệt là các nguyên tố S, Zn, Ca, Mg, Bo,….
Về pH của đất, theo Willson (1987), trồng cây cà phê trên đất trong khoảng
4sinh trưởng tốt trong giới hạn pH từ 5,4 đến 5,5. Robinson (1959) cho rằng pH thích
hợp với cà phê Arabica là 5,2-6,2. Theo Nguyễn Sỹ Nghị (1982), Ngô Văn Hoàng
(1992), Coste (1992) cà phê vẫn có thể phát tri ển tốt ở pH đất 4,5-5,0. Khi đất quá
chua, khả năng di động của Mn++ cao gây độc cho cà phê (Nguyễn Khả Hòa , 1995).
Theo Ramaiah (1985), pH tốt nhất cho sinh trường của cà phê là 6,0-6,5.
Krishnamurthy và Iyengar (1976), cho rằng những đất có hàm lượng sắt , nhôm cao,
pH thấp (< 4,2), khả năng cố định lân lớn, bón vôi sẽ làm tăng hàm lượng lân dễ tiêu
trong đất. Những đất có pH cao (> 5,6) bón vôi sẽ làm giảm hàm lượng lân dễ tiêu .
Nghiên cứu của Vũ Cao Thái (1985) cho thấy cây cà phê rất thích hợp với đất
chua nhẹ, trong phạm vi pH từ 4,5 - 5,5, giới hạn dưới của cây là 3,5 và giới hạn trên
là 6,5. Các điều tra nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Cà phê cho thấy hầu hết các
mẫu đất lấy từ vườn cà phê vùng Tây Nguyên đều hơi chua, độ chua trao đổi p HKCl
phổ biến nằm trong khoảng 4,0-5,5 (Hoàng Thanh Tiệm và cs. , 1999). Theo Trần
Kim Loang (2002) độ chua đất là một trong những yếu tố quan trọng liên quan đến
sự phát sinh bệnh từ đất vì pH có thể ảnh hường trực tiếp tới sự phát triển của nấm
bệnh trong đất. Đồng thời pH đất còn gây ảnh hưởng gián tiếp qua quá trình chuyển


10


biến hóa học hay sinh học đất vì pH liên quan đến độ di động, dễ tiêu của một số
nguyên tố trong đất, ví dụ nhu pH thấp dẫn đến sự tăng nồng độ nhôm di động gây
thối rễ cây, tạo điều kiện cho nấm bệnh xâm nhập.
2.3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ SỬ DỤNG ĐẤ T TRỒNG CÀ PHÊ Ở
NƯỚC TA
Ở Việt Nam, cây cà phê có thể trồng trên các loại đất có sản phẩm phong
hóa của đá gơnai, granit, phiến sét, đá vôi, đá bazan,... Theo Vũ Cao Thái (1989)
các cao nguyên đất bazan thuộc vùng Tây Nguyên ở nước ta có tầng đất dày, kết
cấu tốt, tơi xốp, độ phì cao, nên cây cà phê nơi đây sinh trưởng, phát triển tốt,
cho năng suất, chất lượng sản phẩm cao hơn những nơi khác, do vậy người ta
mệnh danh chúng là “thiên đường” của cây cà phê.
Nguyễn Sỹ Nghị (1982) cho biết: “Cây cà phê là cây công nghiệp lâu năm,
phàm ăn, đòi hỏi đất tốt để phát triển và cho năng suất cao, nên nếu được trồng
trên đất tốt cây cà phê s ẽ cho năng suất cao liên tục 20-25 năm. Ngược lại, trồng
trên đất xấu không những năng suất thấp mà cây cà phê cũng nhanh chóng tàn
lụi”. Tác giả cũng cho rằng cần xác định hàm lượng dinh dưỡng dưới dạng dễ
tiêu vì có hiệu lực thực tế đối với cây trồng.
Theo Lê Ngọc Báu (2001) lượng phân bón thích hợp cho một ha cà phê vối
trong thời kỳ kinh doanh là 300-350 kg N, 120-150 kg P2O5, 300-350 kg K2O,
20% lượng phân đạm được sử dụng ở dạng phân amôn sunphat.
Nghiên cứu của Trình Công Tư (1999) cho thấy tổ hợp phân khoáng đa
lượng có ý nghĩa nhất đối với sinh trưởng, phát triển và năng suất cà phê vối kinh
doanh trên đất nâu đỏ bazan Tây Nguyên trong mùa mưa là 300 kg N - 150 kg
P2O5 - 400 kg K2O cho một ha. Theo Y’ Knin HĐơk (2002) trên đất đỏ bazan
mức bón 300 kg N/ha - 150 kg P2O5/ha - 400 kg K2O/ha + 5 tấn phân chuồng/ha
cho năng suất cà phê trên 4 tấn nhân/ha và trên đất xám granit mức bón 300 kg

N/ha - 100 kg P2O5/ha - 300 kg K20/ha + 5 tấn phân chuồng/ha cho năng suất cà
phê trên 2 tấn nhân/ha. Bùi Văn Sỹ (200 5) đưa ra mức bón phân hợp lý đối với
cà phê chè ở Hướng Hóa, Quảng Trị t hời kỳ kiến thiết cơ bản là 250 kg N/ha 100 kg P2O5/ha - 200 kg K20/ha và thời kỳ kinh doanh là 200 kg N/ha - 100 kg
P2O5/ha - 200 kg K20/ha.
Trong điều kiện nhiệt đới ẩm, đa số các loại đất hình thành tại chỗ như
bazan, gơnai thường có đặc tính cố định lân rất mạnh. Vì vậy hàm lượng lân dễ

11


tiêu là một trong những chỉ tiêu đánh giá độ phì đất.
Về hàm lượng hữu cơ trong đất, theo Lương Đức Loan (1991) đất mới khai
hoang từ rừng có hàm lượng hữu cơ 5 -6%, nhưng sau 4-5 năm canh tác thì lượng
hữu cơ đó chỉ còn 2 -3% (dẫn theo Nguyễn Tiến Sỹ, 2010) . Một nghiên cứu khác
của tác giả này về việc vùi hữu cơ vào đất có kết quả như sau: với 30 ngày vùi, ở
độ sâu 20 cm, lượng hữu cơ hao hụt là 38%, nhưng nếu chỉ vùi ở độ sâu 5 cm thì
sự hao hụt lên đến 52%. Khi hàm lượng hữu cơ trong đất giảm sẽ kéo theo sự
thay đổi hà ng loạt các tính chất lý, hóa đất theo hướng bất lợi cho sinh trưởng,
phát triển và năng suất của c à phê (Trình Công Tư, 1999).
Nghiên cứu về xói mòn đất, Lê Hồng Lị ch và Lương Đức Loan (1997) cho
rằng trong cùng điều kiện về độ dốc và lượng mưa thì vườn c à phê kiến thiết cơ
bản 2 năm tuổi lượng đất bị cuốn trôi do xói mòn qua một mùa mưa nhiều hơn
gấp 5 lần so với rừng tái sinh. Theo Lương Đứ c Loan và cs. (1996) cùng với sự
mất đất, lượng dinh dưỡng bị cuốn trôi hàng năm trên một hecta cà phê kiến thiết
cơ bản cũng khá cao: 71 kg N, 65 kg P 2O5, 28 kg K20, 1.160 kg hữu cơ.
Nghiên cứu của Hồ Công Trực và Lương Đức Loan (1997) cho thấy đối
với đất nâu đỏ phát triển trên đá bazan ở độ dốc 10° lượng đất mất đi hàng năm
> 100 tấn/ha.
Theo Trình Công Tư (1999) muốn có một vườn cà phê đi vào kinh doanh
ổn định, năng suất cao thì cần thiết phải có nền đất ổn định ngay ở giai đoạn

trồng mới và suốt thời kỳ kiến thiết cơ bản. Điều đó sẽ không bao giờ có đ ược
nếu không có biện pháp bảo vệ đất thích đáng. Các biện pháp chống xói mòn cho
vườn cà phê trên đất dốc, mà nổi bật hơn cả là kỹ thuật tạo bồn quanh gốc cà phê
đã chứng tỏ sự sáng tạo độc đáo của người nông dân trồn g cà phê. Việc tạo bồn
quanh gốc cà phê vừa có tác dụng ngăn chặn xói mòn do nước, vừa là nơi trữ
phân bón, tích tụ các tàn dư hữu cơ và chứa nước tưới trong mùa khô.
Hàng năm phần sinh khối của cây cà phê và cỏ dại do cắt tỉa, tạo hình, khô
rụng cũng như làm cỏ đã tạo ra khối lượng tàn dư chất khô khá lớn lên đến 5 -7
tấn/ha bổ sung vào đất của vườn cà phê. Nghiên cứu của Hồ Công T rực và Phạm
Quang Hà (2004) cho biết có từ 3.997-5.537 kg/ha chất khô thu được từ nguồn
sinh khối này trả lại cho đất cho dù trên công thức đó có bón phân hay không bón
phân thì phần sinh khối này cũng cung cấp cho một ha đất từ 52,4-94,1 kg N,
3,1-5,0 kg P, 23,6-45,4 kg K, 15,6-23,3 kg Ca và 10,8-17,7 kg Mg.
Song song với những biện pháp công trình bảo vệ đất như xây dựng hệ th ống

12


mương, bờ, kỹ thuật tạo bồn quanh gốc cà phê thì cũng cần áp dụng việc trồng các
băng phân xanh (cốt khí, muồng hoa vàng, đậu hồng đáo,...) chắn ngang dốc hay
xen giữa 2 hàng cà phê vừa có tác dụng hạn chế xói mòn, vừa cung cấp cho cà phê
một lượng sin h khối đáng kể (Lương Đức Loan và c s., 1996).
Về giữ ẩm cho đất, theo Tôn Nữ Tuấn Nam và cs. (1997) bón chất giữ ẩm
với khả năng giữ được một lượng nước gấp hàng trăm lần thể tích ban đầu đã
được sử dụng để tăng hiệu lực giữ ẩm trên vườn cà phê vào mùa khô ở vùng Tây
Nguyên. Tuy có tác dụng cải thiện được độ ẩm đất nhưng việc sử dụng chất giữ
ẩm cho cây cà phê cũng không cho hiệu quả kinh tế.
2.4. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN YẾU TỐ HẠN CHẾ
TRONG ĐẤT
2.4.1. Những nghiên cứu trên thế giới

2.4.1.1. Nghiên cứu yếu tố hạn chế về tính chất vật lý đất
Hạn chế về tính chất vật lý thường được hiểu là đất có kết cấu kém, ít tơi xốp,
khả năng giữ nước, giữ dinh dưỡng kém và vì vậy thường ảnh hưởng đến sinh
trưởng và phát triển của cây trồng. Hạn chế này có thể do phát sinh từ nguồn gốc
hình thành của đất và cũng có thể phát sinh từ quá trình canh tác. Điều này cũng đã
được nhi ều nghiên cứu đề cập nhưng rất ít và thậm chí không đề cập đến sự thay đổi
tính chất vật lý ở đất trồng cà phê. Tuy nhiên, vấn đề thoái hóa vật lý cũng đã được
ISRIC (1997) đề cập trong “Nghiên cứu về thoái hóa đất ở khu vực Nam và Đông
Nam Châu Á” cho thấy tại khu vực này có 9% đất bị thoái hóa về vật lý đất , không
kể 21% thoái hóa do xói mòn đất cũng xuất hiện yếu tố hạn chế về vật lý đất. Sự
thoái hóa vật lý cũng đồng nghĩa với việc biến đổi tính chất vật lý của đất theo chiều
hướng bất lợi đối với sản xuất nông nghiệp và được coi là yếu tố hạn chế. Những đất
bị thoái hóa thường do bị phá vỡ kết cấu, tầng mặt bị bào mòn, rửa trôi sét, hình
thành tầng tích sét tạo nên những mặt chắn dẫn đến khả năng thấm nước chậm, đất
kém tơi xốp, khả năng giữ nước, giữ dinh dưỡng kém. Hiện tượng này xảy ra khá
phổ biến không chỉ trên đất bỏ hóa mà ngay cả trên đất đang canh tác nông nghiệp.
Thành phần cơ giới đất có liên quan đến sự phát triển của các loại nấm bệnh
gây hại trong đất. Townshens and Berry (1972) cho rằng tuyến trùng Pratylenchus
penetrans và P. minyus dễ dàng xâm nhập và gây hại ngô trên các loại đất có dung
trọng thấp. Ferris and Bernard (1971) cho thấy có sự liên quan giữa kiểu đất và mật
độ tuyến trùng trong đất trồng đậu nành, mật độ tuyến trùng cũng có liên quan với
độ ẩm đất.

13


Vi nấm có vai trò quan trọng trong duy trì cấu trúc đất. Việc sử dụng máy móc
được coi như là yếu tố làm suy thoái đất. Vi nấm giúp duy trì cấu trúc đất nhờ sự
phát triển của sợi nấm trong đất như là cấu trúc khung cho các hạt đất liên kết vào ,
tạo ra các điều kiện mà nó cho phép sự hình thành các vi hạt kết (đoàn lạp), cố định

các hạt kết bằng các sợi nấm và các rễ cây trồng để hình thành các hạt kết lớn hơn,
cung cấp nguồn cácbon trực tiếp cho cây trồng (Miller and Jastrow, 2000). Cácbon
của đất chủ yếu hình thành nên chất hữu cơ cần thiết để liên kết các hạt đất, trực tiếp
ảnh hưởng đến hình thành đoàn lạp đất.
2.4.1.2. Nghiên cứu yếu tố hạn chế về tính chất hóa học đất
Theo Buringh (1979) yếu tố hạn chế chính trên đất phát triển từ đá bazan là
lân dễ tiêu, tiếp theo là kali và lưu huỳnh. Sự thiếu hụt lân dễ tiêu đến mức trở
thành yếu tố hạn chế là do trong đất bazan giàu sesquyoxyt nên lân dễ tiêu đã bị
cố định mặc dù đá bazan là loại đá khi phong hoá cho đất giàu lân. Cũng theo
Buringh (1979), hạn chế chính của đất bazan trồng trọt là thiếu kali, các nguyên
tố trung lượng như canxi, magiê, lưu huỳnh thậm chí có thể thiếu cả silic nếu
trồng cỏ. Một số nguyên tố vi lượng hòa tan trong môi trường pH thấp như kẽm,
mangan cũng có thể thiếu hụt nhưng đôi khi là độc tố đối với cây trồng.
Trong khi đó cà phê là loại cây trồng có nhu cầu dinh dưỡng khá cao, đặc
biệt là đạm và kali. Theo Roelofsen and Coolhaas (1940), lượng dinh dưỡng để
tạo ra 1 tấn cà phê nhân là: 35 kg N, 6 kg P2O5, 50 kg K2O, 4 kg CaO, 4 kg MgO
và nhiều nguyên tố trung và vi lượng khác. Với nhu cầu dinh dưỡng lớn như vậy
nếu không cung cấp đầy đủ cho cà phê, năng suất sẽ thấp và dẫn đến đất bị suy
thoái, xuất hiện yếu tố hạn chế về hóa học. ISRIC (1997) trong chương trình
nghiên cứu về thoái hóa đất ở khu vực Nam và Đông Nam Châu Á cho thấy, diện
tích thoái hóa hóa học tại khu vực này có đến 24%. Sự thoái hóa hóa học cũng
đồng nghĩa với việc suy giảm các tính chất hóa học trong đất đến mức cạn kiệt
làm suy giảm sức sản xuất của đất. Tuy nhiên, cũng như hạn chế về vật lý, hạn
chế về hóa học phụ thuộc vào nguồn gốc đá mẹ hình thành đất, chế độ phân bón.
Độ chua của đất ảnh hưởng đến đặc điểm hóa tính, lý tính và sinh học đất
(Bradi and Weil, 2002). Ngoài ra pH đất còn tác động đến vi sinh vật, sinh khối của
vi sinh vật, hoạt động, cấu trúc quần thể vi sinh vật đất cũng như thay đổi trong hoạt
động của vi sinh (Anderson, 1994). Nghiên cứu của Sánchez-de León et al. (2006)
cho thấy bón phân hữu cơ từ vỏ cà phê đã xử lý (20 tấn/ha) đã làm tăng lượng giun
đất, tăng sinh khối của vi sinh vật đất và do vậy góp phần cải thiện được tính chất lý


14


hóa học đất, giúp cây sinh trưởng và phát triển tốt, đề kháng được các loại sâu bệnh
hại.
Goldman et al. (1989) nhận thấy ở đất chua áp lực thẩm thấu của rễ bị kìm
hãm, đặc biệt ở tầng đất cái có tỷ lệ C a/Al thấp, dẫn đến sự phân bố bộ rễ nông hơn
và vì vậy quá trình sử dụng nước cũng như dinh dưỡng bị hạn chế, gây rửa trôi dinh
dưỡng. Trong đất chua, đặc biệt chua do nồng độ Al 3+ cao thì ảnh hưởng rõ đến sự
tăng trưởng của rễ và sự hút nước, gây hiện tượ ng thiếu dinh dưỡng và gây nên
stress hạn (Marschner, 1991).
Độ pH đất cũng là một trong những yếu tố quan trọng không chỉ ảnh hưởng
đến khả năng trao đổi khoáng của cây mà còn liên quan đến sự phát sinh ra bệnh từ
đất, pH có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nấm bệnh trong đất, đồng thời
còn ảnh hưởng gián tiếp đến quá trình chuyển biến hóa học hay sinh học trong đất.
Chẳng hạn khi pH thấp, hàm lượng nhôm di động tăng, gây thối rễ cây tạo tiền đề
cho nấm bệnh xâm nhập. Bên cạnh đó độ chua của đất t rồng còn có mối liên quan
chặt chẽ tới sự bùng phát gây hại của một số vi sinh vật gây hại trong đất. Một số vi
khuẩn gây hại trong đất chỉ phát triển gây hại trong một ngưỡng pH nhất định, một
số nấm ký sinh gây bệnh phát triển rất mạnh khi gặp điều kiện pH thích hợp (thông
thường là khi chỉ số pH thấp), thêm vào đó chỉ số pH trong đất cũng có tương quan
chặt với độ hữu dụng của một số nguyên tố dinh dưỡng đất. Tác giả Ramirez (1998)
chỉ ra rằng: chế độ bón phân cho cà phê ở vùng đất bị tuyến trùng gây hại cần phải
được điều chỉnh một cách thích hợp để chỉ số pH đất không dao động ở mức thấp.
Một mặt việc sử dụng phân hóa học là rất tốt cho sự sinh trưởng và phát triển mạnh
của bộ rễ cây trồng, nhưng mặt khác đó lại là điều kiện thuận lợi để làm tăng mật số
tuyến trùng trong hệ rễ (Shmitt and Riggs, 1989).
Theo Murach and Ulrich (1988) thì khi đất bị chua hóa cho phép nghĩ đến việc
gia tăng nhôm hòa tan và vì vậy có thể gây độc cho cây trồng. Độc nhôm từ đó có

thể là một yếu tố giới hạn quan trọng với cây trồng trên đất chua trong đó có cây cà
phê. Năng suất cây trồng gia tăng nếu lượng nhôm trong đất giảm xuống. Von
Uexkull (1992) nghiên cứu cho thấy khi đất có nồng độ Al3+ di động thừa, rễ cây có
thể bị hư hỏng, teo tóp, xoắn lại và giảm khối lượng. Điều này cũng đã được Foy et
al. (1978), Taylor (1988), Klotz and Horst (1988) khẳng định.
Huang et al. (1992b) cho rằng khi nồng độ nhôm trao đổi trong đất cao sẽ kìm
hãm sự hấp thu Ca, Mg trong màng tế bào gây ra tình trạng thiếu Ca và Mg trong

15


cây, đặc biệt là chứng thiếu Mg thể hiện rất rõ ràng.
Theo Sheila et al. (2007) thì đất trồng cà phê sau một thời gian dài, chuẩn bị
bước vào tái canh thì pH, lân dễ tiêu c ó xu hướng giảm so với đất rừng và do vậy
mật độ vi sinh vật hữu ích giảm, trong đó đáng chú ý là mật độ nấm đối kháng
Trichoderma spp. giảm tạo điều kiện cho các loại vi sinh vật gây hại tấn công cà phê
khi trồng tái canh.
Nồng độ Al 3+ trong dung dịch đất thường thấp hơn 1mg/lít ở pH > 5,5
nhưng tăng mạnh ở pH thấp. Thừa Al3+ trong đất làm cản trở sự hấp thu, vận
chuyển và đồng hóa các chất dinh dưỡng chủ yếu như K, P, Ca, Mg, Fe và có thể
cản trở các quá trình hoạt động của vi sinh vật trong việc cung cấp dinh dưỡng
cho cây trồng. Về mức độ tế bào, độc tố Al 3+ làm ảnh hưởng đến chức năng và
cấu trúc màng bán thấm, tổng hợp ADN và tham gia vào quá trình nguyên
nhiễm, quá trình kéo dài của tế bào.
Hầu như tất cả các nghiên cứu độc nhôm trên cây cà phê đều thực hiện trên
cây cà phê chè (Coffea arabica L). Trong một thí nghiệm trong phòng trên cà phê
chè 7 tháng tuổi trồng trong chậu, Pavan and Bingham (1982) thấy rằng sự giảm
sinh trưởng của cây non có tương quan chặt với giá trị hoạt động của nhôm trong
đất. Giới hạn gây độc của giá trị hoạt động của nhôm gần 4 x 10 -6. Nồng độ
nhôm trong lá có tương quan chặt với khả năng hoạt động của nhôm. Giới hạn

gây hại cho rễ và tăng trưởng của thân lần lượt là 62 và 100 µg/g. Theo Maria
(2006), khi nghiên cứu độc nhôm trên cà phê Colombia, loại đất trồng cà phê có
nguồn gốc dung nham núi lửa (Andisols) có đặc điểm là đất chua, giàu chất hữu
cơ và có hiện tượng đ ộc nhôm có một số kết quả như sau: Khi chiết nhôm trao
đổi với 3 nồng độ của KCl đã có sự khác nhau về nồng độ dịch chiết, phức hợp
nhôm với hữu cơ dường như không độc với cây, d ung dịch đất không cho thấy có
nồng độ nhôm ở mức gây hại, không có ảnh hưởng tổn thư ơng đến rễ cà phê.
Golzalez (2007) đã nghiên cứu tương tác giữa chất hữu cơ với nhôm có khả năng
trao đổi trong đất trồng cà phê chè ở Puerto Rico cho thấy nhôm trao đổi cao ở
tầng 20 -40 cm, tầng mà có ít chất hữu cơ. Dung dịch CuCl 2 chiết được nhôm cao
nhất ở tầng 0-20 cm so với dung dịch AlCl 3 và KCl.
Giống như nhôm di động, mangan (thường ở dạng Mn 2+ trong dung dịch đất)
cũng là một yếu tố dinh dưỡng cần thiết của cây trồng, tuy nhiên khi nồng độ tăng
cao, nó lại là yếu tố gây độc cho cây (Marsche r, 1995). Nồng độ của mangan trong

16


dung dịch đất được kiểm soát do hàm lượng mangan tổng số trong đất, pH đất và
khả năng trao đổi điện tích âm. Do vậy khi đất có hàm lượng mangan cao, độc tố
của mangan có thể xuất hiện khi pH thấp hơn 6,0 (ở mức này Al vẫ n đang ở dạng
không hòa tan). Trong môi trường giàu điện tích âm gây ra khi đất tưới nước quá
nhiều, thoát nước kém, bón quá nhiều chất hữu cơ, độc tố do mangan có thể xảy ra
kể cả khi pH ở mức kiềm (Hue, 1988).
Trong một nghiên cứu về độc tố mangan trên đất Oxisols ở Hawaii, Hue and
Mai (2002) thấy nồng độ Mn trong dung dịch chiết tăng lên 100 lần khi pH giảm đi
1 đơn vị. Thạch cao (CaSO4.2H2O) có tác dụng giảm mangan hòa tan trong dung
dịch tốt hơn canxi và việc bón phân xanh và các chất rắn hữu cơ thông thường làm
tăng độc tố mangan trong đất. Loại cây trồng khác nhau và ngay cả giữa các dòng
trong cùng một giống cũng có khả năng chống chịu khác nhau với độc tố mangan

(Foy et al., 1978).
Theo Lumbanraja et al. (1998) thì vườn cà phê trồng 20 năm, chuẩn b ị cho
trồng tái canh thì hàm lượng dinh dưỡng trong đất có xu hướng giảm so với khi bắt
đầu trồng mới từ đất rừng. Điều đáng quan tâm là CEC, Ca giảm mạnh ở tầng 0-20
cm chứng tỏ chất lượng đất đã bị suy giảm. Khi chất lượng đất bị suy giảm thì khả
năng cung cấp dinh dưỡng cho cây cà phê bị hạn chế.
Nghiên cứu của Sheila et al. (2007) đã chỉ ra rằng: đất trồng cà phê sau một
thời gian dài và bước vào tái canh thì pH và P 2O5 dễ tiêu có xu hướng giảm so với
đất rừng. Đây cũng chính là lý do làm cho mật độ v i sinh vật hữu ích (Trichoderma
spp.) trong đất giảm, điều này tạo cơ hội lớn cho các vi sinh vật gây hại sinh trưởng,
phát triển và tấn công cây cà phê tái canh.
2.4.1.3. Nghiên cứu yếu tố hạn chế về sinh học đất
Nhiều nghiên cứu cho thấy sau một thời gian trồng cà phê, nhất là độc canh
dẫn đến trong đất xuất hiện một số lượng lớn vi sinh vật gây hại làm cho cà phê
không sinh trưởng, phát triển được, thậm chí bị chết. Đáng chú ý là tuyến trùng, loài
tuyến trùng gây hại chính trên cây cà phê là Pratylenchus coffeae. Điều này đã được
Lordello (1972), xác định ngay tại Nam Mỹ, về sau Campos et al. (1990) đã tìm
thấy ở El Sanvador, Java và Ấn Độ, Cộng hòa Dominique, El Savador, Guatemala,
Puerto Rico, Costa Rica, Brazil, Barbados, Martinique, Tanzania, Madagascar và
Indonesia. Tuy nhiên theo Bredo thì tuyến trùng Pratylenchus coffeae chỉ gây hại
trên cà phê chè (Coffea Arabica Line) và cà phê vối (Coffea Canephora Var.
Robusta) nhưng không gây hại trên cà phê mít (Coffea Liberica Bull Var. Excelsa).

17


Tuyến trùng (nematodes) là một nhóm động vật không xương sống, đa bào có
kích thước rất bé dài khoảng 0,1 -0,5 mm (mắt thường không thể nhìn thấy). Vòng
đời của tuyến trùng ký sinh gây hại khoảng 25-70 ngày và phát triển qua 3 giai đoạn
chính, bao gồm giai đoạn trứng, giai đoạn ấu trùng và giai đoạn trưởng thành. Hệ số

sinh sản của tuyến trùng rất cao, một cá thể tuyến trùng cái trưởng thành có thể đ ẻ
trên 2.000 trứng (Castillo and Wintgen s, 2004).
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã nhận định rằng tuyến trùng là một trong
những nguyên nhân chính gây suy giảm sức sản xuất dẫn đến phải thanh lý trước
tuổi của các vùng chuyên canh cà phê. Campos et al. (1990) nhận thấy rằng ở El
Salvador, Java và Ấn Độ thì Pratylenchus coffeae là loài tuyến trùng gây hại chính
trên cây cà phê.
Tuyến trùng gây vết thương rễ cà phê Pratylenchus coffeae là loài gây hại
nặng trên cà phê chè ở miền Nam Ấn Độ. Vào những năm 80, thập kỷ XX,
Pratylenchus coffeae đã gây hại hàng nghìn ha cà phê chè tại đây, gây thiệt hại trê n
20 triệu Rupi (Krishnappa, 1985).
Palanichamy (1973) cho biết: Với số lượng tuyến trùng Pratylenchus coffeae
từ 500-5.000 con trong rễ thì cây con 40 ngày tuổi và 120 ngày tuổi của giống
Robusta bị gây hại nặng, trong khi các cây 1 năm tuổi chống chịu đư ợc ở mật độ lây
nhiễm này.
Bên cạnh loài tuyến trùng gây vết thương rễ thì tuyến trùng gây u sưng rễ cà
phê (Meloidogyne spp.) cũng gây thiệt hại kinh tế rất lớn cho nhiều quốc gia
trồng cà phê trên thế giới. Theo thống kê, sản lượng cà phê tại Trung Mỹ giảm
10% do nhóm tuyến trùng này gây hại (Sasser, 1979), tại Guatemala sả n lượng
giảm khoảng 40% (Alvarado, 1997), tại Brazil sản lượng giảm 15 -35% tùy theo
từng vùng trồng cà phê (Castillo and Wintgens, 2004). Tại bang Veracruz thuộc
Mexico, có khoảng 20.000 ha cà phê chè bị nhiễm tuyến trùng nốt sưng
Meloidogyne incognita (Hernández, 1992).
Ngoài tuyến trùng thì nấm cũng được cho là tác nhân gây hại trên cà phê.
Rai et al. (1974) nghiên cứu về bệnh nấm rễ cây cà phê đã phát hiện 164 loài
nấm trong đất, trong đó có 144 loài thuộc nấm bất toàn. Các nấm gây hại rễ cây
giai đoạn cây non thường là Phythium, Phytophthora, Fusarium, Selerotium và
Rhizoetonia (Mehrotra, 1980). Người ta còn nhận thấy các nấm Armillaria
mellea và một số loài Fusarium thường là những tác nhân gây bệnh thối rễ, cổ rễ
và cả phần thân dưới đất của cà phê .


18


Nghiên cứu về biện pháp tiêu diệt tuyến trùng cũng đã có nhiều nhưng đều
thống nhất, biện pháp có hiệu quả nhất là lựa chọn các giống có tính chống chịu
hoặc có khả năng kháng tuyến trùng. Fiola and Lalancette (2000) cho rằng hầu
hết các loài tuyến trùng có thể giảm một cách đáng kể khi bón chất chitin trong
vỏ của những loài giáp xác (tôm, cua,...) vào trong đất. Giải thích về hiệu quả của
bón chitin, tác giả cho rằng do những loài nấm phân hủy chất chitin đồng thời
cũng tấn công trứng tuyến trùng, một l oại trứng cũng có cấu tạo từ chitin. Sự gia
tăng khối lượng chất chitin đồng thời cũng có ý nghĩa gián tiếp làm tăng số lượng
nguồn nấm phân hủy này.
2.4.1.4. Nghiên cứu tái canh cà phê
Cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị cao trên thế giới, với diện
tích trên 10 triệu hecta cây cà phê đóng góp không nhỏ đến sự phát triển kinh tế của
các nước trồng cà phê. Mặc dù được xem là loại cây công nghiệp lâu năm, nhưng
tuổi thọ khai thác có hiệu quả của cây cà phê cũng có giới hạn trong vòng 20 -25
năm, sau chu kỳ đó cây cà phê cần phải được trồng lại hoặc được trẻ hóa nhằm khai
thác vườn cà phê có hiệu quả.
Nguyên nhân cần phải nhổ bỏ cà phê và trồng lại là do cây cà phê bị già cỗi
cho năng suất thấp, không có hiệu quả kinh tế hoặc do vườn cây bị sâu bệnh gây hại.
Cho đến nay việc tái canh đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới trong đó chỉ
có hai quốc gia thông báo đã thực hiện tái canh cây cà phê vì sâu bệnh hại đó là
Uganda và Indonesia. Ở Uganda, do vườn cà phê bị tàn phá bởi bệnh chết héo
(Coffee wilt disease) do nấm Fusarium xylariodes gây ra nên người trồng cà phê
buộc phải trồng lại. Các khảo sát gần đây cho thấy bệnh chết héo hiện diện ở hầu hết
các vùng trồng cà phê của Uganda, nơi có đến 90% trang trại trồng cà phê bị nhiễm
bệnh. Hiện nay các chương trình tái canh cà phê ở Uganda đều được chính phủ tài
trợ. Uganda đã có chương trình chọn giống cà phê vối hiệu quả, được bắt đầu từ

năm 1956 và đã cho ra 6 dòng vô tính. Các dòng này đã được nhân giống bằng
cách cắt chồi và sau đó nuôi cấy mô vào những năm của thập niên 1990 trong dự
án phục hồi cây cà phê. Ban đầu các vườn ươm được xây dựng ở tất cả các vùng
trồng cà phê để nhân giống với số lượng lớn của các kiểu gen này để thay thế các
vườn cà phê vối già cỗi. Các vườn ươm này sau đó được bổ sung thêm trang thiết
bị dưới sự quản lý của Viện Nghiên cứu N ông nghiệp Kawada để thực hiện nhân
giống nuôi cấy mô. Trong những năm 1998-1999, khoảng 10,3 triệu cây giống vô
tính cà phê vối đã được sản xuất trong chương trình vườn ươm giống cà phê.

19


Những giống cà phê vô tính này với khả năng kháng nấm Fusarium xylariodes
gây bệnh chết héo cây cà phê (CWD) đã giúp phục hồi ngành công nghiệp cà phê
của nước này. Tuy nhiên, chính phủ đã ngừng hỗ trợ cung cấp giống cà phê từ
năm 2004. Sự tổn thất ở thời kỳ đầu do trồng các giống thực sinh có tỷ lệ rất cao
đến trên 50% cho đến khi các giống kháng được đưa vào sử dụng thì tỷ lệ này
giảm đi đáng kể.
Ở Indonesia nguyên nhân chủ yếu để tái canh cây cà phê là do tuyến trùng
Pratylenchus coffeae tấn công và chương trình tái canh tại Indonesia cũng được
chính phủ tài trợ cho ICCRI để s ản xuất hàng ngàn cây cà phê giống ghép dòng
BP42 và BP358 trên gốc ghép dòng BP308 cho người nông dân trồng tái canh.
Phương pháp này dường như đã mang lại hiệu quả nhất. Gen kháng là một triển
vọng để giải quyết các vấn đề do tuyến trùng gây ra ở Indonesia. Các giống tốt được
ghép lên gốc ghép của các dòng vô tính kháng tuyến trùng BP308 cho giải pháp tốt
nhất. Các chương trình nghiên cứu giống cà phê kháng tuyến trùng sẽ tiếp tục thực
hiện tại ICCRI. Việc sử dụng các loài đối kháng như cây cúc vạn thọ Pháp và các
loài khác sẽ thúc đẩy hơ n nữa trong phòng trừ bằng các nguồn gen kháng. Nấm sợi
arbuscular mycorrhizal Gieaspora margarita có thể làm giảm số lượng tuyến trùng
Pratylenchus spp. trong hệ rễ và nấm Paecilomyces lilacincus dòng PL-251 Samson

đã ngăn chặn được tuyến trùng Pratylenchus cojfea trên cây cà phê ở Indonesia.
Trong khi đó Ấn Độ cũng đã thực hiện chương trình tái canh thay thế cà phê
già cỗi cho năng suất thấp từ năm 2007 đến 2012 nhằm thay thế khoảng 8.000 ha
mỗi năm. Chương trình này được nhà nước hỗ trợ qua các khoản vay ưu đãi. Tại
Columbia tái canh cà phê nhằm thay thế cà phê già cỗi cũng đã được thực hiện
nhằm nâng cao sức cạnh tranh và tạo sự bền vững trong sản xuất cà phê.
Một trong những tác nhân sinh học gây hại nghiêm trọng đáng chú ý nhất đó là
tuyến trùng ký sinh thực vật. Các nghiên cứu cho thấy nguyên nhân chính ảnh
hưởng đến tái canh cây cà phê là tuyến trùng gây sưng rễ ( Meloidogyne spp.) và
tuyến trùng gây thối rễ ( Pratylenchus spp.), đây là hai loài đã được biết đến gây hại
rất nghiêm trọng trên cây cà phê. Tuyến trùng gây hại trên cây cà phê bằng cách phá
hủy các cấu trúc tế bào mô rễ làm cho các rễ này bị thối, bộ rễ không thể hút đủ
nước và chất dinh dưỡng cần thiết để nuôi cây dẫn đến sinh trưởn g kém và chết. Bên
cạnh đó, ngoài khả năng gây hại trực tiếp đến cây cà phê của các loài tuyến trùng thì
tương tác giữa tuyến trùng với các nấm bệnh trong đất cũng là yếu tố quan trọng đến
sinh trưởng, phát triển cũng như là gây chết đối với cây cà phê (Souza, 2008). Các

20


loài tuyến trùng gây hại xâm nhập vào vùng rễ của cây trồng tạo ra các vết thương
cơ giới đối với rễ và điều này thúc đẩy khả năng xâm nhập của các loài nấm bệnh
đất xâm nhập và gây hại đối với rễ dễ dàng hơn, thúc đẩy quá trình phát sinh b ệnh
nhanh chóng hơn (Moens and Perry, 2009).
Các nhà nghiên cứu cà phê đã xác định được các loài tuyến trùng thuộc 3 chi
chính gây hại chủ yếu gồm các loài tuyến trùng gây sưng rễ thuộc chi Meloidogyne,
các loài tuyến trùng gây vết thương thuộc chi Pratylenchus và loài Rotylenchulus
reniformic, trong đó loài tuyến trùng Meloidogyne incognita và Pratylenchus
coffeae được tìm thấy ở hầu hết các vùng trồng cà phê trên thế giới ( Campos and
Villain, 2005), riêng loài R. reniformis đã được phát hiện gây hại nghiêm trọng trên

cà phê chè cũng như cà phê vối tại Philippin, ngoài ra loài này còn được phát hiện
gây hại trên một số vùng trồng cà phê chè khác như Brazil, Fiji, New Guine
(Lordello, 1980; Bridge, 1988).
Việc nghiên cứu các biện pháp k ỹ thuật nhằm tái canh cây cà phê thành công
thường tập trung vào các biện pháp nhằm hạn chế và tiêu diệt các tác nhân gây bệnh
như tuyến trùng và nấm. Để phòng trừ tuyến trùng người ta đã sử dụng các biện
pháp khác nhau như hóa học, sinh học cũng như vật lý , trong đó biện pháp hóa học
được xem là hiệu quả nhất, tiếp đến là biện pháp sinh học. Tuy nhiên, việc sử dụng
nhiều thuốc hóa học để phòng trừ sâu bệnh hại thường có ảnh hưởng xấu đến môi
trường sống, do đó biện pháp phòng trừ sinh học được ưu tiên áp dụn g hơn, đặc biệt
là ở những nước phát triển.
Đối v ới biện pháp sinh học , người ta thấy rằng việc sử dụng cây cúc vạn thọ
Pháp (Targetes erecta L.) có thể phòng trừ được tuyến trùng P. coffeae trên vườn
cà phê vối ở Đông Java. Luki-Rosmahani và cộng sự đã thông báo rằng việc áp
dụng biện pháp trồng cây hoa vạn thọ với mật độ 25 cây/gốc cà phê có thể phòng
trừ được tuyến trung P.coffeae trên cây cà phê vối rất hiệu quả (Luki-Rosmahani
et al., 2005).
Trong khi đó ở Brazil đã ghi nhận có hai loài tuyến trùng chính gây hại trên
cà phê đó là Meloidogyne spp và Pratylenchus spp, (Souza, 2008). Các nhà khoa
học đã khuyến cáo rằng để hạn chế sự lây lan của tuyến trùng gây hại thì chỉ nên
trồng cà phê trên những diện tích mới, tr ánh trồng lại trên những diện tích cũ đã
nhiễm bệnh.
Bên cạnh tuyến trùng, nấm cũng là một trong những tác nhân gây hại nghiêm

21


trọng trên cà phê. Các thông báo từ Uganda cho thấy cây cà phê vối ở nước này bị
tàn phá nặng nề bởi dịch bệnh héo xanh trên cà phê (Coffee wilt disease-CWD) do
nấm F. xylariodes gây ra. Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết các diện tích trồng cà

phê ở Uganda hiện nay điều bị nhiễm bệnh này (Rutherford and Phiri, 2006). Để
phòng phừ bệnh CWD các nhà nghiên cứu Uganda đã chọn lọc thành công các dòng
vô tính cà phê vối có khả năng kháng bệnh nhằm phục hồi việc trồng lại cây cà phê.
Các thí nghiệm nghiên cứu mối quan hệ giữa nấm Fusarium oxysporum và
tuyến trùng M. incognita cho thấy tỷ lệ xuất hiện triệu chứng vàng lá thối rễ cao
hơn rất nhiều khi kết hợp lây nhiễm cả hai loại tuyến trùng và nấm so với khi lây
nhiễm từng loại nấm hoặc tuyến trùng (Bertand et al., 2002). Như vậy đã có sự
tác động thúc đẩy quá trình gây bệnh giữa hai loại tuyến trùng và nấm, ban đầu
tuyến trùng sẽ gây vết thương cho rễ, sau đó nấm sẽ xâm nhập vào rễ qua vết các
vết thương gây thối r ễ và chết (Bertand et al., 2002).
2.4.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
2.4.2.1. Nghiên cứu yếu tố hạn chế về vật lý
Cà phê ở Tây nguyên chủ yếu được trồng trên các lo ại đất phát triển trên đá
bazan. Nguyễn Văn Toàn (2005) trong đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước “Nghiên cứu
đề xuất giải pháp tổng thể sử dụng hợp lý và bảo vệ các loại đất bazan Tây Nguyên”
cho thấy, cà phê ở Tây Nguyên được trồng chủ yếu trên đất bazan. Trong số 430
nghìn ha cà phê lúc bấy giờ thì có đến 405 nghìn ha là đất bazan, trong đó 97,8% là
đất nâu đỏ và nâu vàng trên bazan. Riêng trên địa bàn tình Gia Lai, diện tích cà phê
có 79.112 ha, trong đó cà phê được trồng chủ yếu trên cao nguyên bazan Pleiku.
Nghiên cứu cũng chỉ ra những dấu hiệu của thoái hóa đất bazan trồng cà phê. Ngoài
những diện tích trồng trên đất bazan cà phê còn được trồng trên đất xám, đất phát
triển trên đá phiến. Đất xám cũng là một trong những loại đất thoái hóa, chứa đựng
nhiều yếu tố hạn chế như: nghèo hữu cơ, nghèo dinh dưỡng, chua, .... nên cà phê
trồng trên đất này thường xuống sức nhanh chóng, phải cải tạo phục hồi mới sản
xuất được.
Nhìn chung các nghiên cứu về vật lý đất sau một chu kỳ canh tác cà phê gần
như chưa được đề cập mà chỉ tập trung nghiên cứu về vật lý đất của đất trồng cà
phê. Theo Vũ Cao Thái (1989) đất bazan vùng Tây Nguyên có kết cấu tốt, tơi xốp,
độ phì cao nên cây cà phê sinh trưởng, phát triển tốt, cho năng suất, chất lượng sản
phẩm cao. Điều này đã được nhiề u tác giả như: Nguyễn Trí Chiêm và Đoàn Triệu

Nhạn (1974), Nguyễn Khả Hoà (1995), Hoàng Thanh Tiệm và cs. (1999) đề cập.

22


Tuy nhiên khi đất bazan bị suy thoái đến mức mất sức sản xuất thì các đặc trưng vật
lý bị biến đổi mạnh theo hướng bất lợi đối với sinh trưởng của cây trồng. Đó là hiện
tượng giảm hàm lượng sét tầng mặt, dung trọng cao, độ xốp thấp, xuất hiện chai
cứng ngay bên dưới tầng A. Đất mất kết cấu, sức chứa ẩm và lượng nước hữu hiệu
đều giảm. Nhận định này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả khi
nghiên cứu về tính chất đất bazan trồng cà phê ở Tây Nguyên ( Nguyễn Khả Hoà ,
1995; Nguyễn Văn Toàn, 2004 )....
2.4.2.2. Nghiên cứu yếu tố hạn chế về hóa học
Nghiên cứu về yếu tố hạn chế trong đất bazan tái canh cà phê chưa có nhiều
nhưng yếu tố hạn chế trong đất Việt Nam nói chung đã được chú ý ngay từ giữa
những năm 1960, điển hình là phát hiện thiếu lân trong đất phù sa chua ở v ùng đồng
bằng sông Hồng năm 1965. Kết quả của nghiên cứu này đã giúp cho việc mở rộng
diện tích lúa mới thấp cây, chịu phân, năng suất cao như IR8, IR5 trên các vùng đất
chiêm trũng ở đồng bằng sông Hồng, góp phần gia tăng sản lượng lúa ở các tỉnh
miền Bắc lúc bấy giờ. Tiếp theo phát hiện lân là yếu tố hạn chế ở vùng đất phù sa
chua ở miền Bắc và về sau là tại các vùng đất phèn ở đ ồng bằng sông Cửu Long và
trên đất bazan trồng cà phê tại Tây Nguyên .
Nghiên cứu yếu tố hạn chế trong đất về hoá học ở đất cà phê tái canh chưa
thấy đề cập nhiều mà chỉ có những nghiên cứu về tính chất đất trồng cà phê. Nguyễn
Văn Toàn (2004) cho rằng trong đất cà phê, tính chất hóa học của đất thay đổi theo
các xu hướng rất khác nhau, trong đó có những chỉ tiêu gia tăng như hàm lượng lân
dễ tiêu. Tuy nhiên nhiều chỉ tiêu sụt giảm so với trước khi trồng cà phê như hàm
lượng hữu cơ, pH KCl, canxi, magiê và rất có thể đây cũng là những yếu tố hạn chế
đối với tái canh cà phê. Trong các yếu tố hóa học, yếu tố hạn chế được nhiều nghiên
cứu xác định là suy giảm hữu cơ, theo Lương Đức Loan (1991) đất mới khai hoang

từ rừng có hàm lượng hữu cơ 5 -6%, nhưng sau 4-5 năm canh tác thì lượng hữu cơ
chỉ còn 2-3%. Khi hàm lượng hữu cơ trong đất giảm sẽ kéo theo sự thay đổi hàng
loạt các tính chất lý, hóa học đất theo hướng bất lợi cho sinh trưởng, phát triển và
năng suất của cà phê (Trình Công Tư, 1999). Chính vì vậy các tác giả đã khuyến
nghị bón phân hữu cơ có tác dụng trong việc nâng cao độ phì nhiêu thực tế của đất
bazan trồng cà phê, góp phần duy trì và ổn định độ phì nhiêu của đất bazan.
Sau yếu tố hạn chế về hàm lượng hữu cơ thì lân được coi là yếu tố hạ n chế
trong đất trồng cà phê (Lương Đức Loan, 1991; Tôn Nữ Tuấn Nam, 1995). Nguyễn
Tử Siêm (1990) chỉ ra rằng lân dễ tiêu thấp đã trở thành yếu tố hạn chế đến sinh

23


trưởng và năng suất cà phê trên đất bazan Phủ Quỳ. Nhận định nà y cũng đã được
Nguyễn Khả Hoà (1995) khẳng định khi nghiên cứu về lân với cây cà phê trên đất
bazan Tây Nguyên. So với một số chỉ tiêu khác thì hàm lượng lân dễ tiêu tr ong đất
feralit đỏ thẫm chiếm tỉ lệ rất thấp trong thành phần lân tổng số, cao nhất là 1,2% và
thấp nhất nhất bằng không (Lê Văn Căn và Pagel, 1961).
Nghiên cứu về đất phát triển trên sản phẩm phong hóa của đá bazan Tây
Nguyên, Đỗ Đình Đài (2001) đã cho thấy một số hạn chế khá phổ biến của đất phát
triển trên sản phẩm phong hóa của đá bazan Tây Nguyên là chua mạnh, nghèo
catrion trao đổi, độ bão hòa bazơ thấp, nghèo kali tổng số, lân dễ tiêu và kali dễ tiêu.
Theo Nguyễn Tiến Sỹ (2 010) nhóm đất đỏ phát triển trên đá bazan trồng cà
phê tỉnh Đắk Nông đang có dấu hiệu bị thoái hóa do thành phần khoáng sét của đất
đã biến đổi nhiều, hàm lượng nhóm khoáng kaolinit giảm và hàm lượng gibsit trong
đất tăng. Đất có tỷ lệ các dạng Fe-P, Al-P cao là một trong những nguyên nhân làm
đất nghèo lân dễ tiêu. Hàm lượng kali tổng số và kali dễ tiêu ở mức nghèo, khả năng
cố định kali của đất cũng rất thấp.
Sự thiếu hụt các nguyên tố trung và vi lượng cũng được một số tác giả nghiên
cứu. Theo Tôn Nữ Tuấn Nam (1993), phần lớn đất đang trồng cà phê ở Tây Nguyên

thiếu lưu huỳnh. Đất đỏ bazan tuy có hàm lượng lưu huỳnh ca o hơn các loại đất
khác (đạt 300-700 ppm), nhưng không đủ cung cấp cho cà phê. Đồng quan điểm với
nhận định trên Trình Công Tư (1999) cũng khuyến cáo nên sử dụng các dạng đạm
có lưu huỳnh.
Kẽm cũng là yếu tố được cho là hạn chế, nếu bón cho cà phê sẽ gia t ăng năng
suất (Tôn Nữ Tuấn Nam, 1999) điều đó chứng tỏ đất cũng thiếu kẽm.
Một số nghiên cứu cho rằng vấn đề xói mòn đất ở đất trồng cà phê là vấn đề
đáng được quan tâm do mất dinh dưỡng. Lê Hồng Lịch và Lương Đức Loan (1997)
cho rằng trong cùng điều kiện về độ dốc và lượng mưa thì vườn cà phê kiến thiết cơ
bản 2 năm tuổi có lượng đất bị cuốn trôi do xói mòn qua một mùa mưa nhiều hơn
gấp 5 lần so với rừng tái sinh. Theo Lương Đức Loan và cs. (1996) cùng với sự mất
đất, lượng dinh dưỡng bị cuốn trôi hàng năm trên 1 hecta cà phê kiến thiết cơ bản
cũng khá cao: 71 kg N, 60 kg P2O5, 28 kg K2O, 1.160 kg hữu cơ. Nghiên cứu của
Hồ Công Trực và Lương Đức Loan (1997) cho thấy đối với đất nâu đỏ phát triển
trên đá bazan ở độ dốc 10o lượng đất mất đi hàng năm > 100 tấn/ha. Như vậy vấn đề
mất đất kéo theo mất dinh dưỡng, rửa trôi cation trao đổi là vấn đề rất đáng quan

24


×