VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THÙY HƢƠNG
NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ THANH THẢO
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI, 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................... 8
1.1. Cơ sở lý thuyết ................................................................................. 8
1.2. Tình hình nghiên cứu về cách tân thơ Việt và thơ Thanh Thảo ........ 18
CHƢƠNG 2: VẤN ĐỀ CÁCH TÂN TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN
ĐẠIVÀ HÀNH TRÌNH THƠ THANH THẢO .................................... 36
2. 1. Những hiện tượng cách tân thơ Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỷ XX
đến nay. ................................................................................................. 36
2.2.Thơ Thanh Thảo – hành trình góp nhặt “những vệt bùn làm vinh hạnh
cho thơ” ................................................................................................ 45
2.3. Quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo ........................................... 56
CHƢƠNG 3: HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG VÀ CẤU TRÚC TRONG
THƠ THANH THẢO ........................................................................... 70
3.1. Hệ thống biểu tượng trong thơ Thanh Thảo ..................................... 70
3.2. Cấu trúc trong thơ Thanh Thảo ....................................................... 97
CHƢƠNG 4: NGÔN NGỮ VÀ THỂ LOẠI TRONG THƠTHANH THẢO116
4.1. Ngôn ngữ trong thơ Thanh Thảo ................................................... 116
4.2. Thể loại trong thơ Thanh Thảo ...................................................... 134
KẾT LUẬN ........................................................................................ 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1.Trong bức tranh chung của thơ Việt sau 1975, chúng ta đã chứng
kiến một sự thay đổi hết sức đa dạng, phong phú với nhiều khuynh hướng
khác nhau. Bên cạnh dòng mạch viết về chiến tranh với những khúc ca bi
tráng của dân tộc như một quán tính tất yếu, xu hướng trở về với những trăn
trở của cái tôi cá nhân, với những lo âu thường nhật “xa dần truyện ngắn bớt
dần thơ” trở nên phổ biến và tìm được sự đồng cảm sẻ chia của độc giả. Đi xa
hơn trên con đường tìm kiếm những giá trị thẩm mỹ mới là xu hướng đi sâu
vào vùng mờ tâm linh đậm màu siêu thực và những động hình ngôn ngữ
mới
Có thể nói nhà thơ tìm đến sự đổi mới theo hướng nào cũng đáng trân
trọng, bởi đó là khát khao của những người thực sự muốn đưa thơ Việt Nam
bứt phá khỏi những vòng quay cũ kỹ, gia nhập vào nhịp sống văn chương thế
giới. Tuy nhiên, thành công hay thất bại của những cách tân ấy còn lệ thuộc
vào tài năng và bản lĩnh của mỗi người nghệ sĩ.Và rõ ràng, mỗi nhà thơ đều
có những đóng góp ở những mức độ khác nhau, góp phần vào cuộc chuyển
mình của thơ ca đương đại.
1.2. Khi Thanh Thảo ghi tên mình lên thi đàn thì cũng là lúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào thời kỳ gian khổ, khốc liệt nhất.
Lớp thơ trẻ với sự góp mặt của Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật,
Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh
đã tạo lập được những dấu
ấn riêng. Song có thể nói sự hiện diện của Thanh Thảo trong thời điểm cuối
cùng của cuộc kháng chiến như là một sự tiếp sức trong đội ngũ những nhà
thơ trẻ và đáng ghi nhận là “Thơ chống Mỹ đến Thanh Thảo đã lắng vào
chiều sâu, cái xô bồ của chiến tranh, cái tàn bạo của giặc Mỹ, cái gian khổ
của người lính được Thanh Thảo nhìn với cái nhìn trầm tĩnh lạ thường” [35;
69]. Sau năm 1975, Thanh Thảo vẫn sung sức với tinh thần tìm tòi đổi mới
1
không ngừng.
ng là tác giả của 06 tập thơ
ấu chân qua trảng c , ạch
đàn g i bạch dương, Tàu sắp vào ga, T m t đến m t tr m, Thanh Thảo
70…), 12 trường ca Nh ng người đi tới bi n, Nh ng ng n s ng mặt trời, Trò
chuyện với nhân vật của mình, Nh ng nghĩa sĩ Cần Giu c,
xuân, Trẻ con ở Sơn Mỹ, hối vuông ru bích,
chân đất,
m tr n cát, Metro, Trường ca
ám mây hình người thợ s n và con ch ,
tập tiểu luận phê bình (Ng n th
ùng nổ mùa
ạ tôi là Sáu Dân và 3
sáu của bàn tay, Trò chuyện với dòng
sông,Mãi mãi là bí mật . Trong các sáng tác của mình, Thanh Thảo đã bộc lộ
khát vọng cách tân mãnh liệt, không ngần ngại “ném thơ mình vào thác xiết”,
dũng cảm dấn thân trên con đường nhọc nhằn mà vinh quang của tìm tòi và sáng
tạo. Con đường thơ của Thanh Thảo phản ánh tương đối rõ n t quá trình vận
động và đổi mới của văn học Việt Nam sau năm 1975. Không dừng lại với
những thành tựu đã đạt được Giải thưởng Hội nhà văn năm 1979 cho tập thơ
ấu chân qua trảng c ; Giải thưởng Ban văn học quốc phòng Hội nhà văn Việt
Nam cho tuyển tập trường ca Nh ng ng n s ng mặt trời năm 1995; Giải thưởng
nhà nước đợt 1 về văn học nghệ thuật năm 2001; Giải thưởng Hội nhà văn năm
2012 cho Trường ca Chân đất Thanh Thảo vẫn tiếp t c làm mới những tập thơ
và trường ca gần đây của mình.
Có thể nói, với những gì đã đạt được, Thanh Thảo đang dự phần đáng
kể vào việc thúc đẩy tiến trình đổi mới thơ ca nước nhà.
1.3.Thơ Thanh Thảo vì thế sớm nhận được sự quan tâm của giới nghiên
cứu, phê bình và bạn yêu thơ. Nhiều công trình khoa học đã đề cập tới thơ
Thanh Thảo từ các góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một công
trình mang tính chuyên biệt nào khảo sát một cách toàn diện, có hệ thống
những cách tân nghệ thuật trong toàn bộ hành trình sáng tác của Thanh Thảo
từ sau 1975 cho đến nay , ở cả hai lĩnh vực làm nên tên tuổi của nhà thơ là
thơ và trường ca. Luận án của chúng tôi có thể xem là một cố gắng để tìm
hiểu vấn đề này.
2
Nghiên cứu vấn đềNh ng cách tân nghệ thuật trong thơ Thanh
Thảochúng tôi hy vọng sẽ góp một tiếng nói vào việc định hình giá trị những
cách tân nghệ thuật của nhà thơ. Từ đó khẳng định những đóng góp mới mẻ
của Thanh Thảo trong dòng chảy lịch sử của hành trình cách tân thơ Việt
Nam. Từ trường hợp nhà thơ Thanh Thảo, luận án cũng mong muốn góp một
cách nhìn về cách tân thơ cũng như tiêu chí để nhận diện và đánh giá cách tân
trong sáng tác của một tác giả.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án khảo sát, nghiên cứu những cách tân nghệ thuật Thanh Thảo
trong thơ và trường ca Thanh Thảo. Bên cạnh đó, tiểu luận phê bình của
Thanh Thảo là tài liệu bổ trợ không thể thiếu trong việc lí giải, nhận định
những biểu hiện của sáng tạo cách tân.
Luận án khảo sát, nghiên cứu 12 trường ca, 06 tập thơ và 3 tập tiểu luận
phê bình của Thanh Thảo.Trong quá trình đó, chúng tôi đặt những cách tân
nghệ thuật của Thanh Thảo trong mối quan hệ gắn bó với hành trình cách tân
thơ Việt nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích nghi n c u
Thực hiện đề tài Nh ng cách tân nghệ thuật trong thơ Thanh Thảo,
chúng tôi hướng vào hai m c tiêu cơ bản:
Th nhất, bước đầu xây dựng có hệ thống lý thuyết về cách tân nghệ
thuật, làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản như: cách tân nghệ thuật là gì, phương
diện của cách tân
để một lần nữa khẳng định lại điều cốt lõi: Cách tân là lẽ
sống còn của thơ. Hành trình cách tân thơ là một hành trình bền bỉ, lâu dài và
có sự tiếp sức của lớp lớp các thế hệ nhà thơ. Tuy nhiên, ở mỗi nhà thơ biểu
hiện về cách tân nghệ thuật trong sáng tác cũng hết sức phong phú, đa dạng,
thậm chí gây nhiều tranh cãi Một quan niệm đúng đắn, hợp lí về cách tân
3
nghệ thuật với những tiêu chí rõ ràng sẽ là một điểm tựa để xem x t, đánh giá
những cách tân nghệ thuật có giá trị với cái “mơi mới, là lạ” trong sáng tác thơ.
Th hai, đặt vấn đề nghiên cứu thơ của Thanh Thảo từ phương diện
những cách tân nghệ thuật, chúng tôi muốn xác lập một cái nhìn bao quát,
toàn diện hành trình sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo, ghi nhận những nỗ
lực kiếm tìm và sáng tạo những hình thức nghệ thuật độc đáo mới lạ, từ đó
khẳng định những đóng góp riêng của Thanh Thảo trên hành trình cách tân
thơ Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên c u:
Để đạt được hai m c đích nêu trên, đề tài Nh ng cách tân nghệ thuật
trong thơ Thanh Thảo thực hiện như sau:
- Xây dựng quan niệm hoàn chỉnh về cách tân nghệ thuật, lấy đó làm
điểm tựa về lý thuyết để vừa khảo sát, vừa chứng minh bằng những hiện
tượng cách tân thơ Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỷ XX đến nay.
- Khẳng định cách tân thơ là nỗ lực không ngừng của các thế hệ nhà
thơ, là yếu tố nội tại trong sự vận động của thơ nói riêng và văn học nói
chung. Luận án đi vào khảo sát và khẳng định những đóng góp riêng trong
hành trình thơ cũng là hành trình cách tân thơ của Thanh Thảo từ nhiều góc
độ như quan niệm nghệ thuật, biểu tượng, cấu trúc, ngôn ngữ, thể loại.
- Khẳng định vị trí xứng đáng của Thanh Thảo trong đời sống thi ca
đương đại Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp loại hình:
Thơ và trường ca thuộc loại hình trữ tình. Vì thế sử d ng phương pháp
loại hình là thao tác tất yếu phù hợp với hướng đi của luận án. Phương pháp
loại hình căn cứ vào những phương diện loại hình của thơ để nghiên cứu ngôn
ngữ, biểu tượng, cấu trúc
thơ Thanh Thảo. Đồng thời cũng làm rõ những
điểm cốt lõi, mang bản chất loại hình của thơ.
4
4.2. Phương pháp thống kê phân loại:
Những yếu tố cách tân nghệ thuật trong thơ của Thanh Thảo được biểu
hiện phong phú và đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, thống kê
phân loại là cơ sở để người viết rút ra những biểu hiện chính của những cách
tân nghệ thuật trong thơ ông.
4.3. Phương pháp nghiên cứu lịch sử:
Sử d ng phương pháp này, người viết đặt những sáng tác của Thanh
Thảo trong sự vận động và phát triển của quá trình cách tân thơ trong phạm vi
từ đầu thế kỷ XX đến nay. Điều này cần thiết để định vị đóng góp và vị trí của
nhà thơ trong dòng chảy của văn học Việt Nam nói chung và thơ nói riêng.
4.4. Phương pháp phân tích tổng hợp:
Chúng tôi sử d ng phương pháp này để phân tích, tổng hợp những biểu
hiện c thể của cách tân nghệ thuật trong thơ Thanh Thảo. Đặt những tín hiệu
nghệ thuật đó trong mối liên hệ toàn vẹn của thế giới nghệ thuật thơ Thanh
Thảo nhằm đưa ra những kiến giải xác đáng, tin cậy về phong cách sáng tác
và đóng góp của nhà thơ.
4.5. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Đây cũng là một phương pháp nghiên cứu quan trọng. Ngoài việc dùng
phương pháp này để đối chiếu, so sánh những biểu hiện phú đa dạng của các
phương diện hình thức và nội dung trong sáng tác của Thanh Thảo, phương
pháp này giúp chúng tôi làm rõ điểm tương đồng và sự khác biệt trong việc
tìm tòi đổi mới và cách tân trong thơ Thanh Thảo với các sáng tác thơ trước
và sau năm 1975 của ông nói riêng và một số nhà thơ cùng thời nói chung.
Tất nhiên, các phương pháp này được sử d ng kết hợp chứ không tách
biệt trong quá trình nghiên cứu.
4.6. Phương pháp tiếp cận thi pháp học:
Thấu triệt quan niệm hình thức mang tính nội dung, tìm hiểu các
phương thức, phương tiện chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng để làm rõ
những cách tân nghệ thuật nổi bật của trong thơ Thanh Thảo
5
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trong nghiên cứu văn học, việc tìm hiểu sự cách tân để làm sáng danh
những đóng góp của cá nhân cho lịch sử nghệ thuật bao giờ cũng là một yêu
cầu bức thiết và khó khăn.Tuy nhiên, cách tân không phải là lối mòn trong
sáng tạo nghệ thuật nên nhận diện và đánh giá cách tân vốn không hề dễ dàng,
thậm chí là tìm được sự đồng thuận.
Luận án đi tìm câu trả lời cho một câu hỏi không mới: cách tân là gì.
Trong thực tế nghiên cứu, khái niệm cách tân và cách tân nghệ thuật mới
dừng ở khái niệm khá đơn giản, chưa đi sâu vào bóc tách những phương diện
khác nhau của vấn đề. Luận án mong muốn đem đến một quan niệm toàn diện
về vấn đề cách tân nghệ thuật, tạo tiền đề cho một cách hiểu thống nhất về
những hiện tượng nhà văn, nhà thơ có những đóng góp mới mẻ cho văn học.
Với trường hợp Thanh Thảo, luận án cho rằng: Thanh Thảo không chỉ
là một hiện tượng nổi bật của thơ ca thời chống Mỹ, mà là một tác giả lớn của
thi ca Việt Nam hiện đại. Tên tuổi của ông gắn với một sự nghiệp phong phú,
một sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai. Một tác giả như vậy bao giờ cũng tiềm ẩn
nhiều giá trị cần được nghiên cứu khám phá. Vì vậy, nói đến Thanh Thảo là
nói đến một nỗ lực cách tân không mệt mỏi với nhiều thành công sáng giá;
bài viết về Thanh Thảo không ít thì nhiều, không đậm thì nhạt, đều đề cập đến
các khía cạnh cách tân của ông. Tuy nhiên, luận án là công trình chuyên biệt
đầu tiên nghiên c u về nh ng cách tân nghệ thuật trong thơ Thanh Thảo (bao
quát m t hành trình dài sáng tạo của Thanh Thảo t n m 1972 cho đến nay).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về phương diện lý luận
Trong luận án, chúng tôi bước đầu xác lập n i hàm của khái niệm cách
tân thơ và nh ng phương diện cách tân nghệ thuật thơ trong sáng tác của m t
tác giả. Vận d ng quan điểm lịch sử trong nghiên cứu sáng tác và lí thuyết thi
pháp học, luận án phần nào khắc ph c được cách nhìn nhận, suy đoán cảm
6
tính khi nghiên cứu, đánh giá về những đóng góp cách tân nghệ thuật ở từng
tác giả. Trên cơ sở đó, luận án đi sâu nghiên cứu những cách tân nghệ thuật
trong thơ Thanh Thảo, khẳng định những nỗ lực cách tân mới mẻ, độc đáo
của ông. Với những thành tựu đó, thơ Thanh Thảo đang dự phần đáng kể vào
quá trình đổi mới văn học Việt Nam.
6.2. Về phương diện thực tiễn
Thanh Thảo là một tác giả có tác phẩm được giảng dạy ở PTTH. Tác
phẩm
àn ghi ta của Lorca (Sách giáo khoa ngữ văn 12 , từ khi được tuyển
chọn đưa vào chương trình giảng dạy, việc tiếp nhận và giảng dạy không phải
lúc nào cũng dễ dàng, thông tỏ. Do đó, luận án có thể là tài liệu tham khảo về
một cách tiếp cận bài thơ nói riêng và thơ Thanh Thảo nói chung.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, phần ết luận, danh m c Tài liệu tham khảo, phần
N i dung của luận án được triển khai thành 4 chương
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2.Vấn đề cách tân trong thơ Việt Nam hiện đại và hành trình
thơ Thanh Thảo
Chương 3. Hệ thống biểu tượng và cấu trúc trong thơ Thanh Thảo
Chương 4. Ngôn ngữ và thể loại trong thơ Thanh Thảo
7
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 . Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Khái niệm cách tân nghệ thuật
Cách tân vốn là khái niệm không xa lạ trong đời sống và trong văn học
nghệ thuật. Theo T đi n Tiếng Việt và Sổ tay t Hán Việt, cách tân có nghĩa
là đổi mới. Khi được sử d ng như một khái niệm thì thuật ngữ này chỉ sự tiến
bộ căn bản so với cái cũ và thường được sử d ng để chỉ sự đổi mới trên lĩnh
vực văn hóa nghệ thuật. Nói như vậy để phân biệt với khái niệm canh tân, duy
tân cũng có nghĩa là đổi mới, cải cách theo cái mới nhưng thường sử d ng
trong lĩnh vực kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, trong những nhận định, đánh giá về văn học, các nhà nghiên
cứu lại sử d ng thuật ngữ cách tân và đổi mới với mức độ, phạm vi khác nhau.
Lý giải điều này, trong bài viết Hành trình đổi mới thơ Việt Nam hiện đại nhà
nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp phân biệt: “Thông thường, khi sử dụng khái
niệm đổi mới, người ta muốn n i đến nh ng đ t phá sâu sắc đem đến sự mới mẻ
cả n i dung lẫn nghệ thuật, còn khái niệm cách tân chủ yếu n i về sự mới mẻ ở
phương diện hình th c, mặc dù trong tư duy nghi n c u hiện đại n i dung cũng
chính là hình th c và hình th c cũng là n i dung”[43, Tr.26] Như vậy, thuật ngữ
đổi mới thường để chỉ sự thay đổi mang tính bước ngoặt của giai đoạn, thời kỳ
văn học. Trong khi đó, cách tân được hiểu là nỗ lực tạo ra cái mới được nhấn
mạnh chủ yếu ở sự thay đổi hình thức nghệ thuật của tác giả hoặc một khuynh
hướng, trào lưu văn học nhất định. Và khái niệm đổi mới cũng được sử d ng phổ
biến trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Khái niệm cách tân hẹp hơn, chủ
yếu được sử d ng trong lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật. Do đó, khái niệm
cách tân mới là đối tượng luận án cần làm sáng tỏ.
8
Đi sâu hơn vào nội hàm khái niệm cách tân nghệ thuật có thể nhận ra
hai mức độ: Th nhất, cách tân luôn đi liền với hoạt động sáng tạo của người
nghệ sĩ. Mỗi khi đặt bút viết là một lần người nghệ sĩ tìm đến một cái mới –
cái mới ở đây được hiểu là sự tránh lặp lại chính mình, tránh lặp lại “người
khác” trong sáng tạo nghệ thuật. Hiểu như thế thì cách tân là hành động phổ
biến, là yêu cầu của sáng tạo nghệ thuật. Th hai, cách tân nghệ thuật không
chỉ tạo ra những sản phẩm cách tân đơn lẻ tác phẩm hoặc yếu tố nội dung
hay hình thức nào đó trong tác phẩm mà tạo ra sự thay đổi hệ hình tư duy
paradigm , tạo ra một hệ thẩm mỹ mới so với hệ thẩm mỹ đã ngự trị trước
đó. Nếu lấy văn học trung đại làm điểm tựa thì Thơ mới 1932 -1945 là một
cuộc cách mạng về thi pháp, đưa văn học ra khỏi vòng quay của thi pháp
trung đại, gia nhập và hội nhập với văn học hiện đại trên thế giới trong những
năm 30 của thế kỷ XX. Đó là một cách tân mang tính bước ngoặt của thơ nói
riêng và văn học Việt Nam nói chung trong sự chuyển dịch từ hệ thẩm mỹ
trung đại sang hệ thẩm mỹ hiện đại. So sánh sự khác biệt này, chúng tôi mượn
lại cách nói của Lưu Trọng Lư – một trong những lá cờ đầu của Thơ mới trong lần diễn thuyết ở Quy Nhơn năm 1934: “
Các cụ thích màu đ choét,
ta lại ưa nh ng màu xanh nhạt… các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đ m
khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà lúc đúng ng . Nhìn m t cô gái xinh xắn,
ngây thơ, các cụ coi như đã làm m t điều t i lỗi, thì ta cho là mát mẻ như
đ ng trước m t cánh đồng xanh… Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn
nhân, nhưng đối với ta thì tr m nghìn muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình
thoảng qua, cái tình gần gụi, cái tình xa xôi… cái tình trong giây phút, cái
tình ngàn thu” [189, Tr. 16]
Tất nhiên, để tạo nên một cuộc cách mạng thơ rầm rộ và thành công
triệt để như Thơ mới, không thể không kể đến những nỗ lực cách tân từ phạm
vi hẹp hơn: tác giả. Trong diện mạo chung của Thơ mới, ta lại bắt gặp những
9
gương mặt rất riêng, với những tìm tòi cách tân theo nhiều ngã rẽ khác nhau:
Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” Hoài Thanh chịu ảnh
hưởng của thơ lãng mạn và tượng trưng Pháp; Hàn Mặc Tử “người ti n phong
đưa thơ đi vào con đường hiện đại, hòa nhập vào mặt bằng thơ hiện đại thế
giới” Mã Giang Lân với sáng tác mang đậm dấu ấn tượng trưng và siêu thực;
Nguyễn Bính, người tưởng như xưa cũ “lại tìm ra lối đi ri ng cho mình đ trở
thành m t trong nh ng ngôi sao sáng nhất của cu c cách tân thơ ca gi a lòng
thế kỷ XX” Khuất Bình Nguyên với điệu hồn dân tộc trong ca dao
Mỗi người
một cách, họ đã tạo ra một thế giới thơ rất riêng và đầy ám ảnh trong Thơ mới.
Như thế, cách tân nghệ thuật có thể phân loại theo phạm vi rộng nhóm tác giả
hoặc phạm vi hẹp hơn tác giả . Kỹ lưỡng hơn nữa, chúng ta hoàn toàn có thể
quan sát cách tân từ phương diện nội dung hoặc hình thức của tác phẩm. Sự phân
loại này cần thiết trong quá trình nhận diện, đánh giá đúng mực những cách tân
nghệ thuật ở phạm vi và mức độ khác nhau.
Ở đây, cũng cần nói rõ hơn: với sáng tạo nghệ thuật, mọi cách tân đều
đáng quý, đáng trân trọng. Bởi lẽ, nếu không có các nhà cách tân, phong trào
cách tân, nghệ thuật sẽ chỉ dậm chân tại chỗ; nghệ thuật sẽ chỉ là sự nối dài
quá khứ, một quá khứ không chịu qua đi. Nhờ có cách tân, nghệ thuật được
nâng lên một tầm mới cao hơn, vì thế tiến bộ hơn. Vậy đâu là động lực của
cách tân nghệ thuật? Đó là sự nhàm chán, muốn bứt thoát khỏi những hệ thẩm
mỹ đã cũ, đã ngự trị quá lâu trong đời sống văn học hay sự khát khao muốn
xác lập cái mới, hệ giá trị thẩm mỹ mới? Câu trả lời là cả hai, bởi cái mới ra
đời bao giờ cũng là sự phủ định cái cũ tất nhiên ở đây không hiểu là sự phủ
định sạch trơn của chủ nghĩa vị lai .
Cách tân nghệ thuật vì thế cũng có thể khái quát ở hai khuynh hướng
phổ biến: khuynh hướng cách tân nghệ thuật dựa trên những giá trị truyền
thống và khuynh hướng cách tân nghệ thuật từ những ảnh hưởng bên ngoài.Ở
10
khuynh cách tân thứ nhất, tác giả Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ng v n h c
cho rằng: “cách tân là thực hiện việc tổ ch c lại, tái thiết theo cách mới với
nh ng gì đã t ng được các thế hệ trước nắm v ng, đề xuất, sử dụng" [5,
Tr.23]. Như vậy, cách tân được hi u là m t cách làm mới truyền thống.
Truyền thống được hiểu là “nh ng kinh nghiệm v n hoá nghệ thuật ở các thời
đại đã qua, được nhà v n ở thời đại sau tiếp nhận và khai thác, xem như kinh
nghiệm quí báu, như định hướng sáng tạo cho mình". Mọi sự phủ nhận sạch
trơn, coi truyền thống là những gì lạc hậu, không hợp thời, muốn sáng tạo cái
mới đoạn tuyệt hoàn toàn với truyền thống dễ dẫn đến những tìm tòi lạc lõng,
thiếu sức sống. Bởi lẽ, truyền thống là một thực thể có tính hai mặt, có mặt ổn
định bảo thủ nhưng có mặt tích cực, hàm chứa những yếu tố mở, hiện đại.
Những yếu tố tượng trưng, siêu thực xuất hiện rất lâu trong lịch sử văn học
trước khi chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực ra đời vào thế kỷ XX. Ngay cả
chủ nghĩa hậu hiện đại khi coi hoài nghi và giễu nhại như những nguyên tắc
cơ bản thì cũng phải có đối tượng để giễu nhại, và một trong những đối tượng
ấy chính là truyền thống nghệ thuật trước đó. Và hiện nay, khi liên văn bản
coi “mọi văn bản đều là liên văn bản” và đề xuất một cách đọc mới thì càng
cần xem lại cách hiểu tích cực về truyền thống. Một trong những cách hiểu
tích cực đó là xem truyền thống là những kinh nghiệm nghệ thuật với tác
d ng điều chỉnh, cảnh báo; có thể mang chức năng hướng đạo, có thể trở
thành những huyền thoại, những mẫu gốc để thời đại sau, hoặc cung cấp
nghĩa mới, hoặc cải tiến và coi như một phản đề nghệ thuật. Ở dạng gây tranh
cãi nhất, sự cách tân thường bác bỏ truyền thống gần, nhằm vào tầng sâu xa
hơn của truyền thống. Nhận diện những cách tân theo khuynh hướng này khó
phát hiện, nhận diện hơn do trầm tích của truyền thống quá lớn.
Nói như thế không có nghĩa là cách tân chỉ là những sáng tạo mới trên
nền truyền thống. Không khó để tìm thấy những ảnh hưởng đậm nhạt khác
11
nhau của các tác giả thơ tượng trưng Pháp như Baudelaire, Arthur Rimbau,
Paul Verlaine
trong thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng
Chương... Nhưng điều đáng quý là “hồn thơ Pháp hễ được chuy n vào Việt
Nam là được Việt h a hòa toàn…Thi v n Pháp không làm mất bản sắc Việt
Nam. Nh ng mô ph ng ngu mu i lập t c bị đào thải” [60, Tr.34]. Hấp th và
chịu ảnh hưởng bởi từ trường của những tác gia lớn, cập nhật những trào lưu,
xu hướng, khuynh hướng văn học, triết học lớn trên thế giới vừa là một tất
yếu khách quan của lịch sử trong bối cảnh giao lưu văn hóa toàn cầu, vừa là
một cách tìm kiếm những đường hướng cách tân mới mẻ của thơ. Khuynh
hướng cách tân này dễ thấy hơn, tuy nhiên lại dễ rơi vào hai thái cực phản
ứng trái ngược nhau của người đọc: kỳ thị hoặc thích thú. Với hiện tượng thơ
sau 1975, độc giả này có thể buông lời “thơ bây giờ không ra gì” nhưng độc
giả khác lại có thể nói ngược hẳn và sẵn sàng đưa ra một danh sách dài những
bài thơ hay theo góc nhìn của họ. Trước những tác phẩm như
ng ch , Ng
lời của Lê Đạt, Ngựa bi n, Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng, Sự mất ngủ
của lửa, Người đàn bàn gánh nước sông, ài ca nh ng con chim đ m của
Nguyễn Quang Thiều, ầu trời lông gà lông vịt của Trần Tiến Dũng, Chất
trụ, Vỉa t của Nguyễn Hữu Hồng Minh
ý kiến đánh giá thật khác nhau,
khen có mà chê thậm chí mạt sát cũng có. Phản ứng trái chiều đó thực tế có
chung một xuất phát điểm, đó là khuynh hướng cách tân này đem đến cái
hoàn toàn “lạ” với gu thẩm mỹ và “khẩu vị” quen thuộc của người đọc. Cách
tân nghệ thuật vì thế không chỉ là một thử thách với bản lĩnh sáng tạo của tác
giả, mà còn là một thử thách với sự tiếp nhận. Thông thường người đọc vẫn
dùng hệ thẩm mỹ cũ, đã quen thuộc để đo đếm những cách tân mới. Thực tế
thì không phải thước đo cũ nào cũng đo được sản phẩm mới. Vậy làm thế nào
để cải tiến “khẩu vị”, để thu hẹp khoảng cách thẩm mỹ của người đọc với
thành tựu của các nhà cách tân? Làm sao để tránh được hiện tượng đem
12
“thước ngắn” để đo “người dài”? Một thái độ đồng điệu với những cách tân
và một tinh thần cởi mở, hiểu biết, xem x t một cách khoa học, khách quan là
điều cực kỳ cần thiết. Bởi những thành kiến và những nhân danh ngoài nghệ
thuật dễ làm nhiễu quá trình tiếp nhận và có thể làm “thui chột” những khao
khát cách tân chân chính. Tự nâng mình lên, đọc một bài thơ mới với một “lỗ
tai mới”, sẵn sàng làm giàu có thêm sự thưởng thức của mình với cái Đẹp, đó
có lẽ là ứng xử cần thiết để độc giả khi đón nhận cái mới.
Nhất thiết cần có một tinh thần, thái độ, cách ứng xử như thế với những
cách tân nghệ thuật, còn bởi lẽ: Cách tân nghệ thuật vốn dĩ là một con đường
đầy thử thách chông gai mà hiếm có nhà cách tân nào, phong trào cách tân
nào thành công ngay từ điểm khởi đầu. Một lộ trình cách tân thường đi từ sự
tiếp thu m t chiều những yếu tố văn hóa, văn học mới , đến những sáng tạo
bước đầu còn mang tính mô ph ng, lắp ghép, đôi khi còn “sống sượng”
những yếu tố ngoại lai, và cuối cùng mới là sự kết tinh khi sự hấp th những
yếu tố bên ngoài đã trở nên nhuần nhuyễn . Hành trình đó bao giờ cũng bắt
nguồn từ những thôi thúc từ cá nhân nhà văn và cuối cùng là sự trở về với
chính bản thể. Nói cách khác, sự kết tinh đó là kết quả của một cái tôi đã
mang cái nhìn, cách suy cảm mới về hiện thực; là cái tôi nhìn ngắm, chiêm
nghiệm thế giới bằng một cái nhìn mới, cảm quan mới. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Mới – m t ti u chuẩn định giá thơ ca đã nói
tới một cái mới như thế: “cái mới trong thơ trước hết nằm ở cách quan niệm
mới của nhà thơ, ở khả n ng đổi mới cảm xúc và chiều sâu lí giải thế giới
(…).
n cạnh việc tìm hi u quan niệm nghệ thuật và chiều sâu triết – mỹ chi
phối quan niệm của chủ th sáng tạo, nhà ph bình phải giải mã được các
bi u tượng nghệ thuật bởi lẽ bi u tượng là nơi kết đ ng chiều sâu cảm nhận
và phổ hệ v n h a của người kiến tạo” [45, Tr. 99]. Bàn sâu hơn về “thành
phẩm mới” như kết quả của những cách tân nghệ thuật, trong bài viết Cách
13
tân: đi tìm cái mới hay cái tôi, tác giả Chu Văn Sơn khẳng định: Trong cấu
thành “thành phẩm mới” đ , n i dung và hình th c, đâu là ng n đâu là gốc
của cái mới? Nếu n i dung là gốc, thì cái gì giúp người viết xử lí m t đề tài?
là cái nhìn mới. Làm sao đ c cái nhìn mới? Phải c m t quan niệm
nhân v n mới và quan tr ng hơn là quan niệm đ “phải tạo n n ở chủ th m t
tình điệu mới, m t tâm hồn mới, điệu sống mới”. Và vì thế, cu c tìm kiếm cái
mới là cu c tìm kiếm cái tôi. Nhưng đ không phải là cái tôi nghề nghiệp,
phải là cái tôi bản th của nghệ sĩ.“Cái tôi mang trong mình tín niệm về giá
trị sống mà mình phát hiện được” [121]
Như vậy, khi xem x t cách tân nghệ thuật không chỉ như một thuật ngữ
mà còn như một khái niệm khoa học, chúng tôi đã cố gắng tường giải những
vấn đề cốt yếu liên quan như bản chất của cách tân nghệ thuật, vai trò, động
lực, khuynh hướng, lộ trình, tiếp nhận cách tân
Cách tân nghệ thuật vốn
không có một khuôn mẫu hay một con đường nào duy nhất, mức độ lại đậm
nhạt khác nhau ở từng thời kỳ, từng giai đoạn và ở mỗi nhà thơ. Nỗ lực lý giải
những khía cạnh khác nhau của khái niệm cách tân nghệ thuật vẫn cần đến
một sự vận d ng vô cùng mềm dẻo, tinh tế trong định vị những cách tân nghệ
thuật vốn muôn màu muôn sắc.
1.1.2. Những phương diện của cách tân nghệ thuật thơ.
Thơ là thể loại văn học nảy sinh sớm. Đã hàng ngàn năm lịch sử trôi
qua, thơ vẫn là tiếng nói tươi trẻ nhất của đời sống, vẫn luôn thiết tha khơi
động đến chiều sâu của tình cảm, gắn bó với những ước mơ hoài bão và
những nhịp đập tha thiết của cuộc sống. Nhìn lại những lối rẽ, những thay
đổi lớn của nền văn học, thơ ca luôn giữ một vai trò quan trọng, khi thì như
một yếu tố tiên phong, chủ chốt trong cuộc cách tân văn học; khi thì nhận
về mình sứ mệnh sau cùng – đánh dấu sự hoàn tất quá trình chuyển mình
của nền văn học. Bởi những biến đổi, tác động lớn lao của sự kiện lịch sử,
14
xã hội không thể được chuyển ngay vào thơ dưới dạng sự việc, vấn đề như
văn xuôi và kịch. Những sự kiện, dư chấn của đời sống cần được “lọc” qua
tình cảm của nhà thơ, thôi thúc nhà thơ lên tiếng. Tất nhiên, không thể phủ
nhận chức năng “dự báo” của thơ. Nói như thế để thấy rằng, với thể loại
thơ, nhà thơ cách tân và độc giả thơ cần sự nhạy cảm nhưng cũng cần sự
bền lòng trong sáng tạo và tiếp nhận.
Trên lý thuyết thì không khó để chỉ ra những phương diện cách tân
nghệ thuật ở thể loại thơ. Vì có thể nói ngay là, thơ có những đặc điểm nghệ
thuật đặc trưng nào thì có chừng đó phương diện thể hiện nỗ lực sáng tạo cách
tân. Từ những đường n t lớn của thể loại như cấu trúc, ngôn ngữ, thể loại, thi
liệu, thi ảnh
. đến những “vi mạch” nhỏ hơn như nhịp điệu, vần điệu, chữ
Nhưng trên thực tế, nhận diện cách tân nghệ thuật nói chung và cách tân nghệ
thuật thơ nói riêng vốn không phải là chuyện đơn giản. Bởi những nẻo đường
cách tân thơ vô cùng rộng mở, bởi mỗi “thành phẩm” của nhà thơ cách tân
luôn “cựa mình” vượt thoát khỏi những giới hạn thẩm mỹ cũ để tìm đến cái
mới, xác lập cái mới
trong khi hệ thẩm mỹ cũ vẫn đang tồn tại. Và cũng
cần cả sự phân biệt cách tân thực sự với việc chạy theo “mốt”: “
trong thơ
vẫn c chuyện chạy theo nh ng mốt này mốt n giống như trong lĩnh vực thời
trang, nhưng về nguy n tắc, gi a cái chạy theo mốt và cái cách tân thật sự c
sự phân biệt khá rõ” [32, Tr. 358].
Vấn đề cách tân nghệ thuật thơ có lẽ cần nhiều hơn những bài viết,
những nghiên cứu chuyên sâu để “tháo gỡ” những lớp lang phức tạp của vấn
đề. Luận án của chúng tôi dừng lại ở việc bước đầu đưa ra những tiêu chí để
nhìn nhận một tác giả được coi là có cách tân nghệ thuật thơ.
Th nhất, cách tân thơ dù có bắt nguồn từ văn hóa truyền thống hay
chịu ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai thì đều phải mang đến “cái mới”, cái
chưa từng xuất hiện trước đó. Do đó, cách tân thơ không thể chỉ xem đơn giản
15
là một cách nói gây sự hiếu kỳ hay ngôn ngữ táo tợn trong thơ,cách tân thơ
trước hết phải là sự đổi mới quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Cũng phải nói
ngay rằng đây không phải là khái niệm “”quan niệm nghệ thuật” của thi pháp
học.Thi pháp học xác định, quan niệm nghệ thuật là “nguy n tắc cắt nghĩa thế
giới và con người vốn c của hình th c nghệ thuật, đảm bảo cho n c khả
n ng th hiện m t chiều sâu nào đ ” [130, Tr.229].Còn khái niệm “quan niệm
nghệ thuật” ở đây lại thuộc phạm trù ý thức tự giác về nghệ thuật của bản thân
người sáng tác. Nó là quan niệm về nghệ thuật. Tức là cách hiểu, cách nhìn
nhận, cách đánh giá của cá nhân nghệ sĩ về chính lĩnh vực nghệ thuật. Một thế
giới nghệ thuật bao giờ cũng được tạo dựng dựa trên một hệ thống quan niệm
riêng của người nghệ sĩ dù nó có được phát biểu tự giác hay không và chi
phối hành trình nghệ thuật đó.
Th hai,ngôn ngữ và cấu trúc là hai yếu tố hình thức mang tính nội
dung thể hiện rõ n t sự lựa chọn, khám phá độc đáo của tác giả trong thể hiện
tư tưởng, quan niệm nghệ thuật. Ngôn ngữ không chỉ là lớp vỏ tư duy mà còn
thể hiện sự lựa chọn phạm vi, đối tượng phản ánh, thể hiện quan niệm về hiện
thực của nhà thơ. Ngôn ngữ do đó cũng là đối tượng của sáng tạo cách tân.
Cấu trúc là yếu tố bên trong, thể hiện sự gắn kết các yếu tố khác làm nên hình
hài của tác phẩm. Cấu trúc lại là yếu tố tương đối bền vững trong thể loại, do
đó cách tân cấu trúc thơ luôn thử thách tài năng của người cầm bút.
Th ba, biểu tượng và thể loại là hai yếu tố không thể thiếu để đánh giá
cách tân của nhà thơ. Từ những “mẫu gốc”, “nguyên mẫu”, tùy thuộc vào sự
tiếp nhận và sáng tạo của tác giả, biểu tượng được hình thành. Con đường
kiến tạo biểu tượng, vì thế mang đậm dấu ấn riêng của nhà thơ. Có thể nói,
trong các yếu tố nghệ thuật thơ, thể loại dường như mặc nhiên được coi là
“khuôn khổ” của tư duy khi nhà thơ bắt đầu sáng tác và được định hình trên
16
văn bản. Cách tân thể loại do đó, thường ít gặp hơn so với những yếu tố hình
thức khác của thơ. Nhưng khi có sự cách tân thể loại, đó thực sự là một tín
hiệu mạnh mẽ thể hiện bước chuyển trong tư duy thơ.
Đây là những phương diện cơ bản, nổi bật nhất trong cách tân nghệ
thuật thơ. Một quan niệm nghệ thuật, quan điểm thẩm mỹ mới tất yếu sẽ dẫn
đến những đổi thay từ nội dung đến hình thức ở đây chúng tôi nhấn mạnh
đến những thay đổi các yếu tố hình thức mang tính nội dung . Dấu hiệu cách
tân có thể phủ khắp sáng tác, nhưng thành công trong cách tân thì có đậm
nhạt khác nhau ở từng tác giả. Trong những tìm tòi cách tân của thơ sau năm
1975, Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng dồn sự cách tân vào
chữ; Lưu Quang Vũ suy tưởng về một thế giới đổ vỡ; Mai Văn Phấn tái tạo,
mở rộng không gian đa tuyến trong thơ; Nguyễn Quang Thiều là sự chuyển
động trong cõi mộng mị...
Như vậy, cách tân nghệ thuật - cách tân thơ là yêu cầu cốt tử đối với sự
tồn tại của thơ, là yếu tố thúc đẩy sự sáng tạo vượt thoát những khuôn mẫu,
giới hạn của lịch sử. Hành trình thơ Việt Nam vì thế hoàn toàn có thể nhìn
như dòng chảy liên t c của lớp lớp thế hệ các nhà thơ cách tân. Nhận định
cách tân thơ, ngoài một độ lùi cần thiết về thời gian cần có những tiêu chí,
phương diện c thể trong đánh giá. Một cái nhìn có hệ thống từ quan niệm
nghệ thuật đến ngôn ngữ, biểu tượng, cấu trúc, thể loại trong hành trình sáng
tác của một nhà thơ là cần thiết để có thể hạn chế được hiện tượng “lấy thước
ngắn mà đo người dài”.
Vận d ng những định hướng trên trong việc khảo sát, đánh giá những
cách tân nghệ thuật của Thanh Thảo, luận án làm sáng tỏ những phương diện
cách tân nghệ thuật thơ độc đáo của ông trong bối cảnh cách tân đổi mới đang
trở thành nhu cầu bức thiết của văn học sau 1975.
17
1.2 . Tình hình nghiên cứu về cách tân thơ Việt và thơ Thanh Thảo
Trong phần này, chúng tôi trình bày hai vấn đề cơ bản. Một là, tình hình
nghiên cứu những cách tân thơ ca Việt Nam trước và sau năm 1975. Hai là,
tình hình nghiên cứu sáng tác Thanh Thảo. Ở khía cạnh thứ nhất, chúng tôi
chú trọng nghiên cứu những cách tân thơ qua một số khuynh hướng, tác giả
tiêu biểu trước và sau 1975. Ở khía cạnh thứ hai, luận án chú ý đến những
nghiên cứu về toàn bộ những sáng tác Thanh Thảo, nhất là những ý kiến về
những cách tân mới mẻ trong thơ và trường ca.
1.2.1. Những nghiên cứu về cách tân trong thơ Việt Nam từ đầu thế kỷ XX
đến nay
Nhu cầu cách tân, đổi mới là nhu cầu nội tại của văn học dù ở bất kỳ
thời kỳ lịch sử nào. Ngay cả với văn học dân gian, dựa trên những kết cấu ổn
định, nhu cầu làm mới thể hiện ở sự thay đổi nội dung tình cảm, cảm xúc phù
hợp với hoàn cảnh xã hội lịch sử địa phương hoặc thời đại.Với văn học thời
kỳ trung đại, bên cạnh quy phạm luôn có sự phá vỡ quy phạm của những cây
bút ưu tú như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công
Trứ
Bên cạnh những “tùng, cúc, trúc, mai” là hình ảnh giản dị của cây
chuối, cây xoan, bè muống
trong thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi; là hình
ảnh người ph nữ đa đoan, khí khái trong thơ Hồ Xuân Hương, là “con mắt nhìn
suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ thấu ngàn đời” của Nguyễn Du trong Truyện
iều Tuy nhiên, trong giới hạn nghiên cứu của luận án và để phù hợp với đối
tượng nghiên cứu, chúng tôi hướng quan sát vào sự cách tân thơ trong khoảng từ
đầu thế kỷ XX trở lại đây qua một số hiện tượng tiêu biểu, đáng chú ý.
Đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam chuyển động và vận động theo một
hướng mới, một quá trình mới. Quá trình này không tách rời quá trình biến đổi
lịch sử của dân tộc trong một tình thế tất yếu, khách quan: canh tân đất nước.
18
Nhà nghiên cứu Mã Giang Lân trong cuốn Tiến trình thơ Việt Nam hiện
đại dành nhiều bài viết sâu sắc và có ý nghĩa tổng kết, đánh giá những đóng
góp của các nhà thơ tiêu biểu. Trong bài ước tiến của thơ nửa đầu th kỷ XX
tác giả khẳng định: “M t đồ thị t Phan
(1889 – 1939) đến Trần Tuấn
i Châu (1867 – 1940) qua Tản à
hải (1894 – 1983) và các nhà Thơ mới sau
này không bao giờ là thuận chiều mà luôn c nh ng đ t biến bất ngờ, khi l n
khi xuống, phân nhánh, chia dòng, đ t gẫy, tiếp biến…[76,Tr. 98]. “
lục
bát, thôi không song thất lục bát, câu ch sáng rõ, dễ hi u, không còn ni m
luật gò b … nhưng rung đ ng, cảm h ng vẫn chưa đi vào quỹ đạo thơ mới”
là điều dễ thấy trong thơ Phan Bội Châu. Được coi là “người khơi nguồn đầu
ti n cho v n h c lãng mạn Việt Nam, người ti n phong mở đường chuy n dịch
câu thơ t điệu ngâm sang điệu n i” nhưng Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu vẫn
phải “ở lại gi a ngã ba đường trong cu c bàn giao thế hệ, bởi xét cả về n i
dung và hình th c thơ, Tản
à chỉ cách tân, cách tân tr n nh ng gì đã quen
thu c của truyền thống”[76,Tr. 99]
Nhưng nếu các nhà thơ trong buổi giao thời chỉ dừng lại ở sự cách tân
trong “nội hàm khái niệm” như cách nói của Bakhtin thì Thơ mới 1932 1945 là một bước chuyển dứt khoát, toàn diện từ tư duy nghệ thuật, quan
niệm sáng tác đến thế giới hình tượng và cách thức biểu đạt trong thơ. Các
công trình nghiên cứu của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam, Nguyễn
Quốc Túy trong Thơ mới – ình minh thơ Việt Nam hiện đại, Nguyễn Đăng
Điệp trong Gi ng điệu thơ tr tình, Lại Nguyên Ân trong Tinh huyết của ích
h và giai đoạn phát tri n th hai của Thơ mới... các tác giả nhìn chung
thống nhất trong các đánh giá: Thơ mới ra đời vừa là nhu cầu nội tại của văn
học – nhu cầu cách tân thơ ca khi thời đại đã thay đổi, vừa là sản phẩm của sự
giao lưu giữa văn hóa phương Đông và phương Tây. Trong nỗ lực đổi mới
của mình, Thơ mới đã trải qua hành trình “t xung khắc đến hòa giải với
19
truyền thống” Trần Đình Hượu , từ lãng mạn đến tượng trưng, siêu thực. Và
với thành tựu của mình, Thơ mới thực sự đã tạo ra một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong văn học Việt Nam, đưa thơ ca tiến vào con đường hiện đại,
bắt kịp với sự phát triển của thế giới và tạo tiền đề cho sự phát triển của thơ ca
dân tộc giai đoạn sau.
Cuộc chiến tranh vệ quốc k o dài suốt 30 năm 1945 – 1975 đặt mỗi
người Việt Nam vào một trạng thái khác thường - trạng thái chiến tranh. Nhận
diện và đánh giá những giá trị, đóng góp của văn học Cách mạng 1945 -1975
bên cạnh những đánh giá thống nhất, còn tồn tại nhiều ý kiến trái chiều, thậm
chí có hiện tượng phủ nhận quá đà, nghiệt ngã. Chúng tôi đồng tình với quan
điểm của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong bài viết V n h c Cách mạng
Việt Nam 1945-1975 trong tiến trình v n h c dân t c thế kỷ XX: “Tuy loại
hình v n h c này được xây dựng tr n cơ sở đối lập lại với các loại hình v n
h c đời tư và thế sự trước Cách mạng tháng Tám, nhưng đối lập đây không
c nghĩa thụt lùi, mà tiến tới. N phát huy cảm h ng ph phán đế quốc, thực
dân, phong kiến cũng như cảm h ng nhân đạo chủ nghĩa vốn c trong các
loại hình đ , nhưng nâng l n tầm cách mạng dân t c, phục vụ cho nhiệm vụ
th hiện tinh thần nhân dân và dân t c” [134, Tr.35]. Những bài viết:
ặc
trưng thẩm mĩ của thơ 1945 -1954; Thơ 1954 – 1964; Thơ nh ng n m 1964 –
1975 của Mã Giang Lân; iện mạo v n h c Việt Nam 1945-1975 (nhìn t g c
đ thi pháp th loại) của Lã Nguyên; Thơ giai đoạn 1945-1975, tiến trình và
các khuynh hướng và Về hướng đi của m t nền thơ giàu s c sống của Nguyễn
Văn Long, Sự vận đ ng của thơ ca Việt Nam thế kỷ XX – nhìn t phương diện
gi ng điệu v n chương của Nguyễn Đăng Điệp; Nguyễn
hướng tìm tòi của thơ hiện đại của Chu Văn Sơn
ình Thi và m t
.. và nhiều tác giả khác khi
phác họa diện mạo thơ cách mạng đã đồng thời khẳng định giá trị của thơ thời
kỳ này đối với tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Đáng lưu ý là trong
20
gương mặt chung của thơ ca kháng chiến, lớp thơ trẻ xuất hiện vào những
năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ 1964 -1975 với sự góp mặt của
Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Hữu
Thỉnh, Hoàng Nhuận Cầm
đã tạo nên những lối rẽ bên cạnh dòng chủ lưu
của thơ ca cách mạng. Nhiều bài viết, công trình nghiên cứu Thế hệ các nhà
thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ c u nước – Trần Đăng Xuyền, Nh ng nhà thơ t
cu c chiến tranh – Lê Thành Nghị, M t số phong cách ti u bi u của các thế
hệ nhà thơ trẻ chống Mỹ - Giang Khắc Bình, Luận án Tiến sĩ 2009; Cái tôi
tr tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965-1975 – Bùi Bích Hạnh, Luận án Tiến sĩ
ngữ văn 2013
.. khẳng định những sáng tạo nhất định của những nhà thơ áo
lính về sự mở rộng hiện thực phản ánh, gia tăng chất trí tuệ, chất chính luận,
ngôn ngữ thơ vừa gần gũi với đời sống thường nhật vừa giàu chất triết lí
tạo nên bước chuyển mạnh mẽ từ thơ trữ tình điệu hát sang thơ trữ tình điệu
nói. Đáng lưu ý trong bài viết Thơ chống Mỹ, thành tựu và kinh nghiệm nghệ
thuật, tác giả Nguyễn Đăng Điệp khi khái quát về kinh nghiệm nghệ thuật của
thơ chống Mỹ đã nhấn mạnh “sự cách tân nào cũng phải xuất phát t sự chân
thực trong cảm xúc và sự mạnh bạo trong quan niệm nghệ thuật” và khẳng
định “Thơ chống Mỹ c khả n ng lay th c nhiều người đ c vì các nhà thơ
dám sống đến cùng với số phận của đất nước và nhân dân… đây cũng chính
là kinh nghiệm nghệ thuật lớn nhất mà thơ chống Mỹ đã đ lại cho thời đại
thơ ca tiếp sau” [43, Tr.55]
Từ góc nhìn những cách tân nghệ thuật, chúng tôi cũng hướng sự bao
quát của mình đến những sáng tác thơ ca ở đô thị miền Nam giai đoạn 1954 1975.Trong các nghiên cứu: Toàn cảnh thơ Việt Nam 1945 -1975 của Nguyễn
Bá Thành, Quan niệm về thơ của nh m ạ
ài – Nhìn t sự tiếp biến lý luận
v n h c phương Tây của Hồ Thế Hà; ùi Giáng trong cõi người ta – Đoàn Tử
Huyến, Hành trình đổi mới thơ Việt Nam hiện đại – Nguyễn Đăng Điệp;
21
huynh hướng si u thực trong thơ Việt Nam hiện đại t Thơ mới đến trước
thời kỳ đổi mới – Nguyễn Thị Minh Thương, Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ
văn 2010 . Đã có những nhìn nhận, đánh giá công bằng hơn với giá trị văn
học miền Nam thời kỳ này. Điểm nổi bật là sự phát triển mạnh mẽcủa khuynh
hướng siêu thực với đại diện là nhóm Sáng Tạo Mai Thảo, Tô Thùy Yên và
đặc biệt đậm n t trong thơ Thanh Tâm Tuyền). Ngoài ra có thể nhắc tới hiện
tượng thơ Bùi Giáng và ca từ của Trịnh Công Sơn
Các nhà thơ tìm đến một
thực tại khác – thực tại của vô thức, tâm linh, đi sâu vào những giấc mơ, cõi
mộng mị hư ảo. Khuynh hướng thơ siêu thực không chỉ xuất hiện ở miền
Nam, mà xuất hiện cả miền Bắc thời kỳ này, với những sáng tác của Trần
Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng và phảng phất ở Trần Cao, Trần
Mai Châu... Đương thời, khuynh hướng thơ siêu thực có một số phận trái
ngược ở hai miền Nam – Bắc và đứng ngoài những tiếng nói chính thống
trong văn học. Tuy nhiên cần thấy rằng đây chính là sự tiếp nối mạch nguồn
đã được khơi dòng từ Thơ mới và dù thành công ở mức độ nào thì ý thức tìm
tòi cách tân này cũng là những gợi dẫn quý báu với quá trình đổi mới thơ
đương đại. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này và có những kiến giải rõ hơn ở
phần sau của luận án.
Năm 1975 là bước ngoặt trong lịch sử của đất nước và dân tộc. Đất
nước thống nhất và dân tộc hòa hợp trong một không khí và những điều kiện
mới. Văn học cũng vận động trong những đòi hỏi mới. Quá trình vận động đó
diễn ra qua hai chặng: từ năm 1975 đến 1985 và từ sau năm 1986 Tác giả La
Khắc Hòa trong bài Nhìn lại các bước đi, lắng nghe nh ng tiếng n i chia
cuộc vận động đổi mới văn học thành ba chặng: 1975 – 1985, 1986 – 1991 và
1992 đến nay [84, Tr.55-69]. Nhìn chung, bài viết của các tác giả: Mã Giang
Lân, Nguyễn Đăng Điệp, La Khắc Hòa, Nguyễn Việt Chiến, Phan Huy Dũng,
Lưu Khánh Thơ
và những tham luận về thơ tại hội thảo Sáng tác v n h c
22
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: thực trạng và tri n v ng được Viện văn học
tổ chức vào cuối tháng 5 năm 2015
đã cho thấy sức hút mạnh mẽ của các
hiện tượng thơ sau 1975. Và một trong những điều tạo nên sự thu hút đó có lẽ
chính là bởi sự đa dạng về phong cách, sự phong phú về giọng điệu và những
tìm tòi thể nghiệm cách tân của thơ đang đi theo nhiều ngả đường khác nhau.
Ý thức cách tân ngày càng rõ ràng và trở nên quyết liệt ở nhiều cây bút.
Những công trình như Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân của Nguyễn Việt
Chiến, bài viết Mới – m t ti u chuẩn định giá thơ ca của Nguyễn Đăng Điệp
là những gợi dẫn trực tiếp về những nẻo đường cách tân thơ đương đại rất
đáng lưu ý.
Như vậy, nhìn xa hơn vào những chuyển động của thơ từ đầu thế kỷ
XX đến nay, chúng ta thấy đổi mới, cách tân thơ là một dòng chảy liên t c,
mạnh mẽ trên cơ sở vừa kế thừa tinh hoa văn hóa, văn học dân tộc vừa tiếp
thu những thành tựu của thơ ca thế giới. Một phác họa về quá trình hiện đại
hóa thơ từ góc nhìn cách tân là cần thiết để tạo tiền đề cho những đánh giá về
thơ và trường ca Thanh Thảo - Một nhà thơ có một hành trình sáng tạo bền bỉ
từ phong trào thơ trẻ thời chống Mỹ đến hôm nay.
1.2.2. Những nghiên cứu về cách tân nghệ thuật trong thơ Thanh Thảo
Từ khi xuất hiện trên thi đàn cho đến nay, thơ Thanh Thảo đã trở thành
hiện tượng thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình. Trong đó có thể kể
đến những bài viết tiêu biểu của các tác giả: Thiếu Mai, Lại Nguyên Ân, Sử
Hồng, Trần Đăng Xuyền, Mã Giang Lân, Nguyễn Trọng Tạo, Bích Thu, Mai
Bá Ấn, Chu Văn Sơn
Mỗi tác giả đều có những khám phá riêng, nhưng
nhìn chung, các nhận định khá thống nhất trong việc khẳng định những đóng
góp, những thành tựu quan trọng của Thanh Thảo với nền thơ chống Mỹ và
nền thơ dân tộc.
23